Tập sách NHÀ THƠ XUÂN LY BĂNG CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM do L.M. Nguyễn Thiên Cung và nhà thơ Trần Vạn Giã sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn (Phương Đông xuất bản - 2011), có đăng một bài của La Thuỵ viết từ năm 1999 dưới tên Ngô Minh (trang 201 - trang 207). Tác giả bài viết này được tặng sách trong dịp ra mắt (ngày 13/02/2012, tại khuôn viên nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế - 37 Kỳ Đồng  - Quận 3 - TP HCM ).Nay bài viết được bổ sung thêm gần như toàn văn bài thơ THA LA XÓM ĐẠO của nhà thơ Vũ Anh Khanh, đồng thời chỉnh lại tên tác giả là La Thụy để khỏi bị nhầm lẫn với nhà văn Ngô Minh trong Hội Nhà Văn Việt Nam (LT).
                                                                                                                                  
Đến Với Bài Thơ Hay “La Vang Đất Mẹ”
Của Nhà Thơ Xuân Ly Băng

 
La Thụy/Biên Khảo
.

 
Từ thời còn là học sinh, tôi đã rất đỗi mê say khi đọc bài thơ Tha La Xóm Đạo của nhà thơ Vũ Anh Khanh - Bài thơ viết về một xóm đạo thanh bình, êm ả đẹp như mơ bị giặc Pháp tàn phá gây tang tóc - Trước cảnh quốc phá gia vong, từng người dân Tha La đã bỏ lại tất cả ra đi, cầm vũ khí chống giặc thù cho quê hương trở lại hồi sinh. Thật hạnh phúc cho tôi, khi tìm lại được cảm giác ngất ngây, mê say ấy khi đọc bài thơ La Vang Đất Mẹ của nhà thơ Xuân Ly Băng (in trong tập “Kinh Sầu Trên Quê Hương”).
    Cũng bằng một thể thơ trường thiên phá thể, cùng bằng một chất giọng tự sự, cùng bằng những nhịp điệu bi tráng khi khoan khi nhặt, La Vang Đất Mẹ cùng Tha La Xóm Đạo của hai nhà thơ Xuân Ly Băng và Vũ Anh Khanh đã làm cho cảm xúc, tâm tình của người đọc như tan hòa, đồng nhất cùng giọng thơ kể đượm tình: khi bâng khuâng man mác, khi ứa lệ thương đau hoặc khi rộn rã hoan ca theo từng diễn biến sự kiện. Có lẽ do sống cùng thời với nhau nên chắc hai nhà thơ đã có sự đồng cảm và giao thoa trong nghệ thuật thi ca với nhau.
   Tuy nhiên, do không gian và thời gian cảm tác khác nhau, do bối cảnh lịch sử của hai câu chuyện khác nhau, nhất là do cảm quan và góc nhìn hai tác giả của hai bài thơ nói trên khác nhau, nên nội dung và kết cấu của hai nhà thơ thật khác biệt nhau.
Là người khách qua đường, Vũ Anh Khanh đã ngây ngất trước vẻ đẹp thuần khiết, an bình của xóm đạo Tha La nên đã để cảm xúc trào tuôn:
                    Đây Tha La xóm đạo
                    Có trái ngọt cây lành
                    Tôi về thăm một dạo….
                    Giữa mùa nắng vàng hanh

Vì thế tác giả đã thực sự uất nghẹn, khi lần trở lại Tha La, nhìn thấy xóm đạo tang tóc điêu linh trong khói lửa chiến tranh do giặc Pháp gây nên. Xóm đạo Tha La lúc này hiện lên thật bi thương qua những vần thơ gợi cảm xúc mạnh
                  Ngậm ngùi, Tha La bảo
                  - Đây rừng xanh, rừng xanh,
                 Bụi đùn quanh ngõ vắng,
                 Khói đùn quanh nóc tranh,
                 Gió đùn quanh mây trắng,
                 Và lửa loạn xây thành.

                 Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi
                 Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng

                 Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng.
                 Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
                 Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
                 Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
                 Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ?
                 Ai đưa đón?
                 Xin thưa, tôi lạc bước!
                 Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
                 Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
                 Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
                 Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
                 Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
                 Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
                 Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng
                 Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
                - Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
                - Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
                 Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
                 Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
                 Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
                 - Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
                 Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
                 Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
                 Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
                 Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
                 Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
                 Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
                 Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
                 - Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
 Nhưng là lương dân ngoại đạo, là chiến sĩ Vệ quốc nên Vũ Anh Khanh thật dễ dàng khi viết:                    
                 Lạy Đức Thánh Cha
                 Lạy Đức Thánh Mẹ
                 Lạy Đức Thánh Thần
                 Chúng con xin về cõi tục để làm dân
                 Rồi... cởi áo tu
                 Rồi... xếp kinh cầu nguyện
                 Thênh thang nhẹ bước về trần

Chắc gì người dân xóm đạo Tha La thanh thản “nhẹ bước về trần”? Không! Để làm tròn trách nhiệm con dân thời chiến, họ ắt hẳn quặn lòng đớn đau khi từ giã mọi điều yêu thương: gia đình, cây đa, bến nước, xóm làng quê hương… và chắc chắn họ càng “nặng trĩu” cõi lòng hơn khi phải tạm gác công việc thiêng liêng sớm tối: “tiếng kinh cầu vang vọng” và “ơn tu nguyện hằng ngày”. Đúng, “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, không thể mặc cho giặc thù giày xéo quê hương, người dân Tha La cương quyết dứt áo ra đi “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Nhưng họ chỉ “từ giã” chứ không có “từ bỏ” vì “ra đi” chính là khởi điểm cho “quay về”. Vâng, họ mơ ngày về trên quê hương sạch bóng quân thù; xóm làng lại yên ả thanh bình trong trái ngọt cây lành, trong tiếng kinh cầu an lạc như thuở nào. Xa hơn nữa họ mơ ngày về miền Đất Hứa, chốn Vĩnh Hằng thân yêu cho Đời Sau mà tổ tiên loài người - ông Adam và bà Eva đã gạt nước mắt “ra đi” trước đây.
Cho nên dù không còn mặc áo tu, không cầu kinh thường xuyên, chắc hẳn người dân Tha La vẫn mãi ấp ủ trong tim từng câu kinh nguyện thầm lặng. Có lẽ khi dùng cụm chữ “nhẹ bước về trần” nhà thơ Vũ Anh Khanh chỉ “cách điệu hóa” sự quyết tâm của người dân Tha La khi họ sẵn sàng lên đường đền nợ nước. “Tha La xóm đạo” được bắt đầu bằng hình ảnh mơ mộng của xóm Đạo thời bình và kết thúc bằng hình ảnh tang thương của xóm Đạo trong lửa loạn chiến tranh và những vần thơ hào khí ngút trời được bốc lên từ tận đáy tâm khảm của tác giả Vũ Anh Khanh:
              Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
               Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách
               Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch
               Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng
               Đang đón mây xa - Bỗng khách ngại ngần
               - Kính thưa cụ vì sao Tha La vắng?
               Cụ ngạo nghễ cười rung rinh râu trắng
               Nhẹ bảo chàng: “Em chẳng biết gì ư?
               Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù
               Người nước Việt ra đi vì nước Việt
               Tha La vắng vì Tha La đã biết
               Thương giống nòi đất nước lầm than"
               Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
               Ngày hiu quạnh: Hờ… ơ…ơ tiếng hát
               Tiếng hát rằng: Tha La giận mùa thu
               Tha La hận quốc thù
               Tha La hờn quốc biến
               Tha La hờn tiếng kiếm
               Não nùng chưa: Tha La nguyện hy sinh

              Ờ... Ơ... hơ... Có một đám Chiên lành
              Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
              Quỳ cạnh chúa, đám Chiên lành run rẩy:
              - Lạy đức Thánh Cha!
              Lạy đức Thánh Mẹ!
              Lạy đức Thánh Thần
              Chúng con xin về cõi tục để làm dân...

              Rồi... cởi trả áo tu,
              Rồi... xếp kinh cầu nguyện
              Rồi... nhẹ bước trở về trần...
             Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
             Người hãy ngừng chân,
             Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
             Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
             Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
             Vui gì đâu mà tâm sự?
             Buồn làm chi cho bẽ bàng!
             Ờ... Ơ... Hơ...ờ... ơ hơ... Tiếng hát;
             Rung lành lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
             Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
             Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!

                                       ***
             Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
             Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
             Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
             Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
             - Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
              Hãy về thăm xóm đạo
              Có trái ngọt cây lành
              Tha La dâng ngàn hoa gạo
              Và suối mát rừng xanh
              Xem đám Chiên hiền thương áo trắng
              Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh...
             (VŨ ANH KHANH)

  Ngược lại, La Vang Đất Mẹ, ngoài phần tả cảnh nên thơ ở phần dẫn nhập thì diễn biến câu chuyện khởi đầu là sự ly tán tha hương, là sự lưu vong tủi nhục của những người dân Chúa và kết thúc bằng những hình ảnh diễm ảo siêu huyền của một Thánh địa vang danh. Là thi sĩ công giáo nên Xuân Ly Băng đã viết về La Vang - nơi Đức Mẹ hiển linh cách đây hơn 200 năm - với tấc lòng bái vọng thành kính, nên La Vang Đất Mẹ có chất liệu thơ nghiêm cẩn, hoành tráng và mang tính sử thi hơn. Bài viết này chỉ xin nêu lên vài cảm nhận về bài thơ hay La Vang Đất Mẹ ít được phổ biến của nhà thơ Xuân Ly Băng.
     Vâng, xin hãy dọn mình để cùng thi sĩ Xuân Ly Băng thả hồn vào khung cảnh thơ mộng của miền Đất Thánh thiêng liêng trong nhạc điệu trầm bổng du dương và lời kể chuyện của cây lá xạc xào:
             Đây, La Vang, Thánh địa
             Dừng bước lại khách ơi
             Khách có nghe tiếng gió rít ở chân đồi!
             Lời kể lể rừng hoa sim lá rụng
             Khách có nghe nhạc thùy dương lồng lộng!
             Suối tre vàng theo gió chảy chiều mơ
             Khách có nghe sớm chiều chuông ca hát!
             Rất ngọt ngào ru tình mẹ, khách ơi!

Nào ai biết rằng có được miền đất lành chim đậu hôm nay, những người dân Chúa đã phải trải qua bao gian truân khổ ải trong máu và nước mắt của một thời “sát tả” thương đau trên khúc ruột miền Trung đất Việt ai oán nỗi niềm, họ đã phải dắt dìu nhau lưu vong trên con đường vô định mông lung
                Có một thời
                (Chuyện gần hai thế kỷ)
                Khách ơi!
                Dừng chân tôi kể một lời khách nghe
                Truyền rằng: thuở ấy Sơn Khê
                Tương tàn cốt nhục tư bề gươm đao!
                Trách ai đồn chuyện tầm phào
                Buồn người nông nổi gây bao thương tình
                Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình …
                Lệnh truyền sát tả, não tình dân con
                Xương trắng bãi, máu loang cồn,
                Xóm làng tan nát, Thánh đường tiêu ma!
                Đau lòng trẻ, khổ thân già
                Eo óc tiếng gà dắt díu nhau đi!
                Con đường vô định biết chi,
                Cây đa bến cộ biết khi nào về?
                Nắng mưa sương gió dãi dề
                Ôm cây Thánh Giá lòng tê tái lòng!

 Ôi! Biết bao nước mắt và máu đã tuôn đổ trên con đường lưu vong mờ mịt ấy, nhưng đoàn dân Chúa vẫn kiên trì nhẫn nại nhận lấy thử thách cam go, một lòng kiên trinh hướng về Thiên Chúa ngôi cao, họ đồng tâm thành khẩn dâng lên lời kinh nguyện trong suối lệ chan hòa tại La Vang - nơi tạm trú chân của bầy chiên phiêu bạt:
                Bỗng một hôm chiều rừng
               Âm u đàn gió lá
                Có đoàn người là lạ
                Thiểu não kéo về đây
                Trên trời có đám mây bay
                Đồi hoa sim tím hương bay ít nhiều
                Rồi từ đó chiều chiều
                Rồi từ đó đêm đêm…
                Rừng vang lên lời kinh nguyện
                Nhạc lên rung khí quyển
                Suối lệ chảy chan hòa
                Náo động cả gần xa
                La vang cùng sông núi!

 Lòng thành của đoàn dân Chúa làm cảm động đến trời cao, sự mầu nhiệm đã phát sinh: Đức Mẹ anh linh hiển thánh, ơn trọng thiêng liêng được ban phát, vỗ về: 
               Một đêm kia, khách hỡi
               Có bà áo trắng hiển linh
               Huy hoàng bên một cỗ đình cành đa
               Tay tiên ẵm Chúa nõn nà
               Hào quang thiên sứ giãi ra một vùng …
               Miệng Bà ngọt ánh trăng trong
              “Các con ơi cứ vững lòng cậy trông
               Truân chuyên nhận lấy vui lòng
               Lời kinh Mẹ dạy đã ghi tấc vàng
               Ơn trời Mẹ sẽ trao ban
               Cho ai biết đến kêu van nơi này
               Các con bẻ lá vườn cây
               Đem về gia dụng thấy ngày diệu linh
               Dứt lời Bà mới biến hình
               Bâng khuâng gió tiễn hương trinh về trời

 La Vang, từ đây không còn là nơi hoang dại âm u đầy lam sơn chướng khí mà trở nên vùng đất thánh thiêng liêng phong cảnh hữu tình, được giáo hội tôn xưng là Vương cung Thánh đường cho toàn thể dân Chúa trên thế giới đến chiêm bái, ngưỡng vọng. Hằng năm, giáo lương trong cả nước (nhiều khi cả khách quốc tế nữa) tấp nập tìm về hành hương, miền Đất Thánh lại rộn rã hân hoan trong cuộc rước kiệu “Đức Mẹ La Vang” để mọi người cùng hợp lòng xưng tụng thánh danh Đức Mẹ sáng cả trên trời và dưới thế.
           Rồi từ đó, khách ơi!
           Đoàn di cư tị nạn!
           Lập nương rừng, đốn cây làm gỗ lán
           Xây dựng lại cuộc đời
           Ơn thiêng liêng đã lãnh bởi trời,
           Nguồn sinh lực hào hùng khôn xiết kể
           Non nước này là của riêng Đức Mẹ
           Danh tiếng đồn khắp núi sông gần xa
           Lộc trời xuống tựa sương sa
           Giáo lương tấp nập bao la hội về
           Rừng già chứng chuyện năm tê
           Đêm đêm trút lá nằm nghe ơn lành
           Đồi hoa sim tím trở mình
           Chiều mơ lại thấy hiển linh năm nào?
           Khách nhìn lòng thấy nao nao
           Dừng chân Thánh địa bước vào cửa thiêng
           Mênh mông nắng đẹp siêu huyền
           (XUÂN LY BĂNG)

 Bài thơ La Vang Đất Mẹ như là viên ngọc lấp lánh nhưng được cất kỹ, không được phổ biến nên ít ai biết để cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp quyến rũ của chất ngọc quý un đúc từ lòng sùng tín mộ đạo của Xuân Ly Băng - một thi sĩ công giáo tài hoa - thì thật là đáng tiếc. 

        
 


Nhà thơ Xuân Ly Băng và các thi hữu thị xã La Gi (Bình Thuận)  
 
  Trở lại chuyên mục của : La Thụy