Những Nhận Định&Phê Bình Tiêu Biểu về MANG VIÊN LONG (II)         


3.Mang Viên Long Và Tôi, Văn Kỳ Thinh…
 
 Trịnh Bửu Hoài
 
 
Cuối năm 1970, khi còn đang học trung học ở Long Xuyên, tôi nhận được tập truyện Mùa Thu Trống Trải do anh Mang Viên Long gởi tặng. Đây là tập truyện thứ hai của anh, sau Trên Đỉnh Sa Mù, cả hai tập đều do Nhà xuất bản Nhị Hồng in ấn. Nhà xuất bản nầy do Mang Viên Long và Hoàng Đình Huy Quan chủ xướng. Và cái tên Nhị Hồng cũng thú vị lắm, Hoàng Đình Huy Quan nói với tôi cả hai anh đều có người yêu tên Hồng.
Tập Mùa Thu Trống Trải in khổ 12 x 18,5 cm, xinh xắn dễ thương, chỉ dầy 114 trang với 6 truyện ngắn nhưng in chữ nhỏ, cở véro 10, tôi đọc vèo một buổi là hết. Đây không phải là lần đầu tiên tôi đọc truyện Mang Viên Long, mà trước đó tôi đã đọc anh trên tạp chí Văn, Bách Khoa, Vấn Đề… Và tôi rất thích văn phong của anh, gặp truyện của anh là tôi đọc. Anh là một trong vài người viết trẻ đáng đọc thời bấy giờ. Tôi rất vui khi được anh gởi tặng sách, dù chỉ biết tên nhau trên báo.
Từ đó chúng tôi coi như đã quen nhau, cho tới 40 năm sau, tôi và anh mới có dịp gặp mặt nhau. Tôi nghĩ mà thấm thía câu người xưa đã nói: “Văn kỳ thinh bất kiến kỳ hình”
Nhưng điều làm tôi nhớ nhất là trong một ngày mưa gió cuối năm 1971 ở giữa núi rừng Thất Sơn, trong cơn khát sách báo văn chương, tôi vô cùng bất ngờ khi nhận được tập truyện kế tiếp của anh gởi từ Tuy Hòa vào, tập Phố Người, Nhà xuất bản Đồ Bàn ấn hành. Lúc nầy tôi biết Nhị Hồng đã rã, Hoàng Đình Huy Quan thành lập Nhà xuất bản Đồng Dao, còn Mang Viên Long thì chủ trương Đồ Bàn. Phố Người cũng chỉ 6 truyện ngắn, cũng chữ véro 10, nhưng với khổ 13 x 19 và in trên giấy màu xanh nhạt rất đẹp, không biết đây có phải là bản đặc biệt?
Tôi như vớ phải manh chiếu trong cơn buồn ngủ, đọc ngấu nghiến Phố Người mà lòng thầm cảm ơn anh còn nhớ đến tôi và chịu khó gởi sách tới tận cõi biên thùy heo hút nầy. Thời gian sống như kiếp lưu đày ở đây, tôi không thể tìm được một tờ báo chớ đừng nói là sách. Cho nên, nhận được một cuốn sách của bạn bè nó quí biết dường nào. Và những nhân vật trong Phố Người đã sống cùng tôi một giai đoạn cuộc đời. Như Khắp của Một cõi đời riêng cùng tâm trạng tuổi trẻ trong chiến tranh, phải ra đi và đau đáu một nỗi quay về: “Khắp cũng mong được trở về, sống lại những chuỗi ngày phẳng lặng êm ả cũ để rũ sạch hết mọi vướng bận chằng chịt có hồi đã làm anh quẫn trí, điên cuồng. Bây giờ thì Khắp đã tự tay mở rộng đôi cánh cửa của một vùng nắng gió hoa lá kỉ niệm như cõi lòng mình mở rộng, đợi chờ…”. Cuối cùng, mình cũng mong được lạc quan như Khắp: “Tự dưng Khắp bỗng thấy như trong cõi đời riêng mình, một mặt trời thân yêu sắp mọc…”. Những con người rất đẹp, nhân hậu và thủy chung nhưng trong chiến tranh, họ có thể nào chung thủy khi một lần ra đi không dám hẹn ngày trở lại, một lần trở về cũng có thể là sau cuối. Một Cửu trong Nấm mồ còn lại, đã tới nơi: “Những con đường lẩn khuất dưới những tàn cây, ẩn hiện phai mờ trong cái vắng vẻ, nghèo khổ của một quận lỵ miền núi ít dấu chân người lui tới”, thì trái tim của anh nên để lại nơi nầy hay mang về cho người con gái quê xưa. Nhưng thực ra, anh không dám thực lòng yêu một ai, không để một ai vì mình. Tết nầy anh về quê chỉ vì những nấm mồ. “Giá không có những nấm mồ kia, thì miền đất anh trở về sẽ vô cùng trống trải, sẽ vô cùng hoang mang, sẽ vô cùng tủi thân cho anh biết chừng nào. Nấm mồ còn lại cho anh tuy là chứng tích của bao nỗi hải hùng đứt ruột nhưng vẫn là nơi còn lại cho anh nghĩ tới để những giọt nước mắt được vỗ về. Những người còn sống (ngoại trừ người chị với đôi mắt còn trông chờ ở ông Trời), Cửu không tìm thấy chút nào gần gũi níu giữ gót chân anh, và buồn hơn là anh cũng không tìm thấy nguồn an ủi nào cho những giọt nước mắt…”. Hay là tôi trong Phố người, từ rừng sâu trở về thành thị gặp gỡ bạn bè và mỗi người một tính cách, một số phận khác nhau. Truyện của anh như tấm gương soi vào thân phận, tình yêu tuổi trẻ, khi “…mọi bả xa hoa sung túc đều làm thui chột hết mọi niềm tin, phấn đấu nơi con người…”. Khi đọc Phố người, tôi hiểu thêm cuộc đời bất hạnh của anh, và từ hoàn cảnh nầy, anh đã đi lên bằng đam mê và nghị lực. Anh “đã sống qua một thời tuổi nhỏ vô vàn đau xót: Cha mất khi hãy còn là một bào thai non yếu quằn quại trong bụng Mẹ. Tám năm sau, một giờ sáng ngày 27 tháng 10 (âm lịch) giữa mùa mưa bão mù trời thời kháng chiến người Mẹ đã thở hơi cuối cùng vì bệnh lao bởi đã khổ nhọc và cô độc trong nửa đời góa bụa bị lường gạt. Từ đó, sống quấn quít nghèo khó bên anh và chị. Sống ngơ ngác lạc lõng giữa bà con họ hàng. Lớn lên như một thân cây rừng cô tịch…” (trích Phố người). Anh dạy học và viết văn. Những trang viết của anh đầy ắp tình người và khát vọng yêu thương.
Sau ngày hòa bình, tôi bặt tin anh. Đôi lần đến Tuy Hòa, tôi được gặp lại và đối ẩm với anh em văn nghệ cũ như Hoàng Đình Huy Quan, Khánh Linh, Trần Huiền Ân, Nguyễn Lệ Uyên, tôi có ý tìm anh nhưng các bạn nói anh ở Bình Định. Khi ghé Qui Nhơn, tôi mới được biết anh ở Bình Định nhưng là thị trấn Bình Định, thuộc huyện An Nhơn. Tôi không nhớ ai cho tôi địa chỉ nhà anh và từ đó tôi liên lạc thư từ với anh. Anh em mừng như được tái ngộ sau thời gian dài xa cách. Có in được gì chúng tôi đều gởi cho nhau đọc. Lúc chưa có điều kiện xuất bản, anh vẫn viết đều, rồi đánh máy vi-tính, đóng thành tập rất trang trọng gởi vào tặng tôi “để làm kỷ niệm”, như tập “Vầng trăng khuyết”, dầy 120 trang khổ 14,5x20,5 với 10 truyện ngắn. Sau nầy, tác phẩm của anh được nhà xuất bản in ấn và phát hành. Tôi rất mừng cho những đứa con tâm huyết của anh được chào đời có tên tuổi nhãn hiệu đàng hoàng với hàng nghìn bản chớ không chỉ là vài ba bản gởi bạn bè kỉ niệm và đọc chơi. Dù có trong tay những cuốn sách còn nóng mực in, nhưng tôi vẫn giữ những quyển sách do anh tự tay đóng cuốn và dán bìa như một kỉ vật trong tủ sách của mình. Khi nhìn lại những quyển sách ấy, tôi hiểu được nỗi lòng của người cầm viết, sáng tác vì nghiệp dĩ, vì đam mê; dù biết rằng viết ra chưa biết in ở đâu, có nơi nào xuất bản không, nhưng vẫn viết, như có lần anh tâm sự: Chúng ta đam mê trong chuyện viết lách chẳng qua cũng là… một cái “nghiệp”! Đã là nghiệp – là phải thọ khổ đến 90%. Sau đó, phần ít ỏi còn lại, là một sự thư giãn, giải trí để còn có thể… tiếp tục sống. Ở đời, có nhiều trò chơi – chúng ta tự chọn cho mình cái trò chơi “chữ nghĩa” – quả thật là nhiêu khê (và ít nhiều nguy hiểm/hy sinh). Đành vậy – biết sao? (trích thư riêng ngày 20-11-2007).
Có lúc anh gởi vào tặng tôi một bài thơ, tôi biết anh có làm thơ nhưng rất ít, chỉ in một hai bài ở Bách Khoa vào đầu thập niên 1970, sau đó không thấy nữa. Bây giờ anh làm thơ, có lẽ đang có một chút tâm trạng, một chút cảm xúc mà chỉ có thơ mới gởi gắm được. Tôi đọc và đồng cảm với anh: Ngó lại mình/Những năm tháng lang thang/Những năm tháng dài/Trên từng mái nhà rêu vắng/Gặm nhấm nỗi buồn/Trong từng vũng tối/Thênh thang… (Thơ khai bút đầu năm – mùng 7 tết Quí Mùi).
Một lần, khoảng đầu thập niên 1990, tôi nhận được bức ảnh chân dung anh mặc bộ quần áo nhật bình nâu vạt mẻ mà anh nói là Ngô Phan Lưu đã lên chùa Phi Lai thăm anh và chụp cho. Anh đã trở thành tu sĩ rồi sao? Đây là thời gian anh thường lên chùa, ít có ở nhà, cần việc gì tôi gọi điện gặp con anh làm trung gian giữa hai người. Anh ký thêm tên Huệ Thành trên một số bài viết hoặc thơ ( đăng trên bán nguyệt san Giác Ngộ) với nơi sáng tác ghi là “Lập Tâm tịnh thất” - có lẽ là pháp danh; từ giai đoạn nầy, một giai đoạn cần thiết cho đời người qua lăng kính Phật giáo soi lại mình, mở ra một triết lý sống  khi chân, thiện, mỹ đang đơm hoa kết trái trong tâm hồn. Đó cũng là cơ duyên để anh mở cửa kho tàng nhân bản trong trái tim mình cho các tác phẩm thâm thúy sau nầy. Sau đó, trong một lá thư, anh gởi tặng tôi bốn câu thơ lục bát, chỉ vỏn vẹn 28 chữ, nhưng đã khái quát cuộc sống của anh lúc bấy giờ: Nguyện cầu xin được vô tâm/Mà sao hạt vẫn nẩy mầm thương yêu/Bâng khuâng một ráng mây chiều/Buồn tênh một mảnh trăng xiêu cuối mùa (tháng 8-1998).
Đến năm 2003, tác phẩm thứ sáu của anh (sau hơn 20 năm không có tác phẩm xuất bản) là một tập truyện ngắn có tựa đề đẹp như một bức tranh: Biển của hai người, được xuất bản trở lại sau ngày hòa bình. Có thể nói đây là niềm vui của anh và bạn bè sau 31 năm gián đoạn. Và đây cũng là bàn đạp để anh vượt lên, thể hiện tài năng và sự sung sức của mình. Trong vòng mười năm, anh cho ra mắt đọc giả mười hai tập sách, trong đó có 10 tập truyện và 2 tập tiểu luận, tạp bút. Tổng số tác phẩm của anh hiện nay đã lên đến con số 17. Nghe đâu, anh còn hai tập truyện ngắn và một tập tiểu luận tạp bút (tập 3) trong dạng bản thảo và… chờ in.
Hai tập tiểu luận và tạp bút Như những giọt sương cọng lại dày gần 1.000 trang với nội dung phong phú và đa dạng, gồm các bài viết về đạo Phật, về văn học nghệ thuật, về đời sống. Nhận định sâu sắc, cảm xúc dồi dào, trải nghiệm chân tình… là những ưu điểm để anh chinh phục người đọc: Buồn thay, ai ai cũng có đôi tai (và khối óc), nhưng qua bao thế kỷ trầm luân, khổ đau vẫn “làm lơ” để tạo nhiều điều ác, nhiều khổ đau cho con người trên khắp hành tinh, chỉ vì “cái lợi nhỏ và vui nhỏ” giả tạm của riêng bản thân mình (Vài suy nghĩ về một câu kinh Pháp Cú). Những điều đơn giản ấy không phải ai cũng nghĩ ra. Trong phần Văn học nghệ thuật và tôi anh viết về bạn bè văn nghệ và những tác phẩm mà anh thích. Từ những người đã mất như Nguyễn Nho Nhượn, Yến Lan, Quách Tấn, Trần Phong Giao, Y Uyên, Võ Hồng, Trịnh Công Sơn, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Mộng Giác, Trương Thìn, Huỳnh Kim Bửu… đến các anh chị em vẫn còn sống và viết ở trong, ngoài nước như Tôn Nữ Hỷ Khương, Trần Huiền Ân, Đặng Tấn Tới, Phạm Cao Hoàng, Lê Văn Trung, Nguyễn Như Mây, Trần Vạn Giã, Hoàng Lộc, Đỗ Hồng Ngọc, Cao Thoại Châu, Chu Trầm Nguyên Minh, Lữ Kiều, Linh Phương, Nguyên Cẩn, Thích Thiện Đạo, Thích Giác Tâm, Tống Anh Nghị, Lê Phương Châu, Trần Minh Nguyệt, Nguyễn An Đình… Những trang viết của anh đầy ắp kỉ niệm và tình cảm như rót ra tận đáy lòng. Quá khứ sống lại với từng dòng cảm xúc qua những câu chữ giản dị, chân thành nhưng bàng bạc một màu trăng sáng mãi hồn nhau. Anh không chỉ viết về bạn, viết cho bạn mình mà còn viết cho đời những trang hồi ức thủy chung rất đẹp. Một mình đau xót cảm nhận thêm một sự mất mát lớn trong đời. Cuộc vô thường của trời đất… Hôm nay, gần đến ngày giỗ thứ năm của Anh, nơi chốn quê nhà quạnh hiu nầy, tôi lại nhớ anh: “Một nhà báo chân chính, tài năng, và vô cùng độ lượng đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp văn học” (Nhân kỷ niệm 5 năm ngày mất nhà báo và người sáng lập tạp chí Bách Khoa Lê Ngộ Châu).
Quê hương miền Trung nắng gió và những vùng đất anh đã đi qua, đã sống; trong đó có những việc, những người… để lại trong lòng anh những dấu ấn không phai, và bây giờ là sống cùng anh trên những trang viết mặn nồng tình nghĩa. Tôi thật sự không có “vợ” ở Phú Yên, nhưng lại có “nợ” với Phú Yên nhiều lắm. Sâu đậm và thiết tha lắm! Đó là món nợ với “Cuộc đất và tình người” Phú Yên. Bởi vậy, lâu lắm là một hai năm tôi phải trở về Phú Yên. Có năm đến hai lần ghé lại. Có lần chỉ kịp nhìn mặt con phố, gọi điện đến thăm vài người bạn, rồi ra đi. Có lần lây lất với Tuy Hòa cả tháng, hai ba tháng… Đó chẳng phải là “nợ” – duyên nợ, thì gọi là gì? Cái “nợ” ấy ám ảnh tôi, day dứt không nguôi, những lúc chưa “đủ duyên” để trở về. Bạn có tin rằng, trong nhiều đêm, tôi đã mơ thấy Tuy Hòa chập chờn trong giấc ngủ chăng? Tuy Hòa êm đềm, quyến rũ, đã thầm gọi trong tôi qua bao tháng năm xuôi ngược, gian khó (Phú Yên dễ ở, khó về).
Truyện ngắn và tiểu luận - tạp bút của Mang Viên Long như những thông điệp gởi từ trái tim của một con người đã đi qua thăng trầm của cuộc sống, qua vùng bóng tối và ánh sáng của đời người, để lại những giọt máu nở hoa trong cõi nhân gian quá nhiều bể dâu nhưng cũng không ít địa đàng…
 
Tây Nam bộ 17-9-2013
T.B.H

 

4. MANG VIÊN LONG,
Bền Bỉ Một Đời Văn

 
Hùynh Văn Mỹ
 
Ông ngồi bên chiếc tủ nghề đặt nơi vỉa hè của con đường dẫn vào chợ nơi phố huyện quê ông, đang cặm cụi với công việc. Vẫn chiếc tủ hành nghề, vẫn công việc hệt như bao người thợ sửa khóa khác, có điều ông đã quá tuổi so với cái nghề vốn thường dành cho lớp trẻ, lớp trung niên. Vừa giũa-mài-cắt-gọt từng chiếc chìa khóa dường như ông cũng vừa đeo đuổi những dự phóng, những suy tư cho trang viết của mình với nếp trán đăm chiêu. “Mang Viên Long, “ông giáo già sửa khóa” đó à? Ổng hay lắm đó, vừa sửa khóa, vừa viết lách, hễ không có khách thì ổng trật quyển tập ra kê trên chiếc ghế nhỏ mà viết, viết hoài viết hủy vậy đó….”, nhiều người ở thị xã An Nhơn (tỉnh Bình Định) đã nói khi tôi hỏi tìm đến ông...
Phố huyện An Nhơn vừa mới được “lên” thị xã từ tên cũ là thị trấn Bình Định – nơi có thành Bình Định, cái tên được lấy đặt tên tỉnh. Thị xã vẫn không mấy lớn, không nhiều cách tân, nét xưa dáng cũ vẫn còn. Đến nhà ông Mang Viên Long phải vượt qua một cổng chào đường bệ trên con đường lớn của thị xã, rồi tẻ vào con đường nhỏ mang tên mới Thanh Niên nhưng tên phường được giữ nguyên tên cổ: Bình Định, cách chỗ ông hành nghề sửa khóa chỉ hơn một cây số.
 
NHỌC NHẰN TRANG VIẾT
 
Ngôi nhà ông đang “ tá túc ” – nói theo lời ông, là của người con trai út, mới lập gia đình nhưng lại sống theo quê vợ và đang làm việc ở huyện kề bên, thành ra ông đang sống một mình. Từ mớ sách trên bàn, ông lấy ra hai quyển còn thơm ngái mùi giấy mới, hồ hởi: “Mình mới ở Sài Gòn về. Vừa để “xem trước” quyển sách sắp ra, vừa nhờ một vài bác sĩ là bạn bè ở trong ấy coi lại sức khỏe cho mình. Nhân tiện lấy luôn một ít tác phẩm mới in hồi tháng trước của mình về cho bạn bè, cho người đặt mua...”
Mở bìa của hai tác phẩm vừa in ra đã thấy “Như những giọt sương” là quyển thứ 17 của ông. Ở phố huyện quê nhà ông, cả ở thành phố Quy Nhơn cách chỗ ông chừng 20 cây số không ai gọi ông với cái danh vị nhà văn kèm theo tên như thường gọi những nhà văn khác mà chỉ gọi thẳng tên ông thôi. Cũng dễ hiểu, ông chỉ là một người lao động chân tay tranh thủ chút thì giờ dôi ra từ công việc, cả nhín ngủ ban đêm để viết lách. Hơn ba mươi năm nay, kể từ ngày ông rời bục giảng, người ở đây vẫn thấy ông là một người làm đủ mọi việc – một “thợ đụng”, từ cuốc đất, dọn vườn đến phụ hồ, sửa xe đạp, xe máy..., và sửa khóa là nghề ông trụ lại khi cơ bắp bắt đầu xuống sức.
Ít ai biết trong những tháng năm cực nhọc, dãi dầu tay bút ông vẫn đêm đêm miệt mài trên trang giấy. Hàng trăm truyện ngắn, hàng trăm bài tạp văn, tiểu luận của ông đã được viết từ bàn tay chai sần của nghề lao động chân tay trải từ quê nhà cho đến nơi viễn xứ. Một sức viết, một sự thắng vượt gian nan cho văn nghiệp đáng trân trọng. Nhưng ông vẫn khiêm nhường : “Có gì đâu, hễ ai yêu cuộc đời, yêu văn chương thì làm được thôi mà!” Và cũng từ tính khiêm cung, lặng lẽ của một người lao động giữa chợ đời đó của ông, ít ai biết ông đã đến với văn chương từ rất sớm. Ở miền Nam thời trước, với những ai hay đọc sách-báo, cái tên Mang Viên Long đã khá quen thuộc, gần gũi với họ. Là một cây bút truyện ngắn được định danh ngay từ những tuyển tập tryện ngắn xuất bản từ những năm đầu của thập niên 1970, cây bút Mang Viên Long – tên thật cũng là bút danh của ông – đã chiếm được tình cảm của người đọc nhờ ở bút pháp dung dị, trong sáng, cốt truyện luôn bám sát những phận người, tình đời, thời cuộc. Ngoài những tập truyện được in sách, truyện ngắn, tạp văn, tiểu luận, phê bình văn học của cây bút - nhà giáo trẻ Mang Viên Long cũng góp mặt thường xuyên trên những tạp chí có tiếng lúc bấy giờ: Văn, Bách Khoa, Phổ Thông, Khởi Hành, Ý Thức, Tuổi Ngọc...
Được cầm bút viết là hạnh phúc, trong câu chuyện, ông luôn nhắc đi nhắc lại. Ông kể, năm 1978, khi nghỉ dạy (môn Việt văn và Anh ngữ), vì cuộc sống gia đình có quá nhiều khó khăn, bức bách, ông cứ e mình khó mà cầm bút lại. Nhưng canh cánh với nghiệp văn chương, chỉ dăm năm sau,  giữa khó khổ vây bủa tư bề ông đã cố nối lại duyên xưa với trang viết, cả những khi dạt vào Nam kiếm sống. Như hoa vẫn nở trên nền sỏi đá, và lục bình vẫn vừa trôi vừa trổ bông! (*)
 
LIỀN MẠCH YÊU THƯƠNG
 
Với gần 200 truyện ngắn được in, “nhà văn không thẻ” Mang Viên Long quả là cây bút có lượng truyện ngắn đồ sộ. Sao với văn tài như vậy, ông không viết tiểu thuyết? Vẫn điềm đạm, ông cho hay cuối năm 1974 ông đã hoàn thành tiểu thuyết “Thân như ngọn cỏ”, chưa kịp in, rồi bản thảo cũng bị mất vì loạn lạc. Viết truyện ngắn với ông như là nhu cầu tối ưu vì ông muốn “ghi” lại được nhiều hơn, thật hơn những gì bày ra ngồn ngộn trong cuộc sống,  nhất là từ những buồn vui, được mất từ những phận đời bình dân, hèn mọn, những số phận hẩm hiu, chìm khuất vắt qua thời cuộc. Ngay từ buổi đầu cầm bút, ông nhận ra thể loại truyện ngắn có thể giúp ông dễ đạt sở nguyện trở thành người thư ký của cuộc đời hơn là viết tiểu thuyết. “Bạn đọc ngay từ đầu đã “chọn” mình viết truyện ngắn rồi mà, làm sao mà mình bỏ truyện ngắn được”, ông nói và cười hiền. Những tập truyện của ông được in trước năm 1975 mà ông đang có được là nhờ bạn bè cùng những bạn đọc không quen ở xa gởi đến tặng lại ông nhờ họ biết được địa chỉ của ông sau ngày ông “trở lại” văn đàn, năm 2003.
Vẫn giọng văn của ngày nào, trong trẻo, nhẹ nhàng, không chỉ người đọc cũ, ngay cả người đọc mới vẫn thích văn ông, truyện ông hôm nay. Giũ liền mạch viết từ tấm lòng thiết tha với cuộc đời, hàng trăm truyện của ông là những lát cắt tươi rói từ cuộc sống với những nhân vật, những cảnh ngộ ai cũng thấy đâu đấy chung quanh mình, trong đời mình. Truyện ngắn, như nhiều người nói, tưởng dễ viết nhưng lại không phải vậy. Thế mà cây bút Mang Viên Long nay vẫn viết khỏe, vẫn không bị cái bóng hôm qua của mình phủ đè, che chắn làm mình bị ngộp, bị tắt tỵ trên hành trình sáng tạo. Với hàng trăm truyện đã viết, truyện nào cũng là một “phát hiện” dù ông chỉ “lấy ra” từ cuộc sống đã nói lên điều đó. “Viết là để yêu thương thêm cuộc đời”, ông nói, xòe đôi tay chai sần, trầy sướt, nhiều chiếc móng bị giũa lẹm sâu vào khi ông giũa chìa cho khách. Đồng hành với cuộc sống, không cường điệu những tiêu cực, không bi thảm hóa nỗi đau, lấy yêu thương, nhân bản làm đầu, đặt niềm tin trọn vẹn vào lẽ yêu thương, có lẽ nhờ vậy mà người thợ khóa - nhà giáo Mang Viên Long ở tuổi 70 vẫn còn viết khỏe. Trong ngôi nhà trống vắng, vượt qua nỗi buồn của gia cảnh vốn cũng có nhiều trắc trở, đêm đêm ông vẫn viết, tiếp nối những trang dòng được ông viết trên chiếc ghế con bên chiếc tủ sửa khóa. Ngoài tập truyện thứ 18 sắp xuất bản, ông đang viết tiếp cho hai tập còn dang dở.
Bao năm nhọc nhằn mưu sinh, lại dồn sức cho viết lách, sức khỏe ông nay đã suy sút. Nhưng vẫn như thuở nào, ông vẫn hăm hở trước trang viết. Không còn quá nặng chuyện mưu sinh, ông cho mình càng nợ cuộc đời này nhiều hơn nữa nếu lơi lỏng tay viết. Những sẻ chia của bạn bè, bạn đọc gần xa ông nhận được như là những phần thưởng thôi thúc ông phải cần mẫn hơn với công việc. Văn chương giúp ông nhìn sâu hơn vào góc khuất của phận người trong chuỗi biến thiên, dâu bể của cuộc đời, viết lên mỗi câu chuyện là góp chút nhỏ nhoi vào cho sự thắng vượt của tình yêu thương, của lẽ thật và niềm tin trước những khổ đau, bất hạnh của đời người. Cũng nhờ vậy những tác phẩm của ông luôn được một số nhà sư ở các nơi đặt mua mỗi tác phẩm vài ba chục quyển  “Đó cũng là niềm động viên, khích lệ mình phải cố mà viết...”, ông nói và cười, trông ông thật an lạc. 
 
Huỳnh Văn Mỹ
(KTNN số 852 - tháng 4/2014)
(*) Những chữ viết nghiêng là lời của nhà thơ        Đynh Trầm Ca.

  Trở lại chuyên mục của : Ban Biên Tập