LUÂN HOÁN


Chân dung nhà thơ Chu Vương Miện
 

CHU VƯƠNG MIỆN, THƠ VỚI CUỘC CHƠI LOANH QUANH GIỮA CHỢ 
 
 
         Không hiểu tại sao vào những năm 1957, 1958, tôi không có dịp gặp nhà thơ Chu Vương Miện, lù lù ở Đà Nẵng, làm học trò đệ tứ trường Bán công ? Trong niên khóa này, tôi là anh Đệ ngũ 3 trường Phan Châu Trinh, không cách xa trường Bán công bao nhiêu. Thắc mắc cho vui vậy, chứ làm sao mà biết nhau, khi cả hai thằng đều là những thứ vô danh trong cổng trường, không tham gia tích cực thể thao hay văn nghệ. Cũng chưa nhóm được mối tình trai gái nào xuất sắc, đủ có tiếng vang trong giới thư sinh.  
          Chu Vương Miện là dân chính cống Quảng Nam ? Không. Vậy anh từ đâu tới ? - Xin thưa, anh là con dân của đất Quỳnh Lâu, một ngôi làng nằm trong địa phận quận Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên. Nhưng anh lọt lòng mẹ từ cái nôi quê ngoại, thuộc làng Phục Lễ, quận Thủy Nguyên tỉnh Kiến An. Hai quê nội ngoại cách nhau khoảng 10 cây số đường chim bay. Với hệ thống đường sá và phương tiện giao thông thập niên 20, nhị vị tình nhân, theo tiếng gọi tình, đến với nhau, nên duyên giai ngẫu, quả là một kỳ tích, một mối tình đẹp. Có thể đôi nam thanh, nữ tú đã từng gặp gỡ, tình tự qua dòng sông Lục Đầu Giang ? Con sông phơi lòng qua hai làng. Hình như một trong hai người đã từng làm thơ, thả trôi theo dòng nước ? Lục Đầu Giang bao la, sâu cạn ra sao không cần biết. Chỉ cần đọc tên lên, nghe ra rất đỗi quần tụ anh hào. Sông Đuống, sông Hộc, sông Thái Bình...sáu nhánh cùng gặp nhau khó lòng không bát ngát. Trời nước hùng vĩ, hữu tình chưa đủ. Thủy Nguyên, Yên Hưng còn chia nhau đứng hai bên dãy núi vôi Tràng Kênh, cao vút với ngọn U Bò, nơi ngài Trần Quốc Tuấn một thời đứng điều binh đánh giặc Nguyên chạy dài. Không rõ ngày nay nắng trưa, nắng chiều có còn chiếu vào vách đá, tạo những tia phản xạ xuống lòng sông, ánh lên màu bạc óng ánh để còn được gọi là Bạch Đằng Giang ? 
          Quê quán Chu Vương Miện đẹp não nùng đến vậy, mà anh dứt khoát bỏ ra đi, bỏ luôn cái classe moyen của trường dòng Saint Joseph ở Hải Phòng để vào Nam. Năm 1954 quả là cái mốc thời gian nhiều người khó quên.
          Có được một ông bố nhà binh đào hoa, đi tới đâu cưới vợ tới đó, Chu Vương Miện chưa đến dịp thừa tự cái hạnh phúc này. Lúc khởi sự ca bài “hành phương nam” anh mới tròn mười ba tuổi. Sinh ngày 21 tháng 11 năm 1941, làm đuôi một con rắn (Tân Tỵ) cũng ngon lành. Con rắn đực Nguyễn Văn Thưởng có được một thân mẫu với tư tưởng cấp tiến, từng quan niệm “mưa bao giờ mát mặt bấy giờ”, nên rất phóng khoáng trong việc chơi “hụi”, chơi “hè” liên miên bị lường gạt nhẵn túi. Nhưng Thưởng vẫn bụ bẫm trưởng thành, cao đến hơn một thước bảy.
          Thời bỏ làng đi tìm đất mới, gia đình Chu Vương Miện bị đẩy xuống vùng Thanh Chiêm, Quảng Nam. Tiếp nhận gia đình anh là những người “ăn cục, nói hòn”. Có đến hơn ba tháng, giọng Bắc, giọng Quảng, người nào nói người nấy nghe, chưa có dịch vụ thông ngôn, nên sinh ra nhiều hoạt cảnh vô cùng hỉ hả. Khi vừa có thể thông hiểu người địa phương, cũng là lúc đơn vị ông bố chuyển vào Dốc Sỏi, Tam Kỳ. Chu Vương Miện lại ra đi đến một vùng “chế độ nào cũng ăn độn”. Anh kê khai nhân khẩu gia đình anh: “một bố, một mẹ, một dì, một chị và tôi” dĩ nhiên cũng tập ăn khoai ghế cơm. Khi cơm khoai hòa đồng ngon miệng, ông bố lại thuyên chuyển vào Châu Ổ Quảng Ngãi. Rồi tạm trụ lại trong cái tỉnh chim mía này. Chu Vương Miện thi tiểu học, vào Đệ thất trường Trần Quôc Tuấn, bắt đầu nhổ giò. Nhưng cái nòi giống bố thì chưa tới. Chỉ ngó ngó, thích thích vu vu vơ vơ vậy thôi.
          Giữa năm 1958, Chu Vương Miện lại theo gia đình ra Quảng Trị, học trường Nguyễn Hoàng. Rồi vào Đà Nẵng học trường bán công. Ông bố anh vẫn theo nghề lính, tùng sự tại Sư đoàn Không chiến 16, đồn trú tại Quảng Trị nên anh lại ra theo. Vì thuyên chuyển liên miên, con đường học vấn của anh bỗng có lắm ổ gà. Năm 1962, vừa tròn 21 tuổi, Chu Vương Miện trình diện Khóa 1 Hạ sĩ quan trừ bị, giống y chang một ca khúc thời trang đang thịnh hành. Ra trường với sự vụ lệnh về Sư đoàn 23 Bộ binh, thuộc Vùng 2 Chiến thuật, địa bàn hoạt động Ban Mê Thuộc. Chu Vương Miện làm việc trong Đại đội truyền tin, lính chiến nhưng rất nhàn nhã, thong dong. Lúc này, anh đã làm thơ được hai năm. Hồn thiêng đá núi làm hồn thơ anh thêm mạnh.
          Đời quân ngũ của Chu Vương Miện cũng ngắn ngủi thôi. Năm 1966 anh đã “giã từ vũ khí” rồi. Không thương tích.Thật may mắn cho anh. Giữ một chân thư ký hành chánh tại Bộ Cựu Chiến Binh, anh càng có giờ làm thơ. Tập Đêm Đen 20 Tuổi đã trình làng năm 1964. Tập Tiếng Hát Việt Nam có mặt năm 1965. Phải viết tiếp, viết mạnh để có những tác phẩm mới, nhất là giữ uy tín cho cái giải Đồng hạng Thi ca do đài phát thanh Quốc gia trao tặng năm 1965. Chu Vương Miện cho in Trường Ca Việt Nam năm 1966, rồi Về Phía Mặt Trời năm 1968. Toàn là thơ cả. Cùng với việc in sách, anh cho đăng thơ mình trên các tạp chí Bách Khoa, Văn Học, Thời Nay, Chiến Sỹ Cộng Hòa....Anh cũng từng góp tay với nhà văn Thế Phong (còn ở Sài Gòn) lập ra Đại Nam Văn Hiến Xuất Bản Cục. Một cái tên to lớn bề thế chỉ chuyên in bằng kỹ thuật ronéo thô sơ, nhưng được cái nội dung tác phẩm không tệ. Chu Vương Miện cũng đã cùng nhà phê bình Cao Thế Dung làm thư ký toà soạn nguyện san Quần Chúng (Sài Gòn). Anh cộng tác mật thiết với nhóm Thái Độ của nhà văn Thế Uyên. Tôi quen, qua thư từ, cùng Chu Vương Miện trong giai đoạn này. Vì biết nhau muộn, tôi không tiện hỏi cái xuất xứ của ba chữ Chu Vương Miện. Từ đâu ? Vì đâu ? Phải chăng anh yêu thích thi tài nhà thơ Chu Mạnh Trinh, muốn biến mình cùng một dòng giõi ?
 
          Trước 1975, tôi không được nhà thơ Chu Vương Miện gởi tặng những thi phẩm của anh. Hình thức những ấn bản này do đó tôi chưa rõ mặt mũi. Nhưng về nội dung, chúng ta có thể nghe một vài lời bình thơ của nhà nhận định văn học Cao Thế Dung, trong tác phẩm Văn Học Hiện Đại Thi Ca và Thi Nhân. Ông Cao Thế Dung viết:
          ... “Chu Vương Miện đi vào thi ca với thi phẩm “Đêm Đen 20 Tuổi” vừa đúng cái tuổi của thi nhân, cái tuổi còn nguyên trinh trong thể chât tâm hồn, trái tim còn đượm thơm màu hồng ngọc:
          Đầy 20 lạc vào rừng tóc / nốt nhạc tròn cuốn trọn cả vòng vai / tôi muốn tìm em ở ngõ một ngày / dang mắt nhỏ đứng im loài rong biển / niềm ánh sáng ta vẫn còn chiêm ngưỡng / nghệ thuật tầm tang của Đức chúa Trời / mười sáu mùa hoa lướt nhẹ trên môi / em thầm lặng ngụ hồn ta trong sạch / rồi mộng mị đi hoang về đâu mất / ta thẩn thơ núi lại ở vòng tay (Qua Mùa Đông)
          Nhưng tuổi 20 hoa gấm đã không còn hoa gấm. Nhà thơ bước vào đời như hoàn toàn lạc lối. Những khi khổ đau chập chùng- cuộc đời hương hoa chợt như biển tuyết. Nỗi cô đơn vây hãm lấy người tuổi trẻ. Nó chiếm đoạt tuổi trẻ, và dồn tuổi trẻ vào hoang sơ tím lạnh:
          Trăng còn giấc ngủ trên môi / cồn hoang theo chuyến luân hồi về không / hư vô tinh tú chập chùng / biển mây muôn sắc áo hồng hoang xưa / đêm đêm nhật nguyệt mơ hồ / đồi hoa tầm gởi cuối bờ chân như / rừng hương dâng tỏa sương mù / cuối gành bãi vắng sóng lùa lên cao (Đêm Đen)
          Rồi với giọng giảng văn đều đều, người nhận định văn học Cao Thế Dung, dẫn giải một số đoạn thơ khác của Chu Vương Miện trước khi trích dẫn thơ làm bằng. Và cuối cùng ông kết luận:
          “Thơ Chu Vương Miện không dễ tan loãng. Dư âm của thơ ông là dư âm chứa đựng thể chất của một tâm hồn có nồng độ khao khát trong xúc cảm thực của thơ”.
          Về nhận định kỹ thuật sáng tác, ông Cao Thế Dung, đưa ra ý kiến liền trong một mạch văn, nhưng tôi thấy hình như hơi mâu thuẫn, hoặc ít ra, không được rõ nét:
          “Nhiều bài thơ tuy kỹ thuật điêu luyện mà người đọc vẫn không cảm thấy chất thơ của thơ. Chu Vương Miện tuy chưa điêu luyện về kỹ thuật và nội dung thiếu chứa đựng đầy đủ thể chất của tình ý, nhưng thơ của ông làm cho người đọc cảm được chất thơ qua cái phần trinh trắng của hồn thơ.”
                                (Văn Học Hiện Đại- Thi Ca Và Thi Nhân)
           Hình như nhà nhận định muốn nói: Chu Vương Miện viết chưa được  đều tay. Hy vọng là vậy.
 
          Thừa hưởng cái truyền thống đào hoa của thân phụ, nhưng Chu Vương Miện, không hơn được cha anh trong cái mục tình cảm này. Không rõ năm nào và với mục đích gì Chu Vương Miện đã có dịp đến thăm rừng núi hùng vĩ Tiên Phước của đất Quảng Nam, con đất mà một phần tuổi ấu thơ tôi đã hấp thụ sương núi, hương hoa:
          “Bốn hướng mù mù mây giáp đất/ thọc tay xuyên thủng, xé không ra/ ngùn ngụt khí hàn trồi mặt đất/ máu tưởng chừng như đọng dưới da.
          Rừng dạy cây vươn cành tự tại/ chen vai dựa bóng thở vào nhau/ nghìn năm chuyển bước không dợn nét/ âm thuần, dương chuẩn tận ngàn sau.
          Hương núi lừng lừng nuôi hổ sói/ đá chồng đá dưỡng dế giun sinh/ mạch suối man man dòng nhạc tấu/ chim gọi tình nhau âm tái sinh.
          Tiên Phước đội trời nghênh ngang đứng / tôi chào ra mắt thuở lên năm/ lòng như vạt đất mời cây mọc/ xin gọi lại một lần, thay viếng thăm....”(Luân Hoán)
          Tôi đã bỏ Tiên Phước mà đi, để lại những bài thơ đại khái như trên. Còn Chu Vương Miện, đến Tiên Phước ngoài chuyện để lại thơ, anh còn ẵm theo suốt đời một giai nhân, để làm nàng thơ, luôn tiện làm người nội tướng. Tôi chưa được hân hạnh diện kiến bà chị tôi, nghe nói chị cũng dòng dõi họ Lê la như tôi, bà con cả, thú vị thật. Chị Lê Thị Thanh Sương chỉ cho Chu Vương Miện một cậu con trai duy nhất, đã đủ bỏ cái công làm rể đất Quảng Nam suốt đời của anh. Dưới đây là bài anh cho là kiệt tác của anh, viết dành cho chị, cho cả quê hương yêu dấu của chị
            “ Gió từ đèo Le gió về Trung Phước/ mây từ Hoàng Sa mây kéo Sơn Chà/ ta từ Quảng Ninh ta vào Châu Rí/ làm rể Quảng Nam cát mịn Tiên Sa/ lỗi hẹn một lần không về Giao Thủy/ nát cả lòng nhìn dòng nước Vu Gia/ đây “đất học”, “vùng văn” làng cô giáo/ một cụm gồm năm ngọn núi đá hoa/ em bỏ ta đi làm dâu Hiếu Đức/ làng cổ Phong Nam dằng dặc hoa trà/ bãi bắc, bãi nam-vùng Suối Đá/ sáu tháng mùa mưa sáu tháng mùa khô/ ở thánh địa Mỹ Sơn dày tháp cổ/ em chê ta - chỉ một gã làm thơ/ Ngũ hành Sơn nhìn qua Bà Ná/ mối tình đầu xin gởi lại Faifoo/ trải ba mối tình ta về Tiên Phước/cả duyên trộn nợ ta gặp em/ Quế Trà My-Tam Kỳ từ kiếp trước/ dấu tích Hội An(vùng Đại Chiêm)/ đây Thuận Châu nhớ thương Trà Kiệu/ mối ân tình nàng công chúa nhà Trần/ xuôi Chiên Đàn nước mặn về Châu Ổ/ trải bao đời sáng giá một Huyền Trân/ em dòng dõi Lê Duy Cường-Duy Mật/ biết bao đời chống Trịnh Nguyễn Tây Sơn/ cả dòng họ bị đày vào Ngũ Quảng/ đem Lam Sơn thắp sáng nước non Chàm/ ta ngừng đó một đời không đi nữa/ từ thôn Nam Thọ nước Thu Bồn/ cả giải đất Nông Sơn nhiều quặng mỏ/ ngước nhìn lên sừng sững núi Cà Tang/ gió Thái Bình Dương lùa qua Non Nước/ mênh mang sương tỏa cù lao Chàm/ lỡ mai sau quá yêu đời ta chết;/ cũng một lần là rể đất Quảng Nam”
                            (CVM tc Thế Kỷ 21- 171 tháng 7-2003)       
 
          Năm 1984, tôi đưa gia đình vào tạm trú nhà bà chị ở 22 Lê Lợi Sài Gòn. Dịp này tôi và Chu Vương Miện có nhiều cơ hội bắt tay nhau. Anh đang là chủ một quán sách nhỏ bên lề đường. Phố đông mà không vui. Quán sách với những tác phẩm mới. Hình thức đa số yếu kém. Truyện dịch đang được đón đọc. Chạy nhất là những tờ lá cải tin thể thao. Tôi có đứng chơi với Miện một đôi lần. Lúc này anh cũng đang chờ đợi đi đoàn tụ như tôi, nên câu chuyện thường lòng vòng trong vấn đề đi ở. Chúng tôi cũng có nhắc đến nhiều tên bạn hữu. Người nơi này, kẻ nơi kia, đều đói rách. Một số lớn còn nằm trong lò tập trung. Cuộc đổi đời bất ngờ như một vết thương chưa liền miệng. Chúng tôi hạn chế cả lời nói, tiếng cười. Nhiều lúc có cảm tưởng mỗi người quanh mình đều thủ thế. Chu Vương Miên có một tấm lòng quí mến bạn rất đáng thưởng thức. Anh giúp đỡ nhiều bạn văn, bằng nhiều cách vén khéo, trang trọng, trong đó có nhà thơ Trần Dzạ Lữ.
          Chuyện ra đi đoàn tụ trong thời điểm 1984 tại Sài Gòn đã trở nên thông thoáng, nhộn nhịp hơn trước. Người lên Nguyễn Du. Người đến 1B Duy Tân. Người khám sức khoẻ. Người đi nhận vé máy bay. Người lên Chợ Lớn đóng thùng thiếc chở hàng. Người đi mua sắm áo ấm. Người đi bán vàng. Nhiều việc, nhiều chuyện phải làm, phải lo. Đã có chưa Giấy xác nhận không thiếu nợ ngân hàng thuộc chế độ cũ ? Giấy chứng nhận không còn sở hữu bất động sản nào của sở nhà đất và công trình cộng cộng ? Bao nhiêu chuyện linh tinh khác cộng với những dạo chơi, cà phê, cà pháo vớt vát trước khi ra đi, đã làm chúng tôi ít có giờ gặp nhau. Chuyện họa sĩ Hoàng Trọng Bân, một người bạn thân cũ của tôi, đã bỏ túi giấy xuất cảnh từ lâu mà vẫn chưa đi được (sau này, vĩnh viễn không đi được) làm tôi cứ lo nghĩ lung tung. Nếu không đi được như Bân thì mọi sự sẽ rất khó khăn với gia đình tôi. Nhất là cái điểm chính yếu Hộ Khẩu đã cắt, thì hậu khổ chắc chắn đang đứng chờ, nếu phải quay trở về Đà Nẵng. Đâu có dám đi con đường Bác đi, nhưng trăm phần trăm sẽ bi đát. Cứ nghĩ đến chuyện ấy, trong rong chơi mất vui. Nhưng cuối cùng, tôi đúng là người có số xuất ngoại, số chết xa tổ quốc mai sau. Cùng lúc với gia đình tôi, tên cả gia đình họa sĩ Nghiêu Đề, tên cả gia đình nhà văn Song Thao, tên cả gia đình nhà thơ Chu Vương Miện được...trúng tuyển, niêm yết trên bảng vàng ở 1 B Duy Tân. Nôn nao quá không nhớ chúng tôi ai rời đất nước trước ai.
 
          Qua tới Montréal không bao lâu, tôi nhận được thư đầu tiên của Chu Vương Miện gởi ngày 25 tháng 3 năm 1985. Nội dung như sau:
 
          Và từ đó thư từ Luân Hoán- Chu Vương Miện qua lại đều đều. Nhiều thư Chu Vương Miện viết rất dài, nhiều thư chỉ vỏn vẹn vài câu. Nội dung chính vẫn là: “Không nên dính vào nghề viết lách, văn nghệ báo chí không ra cái chi, không có tiền bạc chi cả...Mướp lắm” Nhưng cũng có lúc anh lạc quan đôi chút:  “...Tuy nhiên ông ở Canada lo ở bên đó, mai mốt chúng ta gượng lên, chúng ta đứng với nhau...có thơ văn gì thì gởi như sau: 1/ Nguyên Sa (Đời): POBox 4658 Irvine CA 92796 (tel 714.552.7728) 2/ Du Tử Lê (Tay Phải): 12922 Panchero way Garden Grove CA 92643 (tl 714-750.4661). - Lưu ý có gọi điện thoại viễn liên qua đây, nhớ gọi vào thứ bảy, chủ nhật và vào buổi tối từ 9 giờ-11giờ, rẻ nửa tiền, giờ khác đắt lắm. Đừng bao giờ làm những việc vu vơ như bỏ công sức (thì giờ) viết 4 tiếng đồng hồ để được một tờ báo biếu khoảng 20 xu làm chi, mai mốt cụ cựa được sẽ tính sau...(thư ngày 30-3-1985). Tôi trích những lời trên, cả cái gạch đít dưới câu chữ của anh, để thấy cái chí tình với bạn bè của Chu Vương Miện. Anh luôn luôn xem tôi là một “con nai vàng ngơ ngác” trước cuộc sống hối hả, vật lộn ở quê người. Trong thư viết ngày 12 tháng 6 năm 1985, trả lời cái rủ rê thực hiện “Những Khuôn mặt Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam tại hải ngoại” của tôi, anh trả lời:
          ... “Ông đề nghị là một việc hết sức đứng đắn, nhưng ông vẫn mơ chưa tỉnh gì cả. Thế này nhé, xứ này toàn là thằng cả, thằng D., thằng T., thằng K, thằng V.. Toàn là cá mè một lứa. Không ai biết ai. Không ai đọc ai, ngay những nhà văn nhà thơ vĩ đại của Nga, của Đức, Á châu, Phi châu cũng chả có ma nào biết, thì quí vị này ai mà đọc, ai mà mua. Sau nhiều năm bán sách, thì tôi nghiệm ra rằng anh nào có chút tiếng tăm đều háo danh, và thích được thiên hạ viết về mình, dù có đăng một bài ở tờ báo vất đi thì cũng vẫn khoái. Nên việc soạn tự điển Tác giả Việt Nam hải ngoại sau 75, khoảng 1000 người, là mục đích làm thương mại, là bán ngay cho “chúng nó”, bán cho 1000 tên có tên trong tự điển mà thôi . Nếu làm đàng hoàng, thư qua thư về, tiền tem cò, tiền in ấn rồi ai cũng chờ mình biếu cả, in 1000 cuốn biếu 1000 người thì làm chó gì gọi là làm kinh tế. Ở đây chả ai mua sách. Có cho thì đọc chơi (nể nhau lắm mới đọc, chứ không có thì giờ)...Cứ ổn định, rồi muốn báo bổ, sách vở gì sẽ bàn sau..”   
          Chu Vương Miện có thể nhận xét đúng đến 70% . Với chỉ 30 phần trăm còn lại, tôi đã thực hiện sưu tập Tác Giả Việt Nam dưới tên Lê Bảo Hoàng do Songvan xuất bản vào tháng 6 năm 2005 và Nhân Ảnh tái bản vào tháng 5-2006. Công trình này là một sưu tập các tác giả Việt Nam gồm đủ bộ môn nghệ thuật: thơ, văn, biên khảo, hội họa, âm nhạc, cải lương, chèo, kịch nói... trong khoảng thời gian từ 1905 đến 2005, không phân biệt chế độ chính trị, quốc nội hay hải ngoại. Nhưng không có mặt những nhân vật chưa thật sự thành danh đúng nghĩa, và không có những tác giả  chỉ sáng tác nhằm phục vụ một chế độ. Sách đương nhiên có nhiều khuyết điểm, nhưng cũng được đông đảo bạn đọc đón nhận, không biếu ai và không nhận tiền của bất cứ ai để hoàn tất. Sách thành hình bởi tấm lòng yêu văn hóa của nhà văn Nguyễn Sao Mai và nhà thơ Lê Hân. Có những dòng quảng cáo ké ở đây, vì chuyện thực hiện cuốn sách có dính chút ít đến dự định, từng bàn với Chu Vương Miện, và của ý riêng Chu Vương Miện trong việc làm tự điển bán cho chính “chúng nó”. Sách của tôi (TGVN-LBH) được Chu Vương Miện bán hộ được khoản 50 cuốn.
          Trong thời kỳ thư từ qua lại thường xuyên, Chu Vương Miện thỉnh thoảng còn kẹp vào những lời tâm sự, dạy khôn của anh vài chục đô, gọi là cho tôi đi xem ciné. Cũng thỉnh thoảng anh cắt gởi qua những hình ảnh mỹ nhân tươi mát, có lẽ để làm dịu những suy  nghĩ phiền muộn giữa cuộc đời... không thể gọi là khá của tôi.
 
          Mặc dù luôn luôn nhìn sinh hoạt văn học nghệ thuật  bằng con mắt bi quan, nhưng ông bạn tôi, lại là người rất tích cực trong công việc bảo tồn văn hoá dân tộc Việt, có thể đứng hàng đầu. Kể từ khi đến Hoa Kỳ, Chu Vương Miện đã cộng tác với hầu hết các tờ báo Việt ngữ khắp năm châu.. Từng giữ chức thư ký tòa soạn tạp chí Sóng tại Toronto Canada, báo Trống Đồng ở Mỹ. Anh sáng tác rất mạnh, đủ bộ môn: thơ, truyện , phiếm luận, biên khảo, điểm sách.. Nói tóm lại bộ môn nào anh cũng chơi xả láng. Ngoài bút hiệu Chu Vương Miện anh còn ký Phương Hoa Sử, và nhiều tên khác. Viết nhiều, nhưng không có điều kiện in ấn, Chu Vương Miện trở lại thời Đại Nam Văn Hiến Xuất Bản Cục, anh phổ biến bằng ronéo các tác phẩm sau:
          1/ Văn Học Dân Gian 44 trang, khổ 14 x 21.5 cm. Bìa bắng giấy carton màu vàng. Vào tập Chu Vương Miện cho biết đây là “công trình tập thể, Chu Vương Miên ghi lại”. Và anh đã ghi các chuyện: Áo Chuyên Da Xe Cố Vấn, Toàn Thứ Vất Đi, Tác Phẩm Của Tôi Đầy, Trí Ngủ, Dễ Lắm, Vạch Ra Rồi Nắm, Hạ Tầng Công Tác, Đồng Chí Mà Không Đồng Hướng, Đồng Cảnh, Lộn Nhà, Bật Vào Mặt Các Anh Đấy Chứ, Phải Biết Điều Chứ, Nói Chữ, Không Cần, Không Có Nhà Tù, Ba Giòng Thác Cách Mạng, Đừng Gửi Qua Hệ Thống, Làm Kinh Tế Bên Nhà, Kết Nạp Đảng Viên, Tại Sao Nhiều Ghế Thế, Thơ Bây Giờ Không Hay Nữa, Mà Văn Thì Cũng Thế, Giới Thiệu, Không Xuống Được, Chọn Quốc Ca, Báo Cáo, Có Tự Do Đâu, Cũng Là Đầy Tớ cả, Chăn Cừu, Số Phận Loài Dơi, Đà Điểu, Thừa Kế, Thích Đi Đường Xa, Con Chó Của Nhà Văn Hà Võ Hoài, Đi Về Đâu ?, Chuyện Có Thật, Chuyện Có Thật Trong Văn Chương Bây Giờ, Độc Thủ Đại Hiệp Đại Chiến Hiệp Sĩ Mù,  Phía Đông Hay Phía Tây, Hai Cái Ngà Voi Ban Mê Thuột, Con Voi Của Cách Mạng, Làng Kinh Tượng, Con Voi Của Nhà Văn Ba Lan, Số Phận Bạc Cắc, Những Hạt Nước Vùng Băng Giá, Tù Gần Trọn Đời, Phóng Sinh Chim Ở Chọ Cũ, Thả Chim Ở Lăng Ông Bà Chiểu, Chuyện Tiền Chiến, Ban Mê Thuột 1964.
          Tôi chỉ ghi đề bài, hy vọng sẽ gợi được sự tò mò của bạn đọc. Điều nên biết, Chu Vương Miện kể chuyện rất có duyên, vừa cười vừa xót xa.
         2/ Phiếm Luận, 64 trang khổ 14 x 21.5 cm, bìa carton màu da cam. sách ghi tên tác gỉa Phương Hoa Sử, tên sách Ba Mươi Năm Bài Bạc, cuốn này có thể là tự truyện của anh, Giọng văn dí dỏm. Trích tiêu biểu:
          ... “Thấm thoát ở Ban Mê Thuột được 3 tháng, xứ bụi mù trời và buồn muôn thuở này, sáng sáng thổi còi cho chim bay lên. Hai giờ sau thổi còi cho chim bay xuống nước, và lại thổi còi cho chim bay lên, con chim có cấp bậc cao nhất ở bầy chim này mang cấp bậc Thượng sĩ, còn tôi là binh bét...
          ...Phất phơ với chuồng bồ câu được ba tháng, thì một sáng đẹp trời, ngài Đại úy Đại đội trưởng kêu lên:
          Chú mày ở đây cứ phất phơ với mấy cái con bồ câu, đói thì bài bạc, nó cũng phí đi, với nữa chú mày gốc giáo viên, nên tiền sai biệt còn hơn lương Thiếu úy, để chú mày ở mãi cái xứ cà răng căng tai này nó cũng uổng, kỳ này có lớp hạ sĩ quan vậy đưa chú mày đi, đi ba tháng ra Trung sĩ, mang cánh gà, nó cũng đỡ khổ hơn là binh bét...”
          3/ Văn Học Nghệ Thuật, phiếm luận, ký Phương Hoa Sử. Sách khổ như hai cuốn trên, bìa carton màu da cam đậm. Nội dung tập họp những bài viết về thơ Chu Vương Miện, gồm các tác giả: Cự Hải (bút hiệu khác của Luân Hoán) giới thiệu tác phẩm Đất Nước (4 lần nửa trang)/  Châm Khanh, / Nguyễn Hùng Cường: CVM Dịu Dàng Thanh Thoát/ Hồ công Tâm : Chu Vương Miện Một Kiện Tướng Trong Hàng Ngũ Chiến Sỹ Cầm Bút / Lê Văn Phúc: Bến Cũ / Nguyễn Đạt Thịnh: Chu Vương Miện, Giấc Mộng Lớn, Vòng Tay Nhỏ/ Nguyễn Lập Đông: Đọc “Bằng Hữu” thơ CVM/ Tạp chí Nhân Văn: Phỏng vấn CVM/ Phan Ni Tấn ND: Nhân Đọc tập thơ Đất Nước/ và một số thơ của Chu Vương Miện.
         4/  Chuyện Cười Dân Gian, khổ sách nhỏ như những cuốn trên, bìa carton màu vàng, Tên tác giả Chu Vương Miện. Nội dung là những mẩu chuyện vui được góp nhặt viết lại, 68 trang.
          5/ Điểm Sách, ký tên Phương Hoa Sử, 58 trang, khổ nhỏ như những cuốn trên. Nội dung: gồm những bài Chu Vương Miện nhận định về tác phẩm của Anh Thuần, Cung Vũ (thơ Cỏ Biếc), Đỗ Quốc Anh Thư (Trong Thời Chinh Chiến), Nguyên Vũ (Giặc Cờ Đỏ), Vĩnh Liêm (Gã Tỵ Nạn), Tác phẩm của nhiều tác giả (Nước Mắt Sài Gòn),
          6/ Sử Dân Gian, ký tên Chu Vương Miện. Góp nhặt kể lại  những chuyện tại Việt Nam sau 1975. Dày 55 trang, khổ nhỏ.
          7/ Tác Phẩm Tác Giả, ký tên Chu Vương Miện. Gồm những bài Chu Vương Miện giới thiệu: Huy Phong, Lê Bá Kông, Lê Văn Phúc, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Đạt Thịnh, Nguyễn Chánh Thi, Phạm Huấn, Phan Tấn Hải, Yến Anh. Sách dày 60 trang, khổ 14 x 21,5 cm. Bìa màu da cam đậm.
          8/ Đất Nước thơ Chu Vương Miện, Việt Nam Mới xuất bản, khổ 12 x 18 cm, bìa carton màu xám, có bản vẽ rất ư thư sinh, hình con cò bay.
          9/ Đất Nước thơ Chu Vương Miện, Việt Nam Mới xuất bản bìa carton vàng, khổ 14 x 21,5 cm., 47 trang.
          Ngoài danh mục kể trên, Chu Vương Miện hiện đang cho đăng thơ rất nhiều trên Hồn Việt, Văn, Thế Kỷ 21, Hợp Lưu... nhưng chưa thấy anh cho ra tác phẩm mới. Thơ Chu Vương Miện có phong thái riêng. Đọc rất thú vị. Anh thỉnh thoảng dùng những hình ảnh có sẵn, những mẩu chuyện có từ trước, hoặc ngay cả tên bài của một người khác, viết lại với những cảm nghĩ mới, ngôn từ lạ và thường vui hơn.
          Đây là bài “Lỡ Bước Sang Ngang”:
          “Chị giờ thì cũng trong đất lạnh / em giờ giữa biên giới tây nam / anh giờ bỏ xác rừng Việt bắc / cha mẹ giờ bốc đất mà ăn /
          Ta đã bán thân cho sòng bạc / mấy chục năm trường thua trắng tay/ về nam toàn thấy người tù tội / ngược bắc đâu đâu cũng đọa đày
          nhìn quanh một đống chai cùng hũ/ rượu cạn từ khuya gắng nhịn thèm / bưng tô nước lạnh lên môi nhắp/ thấm thía men đời hận mấy phương
          Ngoài kia hoa rộ như sắp tết / trong này lửa đỏ bỏng tâm can / “quê nhà xa lắc xa lơ đó”/ mở mắt ra thấy lạc thiên đàng”          
          Giữa tôi và Chu Vương Miện thỉnh thoảng cũng có một đôi bài tặng qua tặng về. Phần thơ Miện tặng tôi như sau:
          Bài:  Bằng Hữu, về Luân Hoán:
          “ Trên rừng mà ngó sông Thu / Ải Vân trắng xóa mây mù còn bay / có đi mới nhớ chúng mày/ hành sơn năm cụm cỏ may vật vờ/ bây giờ mà nhớ về xưa/ lang thang rách rưới cũng thừa dấu chân/ mười năm quá đủ phong trần/ kẻ đi người lại muôn phần nhớ thương” (Chu Vương Miện)
          Bài: Thăm Bạn Cũ: gởi Luân Hoán
          “Lâu quá rồi cũng vắng tin nhau/ bạn Một Giò giờ lạc đêm thâu/ nghe nói hình như nơi bạn ngụ/ tuốt trên xứ Bắc Cực địa cầu/ lang thang lếch thếch hai năm chẵn/ Giặt ...Quần Cho Vợ...mãi cũng rầu/ thơ văn nghe cũng chừng ì ạch/ đầu óc bây giờ nghe nhức đau ?
          ta ngày rong ruổi cày job rưỡi/ tuổi già cố kéo, khỏe ngang trâu/ tiền lương đủ trả xong tiền thuế/ +nhà+xe+nước+điện thoại vài câu/ thằng con đi nhà trẻ tuần năm chục/ lao động vinh quang mãi chả giàu/ vợ ta thì cũng vừa tốt nghiệp/ thợ cắt móng tay kiêm nhổ tóc sâu/ mở mắt ra thì ta đã cút/ bọc ngang xa lộ đến nhức đầu/ vài trăm miles mắt mờ mắt tỉnh/ những sáng sương mù, những lũng nước sâu
          ta có thằng bạn già quá giang xứ bạn/ an phận kéo bừa làm kiếp cu li/ ngày cũng đổ mồi hôi 13 tiếng/ nhớ vợ nhớ con lòng nặng như chì/ quê hương đất nước ngổn ngang như bãi củi/ đếm tóc trên đầu, thấy mình vất đi
          ta sống dửng dưng không cười không khóc/ có thiết tha cóc biết làm gì/ tim óc bây giờ như tô đậu hũ/ nhân nghĩa bằng mồm nghe hoài phí đi/ lâu lâu lại nghe chiến khu khu chiến/ chiến đấu nghe chừng cũng còn tí ti/ như cọng rơm khô bùng lên lại tắt/ ôi chuyện vồ tiền nhắc nhở làm chi/ ở cái xứ người cũng là cõi tạm/ chờ minh quân hiền chúa hư hết đồng hồ/ quẩn quanh cũng dăm ba thầy nói phét/ oằng oặc như là ếch gặp mưa/ dăm ba bữa lại chìm vào đống rác/dăm ba bữa lại màng nhện giăng bừa / lâu lâu lại mở quán xá phục quốc/ lâu lâu lại hô hào tiền tiễn đưa/ bắc thang lên hỏi ông cụ Cuội/ vậy chớ bây giờ chiến thắng chút đỉnh nào chưa ?
          ông Cuội thì chả bao giờ nói thật/ chuyện khẩn trương cũng kể như đùa/ 60 triệu đồng bào dưới toàn lựu đạn/ xiềng xích nào cứ cột xiết vô/ bao kỳ vọng dồn hết những thầy nói láo/ sống chết “Ne pas” tiền ông cứ vồ/ cứu nước cứ tà tà như lùa phở/ toàn lưỡi mồm và chuyện bá vơ/ mới qua thì ta đã không tin / ở thêm 2 năm thì toàn hươu vượn cả/ ôi chuyện quê hương nhục nhằn từng hơi thở/ kẻ còn trái tim còn mờ mịt nơi nào ?/ ta có tấm lòng đúc thơ thành đạn/ đành phải nằm chờ 30 tháng chèo queo/ sao chưa thấy chân dung mùa hạ hào kiệt/ toàn cò quay móc túi toàn chuyện tầm phào/ thấm thoát cũng gần 13 năm đi đứt/ chờ đến năm nào lòng yêu nước dâng cao ?
          bạn Một Giò giờ lạc đêm thâu.../ giặt...quần cho vợ mãi cũng rầu/ thơ văn nghe cũng chừng ì ạch/ đầu óc bây giờ nghe nhức đau ?” (Chu Vương Miện).
          Không đặc biệt dành riêng cho tôi, tình bằng hữu của Chu Vương Miện còn được anh ủy thác cho thơ, gởi đến nhiều kẻ thân tình cũ, đồng cuộc, đồng đường xưa:
           “Ngươi bán sách, nhà ngươi ăm ắp sách/ những thánh hiền nhân quân tử đáng dăm đồng/ bao lời lỗ cũng chả màng ngó đến/ phi thuốc rê đại khái 9 mùa đông...” (Nhắn Tin Nguyễn Hồng Rồng, CVM).
          “12 năm , đảng trưởng đảng phục lê / khăn gói gió đưa qua Phi học Anh ngữ/ nhớ về chiến khu mà buồn chí tử/ đồng chí đồng rận giờ tổn thất lao đao/ tối tối cà phê rồi đếm mấy vì sao...” (LQN, CVM).
         Và những Nguyễn Tiến Văn, Phan Nhực Thức, Hà Nguyên Thạch, Trần Dzạ Lữ, Đynh Trầm Ca, Đynh Hoàng Sa, Chơn Hạnh, Xuân Kiêm...Nhiều, nhiều nữa, đều nhận được quà tặng của anh. Tôi rất tiếc đã bỏ lạc tập Bằng Hữu của Miện, không trích thêm được. Xin hẹn có dịp bổ túc.
 
         Dù viết về chủ đề nào, Chu Vương Miện cũng được đa số những người đọc thơ, chọn những chữ sau đây để đánh giá: khật khưỡng, ngông nghênh, day dứt, thoải mái, phóng khoáng, đậm đà, sâu sắc.. bởi thơ anh có đủ thương, hận, trách, nhớ vân vân và vân vân. Tôi nghĩ, Chu Vương Miện đến với thơ như đến với một cuộc chơi, thành thật, hết mình, tự nhiên và cao tay. Xưa kia anh đã từng giữ vịt, chăn trâu, gác bồ câu với một cái tâm phơi phới, hồn nhiên, thì nay anh đến với thơ cũng chân tình như thế. Nhờ đó thơ Chu Vương Miện mang, trải được những tình ý cảm xúc và suy nghĩ của anh, qua một kỹ thuật không làm người đọc bỏ dở, dù anh gần như luôn luôn hướng về một chống đối,
một chỉ trích nào đó. Giữa chợ, giữa đời đâu thiếu những khuyết điểm không như ý. Nhưng bất mãn chỉ để làm thơ thì thật là tuyệt. Hoan hô Chu Vương Miện, bạn tôi.
 
            LUÂN HOÁN
 
  Trở lại chuyên mục của : Giới Thiệu