MANG VIÊN LONG

Kỷ Niệm 19 Năm Ngày Mất
Của Nhà Thơ YẾN LAN

(15.8 al - 1998 - 15.8 al 2017)

Yến Lan sinh ngày 2 tháng 3 năm 1916, quê tại thị trấn Bình Định, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông nội Yến Lan là nhà nho, thuộc dòng Minh Hương ở Phúc Kiến.[1] Mồ côi mẹ năm 6 tuổi, Yến Lan sống bằng nghề dạy học tư và viết văn. Ông sáng tác thơ từ sớm và cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn hợp thành Bàn thành tứ hữu (bốn người bạn thơ đất Bình Định) nổi tiếng trên thi đàn lúc đó. Trong giai đoạn này, ông cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên sáng tác theo trường phái Thơ loạn (còn gọi là Thơ điên) với những trăng, xương, máu, hồn ma... trong thơ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là Uỷ viên văn hoá Cứu quốc Bình Định (1947–1949); là Uỷ viên văn hoá kháng chiến Nam Trung Bộ, trưởng đoàn kịch Kháng chiến. Từ 1950 đến 1954 ông làm công tác văn hoá văn nghệ ở Bình Định. Sau 1954, Yến Lan tập kết ra Bắc, trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957, làm việc tại Nhà xuất bản Văn học và tham gia phong trào Nhân văn - Giai phẩm. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, ông trở về công tác tại Hội văn nghệ Bình Định và mất tại đây ngày 5 tháng 10 năm 1998.

Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.



 
Tình Bằng Hữu Trong Thơ YẾN LAN 

Tạp bút Mang Viên Long

Tìm hiểu về thơ Yến Lan, ngoài tình yêu thương dạt dào dành cho quê hương đất nước, thiên nhiên ; cho đến tình Xuân , tình hoa lá… chúng ta còn bắt gặp một số tác phẩm xuất sắc của ông thắm đượm tình bằng hữu sâu sắc, chí thành. Vì vậy, đọc thơ Yến Lan, nếu chẳng đề cập tới tấm chân tình tha thiết ấy thì thật là thiếu sót !
Thuở còn trẻ, Yến Lan đã có những người bạn thơ tâm huyết, chân thật, quý mến, tôn trọng nhau như anh em. Trước tiên, là với Chế Lan Viên, vì “… hai chúng tôi lớn lên giữa thành Bình Định, dắt dìu nhau đi những bước đầu trong văn học…” (Chế Lan Viên – Thơ Yến Lan – NXB Văn học 1987), sau với Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Bích Khê, Đông Hồ… Tháng 4-1982, được thư Chế Lan Viên báo tin đã mua được nhà ở Sài Gòn, Yến Lan viết ngay bài tứ tuyệt gởi tặng bạn :
“Tuổi sáu mươi hai có cửa nhà
Có vườn nắng gió, ngõ sương hoa
Theo thơ, đời mãi làm thân khách
Làm chủ, giờ thêm bạn với thơ…”.

Tình bạn giữa Yến Lan với Chế Lan Viên sâu đậm, thắm thiết hơn với Quách Tấn, Hàn Mặc Tử… bởi lẽ họ có nhiều dịp sống gần nhau hơn, kịp thời chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của nhau hơn… Ngày được tin Chế Lan Viên mất, không kịp vào để tiễn bạn lần cuối, Yến Lan đã khóc: “Thế là mình không tiễn được bạn ra đi nữa rồi!” (Lý do: chuyến vào TP của Hội VHNT Bình Định phút chót không thực hiện được!).
Tình của Yến Lan đối với bạn hữu có vẻ lặng lẽ, sâu kín ; có cả niềm cô đơn trong nỗi thương nhớ khó khuây ấy:
“Sang canh, bìm bịp kêu đầu lán
Đất mới, nhà đơn, lạ láng giềng
Nhớ bạn, nửa đêm ra tựa liếp
Khuyết cong mày bạc ngấn trăng in”
(Nhớ bạn)

Tôi tự hỏi : Đã có ai nhớ bạn, mà đã từng “nửa đêm ra tựa liếp” hay chưa? Yến Lan cũng đã có bài “Tìm bạn cũ” , với hoàn cảnh và tâm trạng thật đặc biệt:
“Chợ cách đò giang, xóm cách đèo
Phải đây nhà bạn đứng cheo leo
Muốn vào, sợ đúng nơi tìm đến…
Vườn cỏ um tùm – sách mốc meo”.

Tìm bạn ở nơi xa xôi, cách sông cách núi ; nhưng lúc vừa nhận ra nơi bạn đã từng sống, lại e dè, ngần ngại ; phải chăng con người bé nhỏ đứng giữa các vô thường rộng lớn, đã trở nên lạ lẫm, sợ hãi chăng? Nhưng sau phút ấy, nhà thơ đã lặng lẽ bước vào, cho dầu chỉ còn nhìn thấy “Vườn cỏ um tùm- sách mốc meo!”.
Tình bạn nơi thơ Yến Lan thường chung nhịp xúc cảm với tình quê sâu lắng. Có lẽ vì thế, trong tình bạn man mác, có cả hơi ấm nồng nàn bất tuyệt của tình quê, làm thơ ông dễ dàng đi sâu vào lòng người. Ví dụ như bài “Tiếng chuông xóm núi” :
“Ghé thăm chùa cổ gặp sư già
Nhận khách đồng hương, kể chuyện nhà
Xóm núi chiều nay kinh kệ vắng
Lòng sư còn bận nhớ quê xa…”

Rõ nét hơn là ở trong bài “Uống rượu với bạn đồng hương”: bài thơ dài 11 đoạn ngũ ngôn tứ tuyệt, được Yến Lan viết đúng vào ngày 2-3 (1972) – ngày sinh nhật thứ 57 tuổi của ông.
Bài thơ mở đầu:
“Thường ngày ít hay rượu
Giờ cầm chén với anh
Khuấy men nồng chuyện cũ
Cho mình gặp lại mình…”.

Tình người lại càng đậm đà, dào dạt trong men rượu. Từ “thương tuổi nhỏ ta nghèo” (2) với “ những vần thơ ban đầu” (3), “rồi năm tháng cách xa” (đoạn 4), đến “vì đất nước biệt nhau” (đoạn 5).
Và :
“Nào rót nữa, uống đi
Nguồn say còn lai láng
Chén nhớ hãy rót đầy
Chén mừng đừng để cạn…

Thơ Yến Lan nói tới rượu, uống rượu rất hiếm; nhưng có lẽ trong bài “Uống rượu với bạn đồng hương”- nhà thơ đã… uống hơi nhiều:
“…Ta uống mừng tuổi ta” (đoạn 7)
“… Ta uống chúc vợ hiền” (8)
“… Ta uống ngợi con khôn” (9)

Nhà thơ đã hơi “chuếnh choáng” vì tình người tình rượu:
“Giá có giọng hát tươi
Ta cất tung trời đất
Được giải hết niềm vui
Lời say thường vốn thật”

Kết thúc buổi “uống rượu với bạn đồng hương” trong dịp kỷ niệm ngày sinh nhật, là “kê gối vào giấc ngủ” Ôi! Giấc ngủ thật dễ thương, hạnh phúc làm sao!
“Kìa mặt trăng đêm nay
Tựa yên thành cửa sổ
Hẳn vì thấy ta say
Kê gối vào giấc ngủ!”.

 

BÌNH ĐỊNH Qua Ba bài Thơ Của YẾN LAN
Tạp bút: Mang Viên Long

 

Trả lời câu hỏi “Nơi nào đẹp nhất”, một nhà văn đã nói: “Nơi tôi đã được sinh ra và lớn lên…”. Quả thật tình yêu thương và lòng trân trọng của mỗi người đều đã được dành cho “quê nhà” của mình hơn bất kỳ một nơi nào khác. Ở người nghệ sĩ, tình thương ấy dường như đã được nhân lên, biểu lộ rõ nét trong tác phẩm nghệ thuật… Nhà thơ Yến Lan đã viết về chốn quê nhà đằm thắm, thiêng liêng ấy đến ba bài thơ. Dài 43 đoạn tứ tuyệt, gồm 172 câu, thời gian cách nhau từ 10 đến 30 năm…

Bài thơ đầu tiên: “Bình Định 1935” được sáng tác lúc tác giả vừa tròn 20 tuổi. Trước khi tìm hiểu thêm về hoàn cảnh, tâm sự, tình cảm của ông khi viết nên tác phẩm này, thiết tưởng cũng nên ghi chú thêm một điều : địa danh “Bình Định” được đề cập, chính là thị trấn Bình Định – trước thuộc thôn Hưng Định, xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn, là thành Bình Định cũ, cũng thuộc phạm vi thành Đồ Bàn … Yến Lan tuy sinh ở thôn Ngãi An, nằm về phía bắc thị trấn vài cây số, nhưng ông đã sống ở thành Bình Định từ lúc nhỏ.

Với Yến Lan, Bình Định 1935 là một không gian cách biệt, buồn bã, làm héo hắt lòng người :
“… Ôi Bình Định, hương phong trường cách biệt 

Những bâng khuâng trong đức hạnh sương hoa 
Nhà ngơ ngẩn, những tường vôi keo kiết 
Nam Quách sầu, Đông Phố quạnh, Tây Môn xa…”

Trong một nơi chốn quạnh hiu, ảm đạm như thế, Yến Lan lại về sống tạm ở một ngôi chùa – chùa Ông- như một kẻ xa lìa hẳn dòng sống với nỗi u buồn không nguôi. Nhưng ở vào tuổi thanh xuân, bầu nhiệt huyết luôn âm ỉ, thúc giục, nhà thơ đã có lúc nhìn lên, xa hơn, tới một khung trời thoáng rộng, xanh thẳm với bao ước mơ, hy vọng:

“Hoa tư tưởng phân thân chiều gió trải 
Trời xa xôi hồ hải nói trong tâm
Ôi Bình Định sao nằm trong mãi mãi
Đĩa dầu vơi, tim cháy ngọn âm âm…”

Và nỗi khao khát, ước mong thầm kín kia, đã biến thành hiện thực – “Bình Định 1945”:
“Không ; Bình Định đã qua rồi cơn sốt, 

Nước da vàng lột theo vỏ cây khô
Dấu xe ngựa đã niêm đầy ngõ cụt,
Trăng lạc loài gặp lại giữa đêm thu…”

Sự thay đổi mầu nhiệm, như có sức mạnh thần kỳ, đã làm chuyển hóa mọi cảnh vật, lòng người: Luồng gió cách mạng đã thổi vào quê nhà một sức sống mới, cuốn hút mọi trái tim ; Bình Định cũng bừng lên sau năm tháng dài chìm lắng , trong tăm tối. Trong niềm vui chung của đất nước, của quê nhà, nhà thơ luôn cảm thấy tâm hồn rạo rực, sống động, như vừa được hồi sinh cùng đất trời :

“… Tôi đi giữa những vườn gòn thẳng tắp 
Ôm trong lòng biển lớn vỗ non cao 
Bông rụng xuống mái đầu nghe ấm áp 
Như mái đầu lót tổ đón chim sao”

Và mỗi bước chân đi dạo khắp quê nhà cùng với lòng hân hoan “Bỗng thấy quanh mình hát núi, ca sông” :

“Qua trường cũ thấy rạt rào sóng ngói 

Lòng bỗng dưng thơm mùi giấy học sinh 
Trên trang sách của cuộc đời đổi mới 
Nghe thơ về bay vút cả trời xanh”

“Bình Định 1945” đã qua rồi cái thuở u uất, tối tăm – “Ôi Bình Định, đau thương gài trước ngõ”, để đón ánh bình minh của cách mạng – của độc lập, tự do… cho bao cảnh đời, bao trái tim, bao cuộc tình nở ngát hoa hy vọng.
Hai mươi năm sau, quê hương hoàn toàn thống nhất, Yến Lan đã trở về quê nhà Bình Định – và “Bình Định 1975 – 1976” được ông ghi lại qua một bài thơ dài 13 đoạn tứ tuyệt.

Ở vào cái tuổi 60- sau hơn hai mươi năm xa cách, biết bao đổi thay, bao hạnh phúc- khổ đau; tác giả trở về với niềm vui, cùng nỗi buồn :

“Tôi trở lại với mái đầu đốm bạc 
Bé u ơ nhà lạ đón nhìn “ông” 
Láng giềng cũ quá nửa phần xiêu dạt 
Cả bầu trời cũng vợi hết mênh mông”

Bình Định đã không còn những dấu tích kỷ niệm xưa cũ; đã “biến dạng” theo cuộc sống 21 năm khói lửa; tâm hồn người về bỗng trở nên xa lạ, có chút bàng hoàng, chua xót, trong cái gặp lại, nhìn ngắm ban đầu. Nhưng sau phút giây chạnh lòng, ngỡ ngàng ấy – nhà thơ đã có biết bao niềm an ủi, niềm vui về tình người, tình đất:

“Mặt bè bạn đông dần quanh gác xép
Trời rưng rưng, sông nước cũng rưng rưng
Ngoài nghìn dặm hai mươi năm cách biệt
Lạ vẫn từng quen hờn tủi vốn vui mừng”

Bình Định xưa đã sống lại cùng bao kỷ niệm một thời tuổi trẻ mộng mơ, tràn đầy nhiệt huyết hiến dâng; đã đem lại cho nhà thơ niềm tin yêu hơn, trân trọng hơn:

“Cùng nhớ lại những nguồn vui nhỏ nhất 
Bông gòn bay, chùm me rụng thành xưa 
Bình Định đây,từng sợi tơ cái tóc 
Vẫn chứa chan, tin tưởng tự bao giờ”

Hòa chung cùng với niềm vui lớn của đất nước, Bình Định như cũng sống động hơn, tươi thắm hơn dưới đôi mắt nhớ nhung của người về:

“Trời Bình Định long lên mắt thức 
Tôi bước trongrạo rực nhạc đời ngân 
Xe nối tiếp đoạn đường Nam – Bắc 
Ga dồn toa đầu ngõ những nông trường. 
Xanh sắc lại, mênh mông trời rộng mở 
Hồn ta nay ước choáng cả không gian 
Ơi Bình Định, từ con tim ấp lửa. 
Bừng lên – bừng thành một cuộc hoa đăng”

Có thể nghĩ nhà thơ Yến Lan là người đầu tiên viết về quê nhà Bình Định một cách đầy đủ, sâu đậm ; tạo nhiều dấu ấn lâu dài cho người đọc hơn hết. Ông nặng tình với quê, nhiệt tình với nước; trong một thời gian ròng rã gần 40 năm, để ghi lại thành 3 bài thơ bất hủ cho văn học…

(Báo Bình Định số 1312 ngày 28-7-2000)

  Trở lại chuyên mục của : Ban Biên Tập