MANG VIÊN LONG

Đọc Bản Thảo Tập Thơ: “Lửa Và Hoa BÊN BỜ NĂM THÁNG HAI NGÀN” Của Đặng Tấn Tới

 alt

 

 

 alt

 

Bản thảo tập thơ “Lửa và Hoa – BÊN BỜ NĂM THÁNG HAI NGÀN” đã được người con trai của Đặng Tấn Tới in vi tính, hoàn chỉnh vào tháng cuối năm 1999, gồm có 4 bản, tranh bìa của Bùi Giáng, thiết kế bìa Liên Hương Design, dày 374 trang, 306 bài thơ, trên giấy Galgo, bìa cứng (khổ 15X20). Sau phần thơ, còn có 15 trang dành cho “Đọc Lại Và Viết Thêm” về Thơ (I), Tâm Thu Kinh (II) và Thi Thiên (III). Dầu chỉ thực hiện in vi tính 4 bản, nhưng có thể xem như một tập sách hoàn chỉnh; từ việc chọn lựa co chữ, trình bày bìa vả ruột đều rất mỹ thuật, công phu - không thua kém bất kỳ một ấn phẩm mỹ thuật nào. Đây là tập thơ thứ 6 của Đặng Tấn Tới (nếu không tính tập thơ đầu tiên là “Lễ Tấn Phong Tình Yêu” ký bút danh Vũ Thúy Thụy Ca, xuất bản năm 1961, lúc Đặng Tấn Tới 17 tuổi mà ĐTT không muốn đưa vào tác phẩm của mình, dẫu đó là một tập thơ đẹp cả nội dung và hình thức, một thời làm ngạc nhiên văn thi hữu): Mưa Mắt Tình (1968), Tâm Thu Kinh (1970), Tuyệt Huyết Ca (1972), Thi Thiên (1973) và Trúc Biếc (1974). Như vậy, “Lửa và Hoa - Bên Bờ Năm Tháng 2000” là tập thơ được anh sáng tác ròng rã trong 26 năm (từ năm 1974 đến tháng 12 năm 1999).

Đặng Tấn Tới đã trao cho tôi “giữ giùm” một bản (trong 4 bản đã in) từ gần mười năm nay, sau chuyến vào Saigon giải phẩu não lần thứ hai trở về lại quê.

Tôi đã có dịp đọc thơ Đặng Tấn Tới từ tập thơ đầu tiên (Lễ Tấn Phong Tình Yêu), đến tập thơ sau cùng (Trúc Biếc - 1974), bởi tôi và anh ở cùng một xóm, học chung một lớp tiểu học trường làng, và cùng nhập học trường tỉnh trung học Cường Đễ vào niên khóa năm 1958… Được đọc thơ, được sống gần gũi nhau từ thuở tóc còn để chỏm, được chia sẻ những nỗi vui buồn, ước vọng trong cùng một hoàn cảnh đất nước đang chiến tranh, tôi hiểu anh tương đối rõ: Anh luôn là người bạn văn đồng hương chí tình của tôi qua bao năm tháng thăng trầm; là người kiệm lời nhưng chân tình, trầm mặc nhưng tha thiết, trọn đời hết lòng vì sự đổi mới, và tin yêu Thi Ca…

Bài thơ đầu tiên mở đầu cho 306 bài thơ có tên “Ngày Sau”:

 

“Đi vào mây nước thẳm

Còn hạt cát vu vơ

Ngày sau ai nắm được

Cảm thật đến ban sơ”

Mối cảm thông trong thơ anh giữa người xưa & người sau & người nay thật mênh mông, man mác; có gì như còn vướng vất nỗi bâng khuâng, chất chứa bao hoài niệm, bao nhớ nhung, bao niềm ước mơ  đồng cảm huyền nhiệm chưa thể giải bày trọn tình. Chủ đề nầy, cũng là một phần quan trọng trong tác phẩm, và chúng ta dễ nhận  thấy, mối liên hệ bàng bạc gần như xuyên suốt trong dòng thơ anh:

“Tài từ duyên còn gặp

Thất thanh cười khóc nhau

Trăng tình chung chảy máu

Hừng hực lửa thơ mầu”

(Gửi Người Xưa Đã Để Lại Cho Người Sau)

Thế giới thơ của Đặng Tấn Tới, vì thế, dường như bao giờ cũng mong manh, mênh mang một nỗi niềm, đau đáu một hoài vọng của sự tột cùng khổ đau hay hạnh phúc của hôm qua, hôm nay và ngày mai:

“Chút lòng trong cát bụi

Sáng ngoài hương cỏ cây

Đêm trăng tơ mềm núi

Ta còn nhau ngắm mây”

(Còn Nhau)

 Đại sư Narada có dạy: “(…) có một điều ta có thể làm được, đó là giữ Tâm bình thản như đất”; Nhà thơ cũng đã trải lòng hoan hỉ như đất trước mọi gian nguy, thăng trầm, khổ đau hay hạnh phúc: 

“Đất trải lòng chân thật

Thân trần lượng nước qua

Đâu hận thù còn mất

Vô tình rêu thắm hoa”

(Sukhavaggo Dhammapada)

Thơ Đặng Tấn Tới từ tập thứ 2 (Tâm Thu Kinh - 1970) , đến tập bản thảo hôm nay (2000), chảy dài suốt ba mươi năm, đều thấm đẫm tư tưởng Phật giáo; nhưng từ lăng kính triết lý Đạo Phật, dòng thơ anh soi chiếu một cách vi tế, như nhiên đến các ngõ ngách đời sống riêng chung; từ phận người, quê hương, đến vạn hữu (…) với một phong cách bày tỏ hiện đại, đã kinh qua bao thực chứng ngay giữa cuộc phong trần quá độ, bên cạnh tài năng sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ với nhiều cách tân, nhiều từ ngữ sáng tạo nhạy bén, gợi cảm. Vì vậy, dòng thơ nhất quán như một dòng chảy tự nhiên, huyền nhiệm, uyển chuyển, tinh khôi, chuyên chở bao ý tình sâu thẳm, thâm thúy. Có bài như những câu kệ, công án, hay của giây phút thiền quán tỉnh thức, xuyên qua những điều giản dị quanh đời sống, như cỏ cây, gió, mây, trăng, nước (…). Không gian thơ mở ra bát ngát, dường như gần, dường như xa; nhưng trong cái ảo diệu linh hoạt ấy, lại có sức truyền cảm hấp dẫn người đọc lạ kỳ. Chẳng hạn:

“Ngàn thu trang cỏ vắng

Nở hoa sương một đêm

Một thoảng hương dịu mềm

Long lanh lòng bất tuyệt”

(Ngũ Tuyệt)

Hay khúc III trong sáu khúc của “Thu Tâm” (vũ lãnh hương hồn điếu thơ khách – Lý Hạ)

“Đèn lạnh nghiêng lòng sách

Chữ rơi vàng lá đưa

Người xa, thu bước quạnh

Đồng vọng tiếng ma xưa”

Và “Ngàn Mây” - tặng Nguyễn Tôn Nhan:

“Trắng trưa trời cố quận

Bước qua, lòng sang đâu

Thấy nhau lần mây chuyển

Ánh lộng nước không mầu”

Tâm tình của nhà thơ bàng bạc trong suốt từng câu chữ của “Lửa và Hoa…” trong gần 30 năm sống ẩn nhẫn, thầm lặng với thơ. Trang thơ nào cũng ắp đầy nỗi niềm cô đơn, quạnh hiu kiếp nhân sinh lạc lõng, cũng tràn ngập ước vọng trời thơ một đời da diết kiếm tìm; cho dù có đôi khi tấc lòng cũng chùng xuống cung bậc của nỗi “xa xôi gởi lại ánh tơ tằm”:

“Trang giấy vàng ươm, tình mãi vắng

Xa xôi gởi lại ánh tơ tằm

Lòng Quê, mây sớm chơi cùng núi

Sông biếc nào in, nguyệt vẫn rằm.”

(Trước Trang Giấy – tặng Nam Chữ)

Hay tỉnh táo hơn với “Nhân Một Câu, Nhắn Gởi…” (tặng tác giả “Giọt Trăng” *):

1.

“Ai đọc thơ tôi mà hỏi thơ?

Thôi thì, thơ mộng, lửa trời hơ

Đất Quê sớm tối còn hơi ấm

Vẫn lộng Đường Đi, điểm sáng chờ

2.

Ai đọc thơ, ai xuất bản thơ!

Đôi điều rất thật lại vu vơ

Cũng là chút mộng còn lưu dấu

Qua cả trăng sao, suốt bến bờ.”

Tiếp nối “Cát Bụi Thơ”:

“Đây xương máu còn xanh sông núi

Nợ linh hồn vẫn suối tinh mơ

Bao nhiêu bước mất, chân chờ

Gặp hoài trong cát bụi thơ tuôn trào”

Bên cạnh hai thể thơ ngũ ngôn và thất ngôn tứ tuyệt rất mới là sở trường của Đặng Tấn Tới, anh còn rất thành công ở thể thơ Haiku và lục bát biến thể hiện đại từ nhiều chục năm trước, để chuyên chở cái cốt tủy của xúc cảm sâu lắng, của tư tưởng uẩn khúc, mong manh.

Bất chợt vài bài thơ Haiku:

“Thức dậy

Ánh trăng đầy trời

Lòng ta ơi!”

(Lòng Trăng)

 

“Không đâu

Con ong đậu

Giàn bầu xanh”

(Sống Động)

 

“Lá ngô đồng

Ồ lá ngô đồng

 Thu không”

(Thu Không)

 

“Tình Yêu

Cho rất nhiều điều

Như thật.”

(Kỳ Diệu)

Hai đoạn 6/8 (1 và 2) trong 10 đoạn của bài “Những Ngày…”:

1.

“Những ngày bụi chuối sau hè

Cành tre trước ngõ, tiếng ve lưng trời

Máu đầm nhịp thở bên người

Hỏi gì Quê cũ, Không Lời chốn đây

2.

Những ngày cát bụi thơ ngây

Em về bên nội trăng đầy bước đi

Đêm đêm sao sáng nghĩa gì

Một ông sao sáng, hai vì sáng sao

Những ngày mặt đất chiêm bao

Bởi đêm rất thật đã trao cho trời.(…)”

Một số hình ảnh thường nhật của nhà thơ sau năm 1975 - “Đào Gốc, Qua Sông Về Trồng Kiểng”, cũng đã được Đặng Tấn Tới khắc chạm như một bức phác họa tài tình rất mưc, ghi dấu kỷ niệm một thời:

“Đào cây, dứt rễ, sang sông

Âm dương nửa gánh bềnh bồng trên vai

Gốc xưa chớm nụ ngày mai

Bao la mây nước sáng vài giọt vui”

Và cảnh “Về Vườn” của kẻ sĩ “lỡ mùa theo đậu sắn”:

I.

“Ngày xa, không ước hẹn

Về lại, chuyện đâu ngờ

Vườn hoang khô đất đá

Chân ngập ngừng bâng quơ

Lỡ mùa theo đậu sắn

Vui vận trúc am che

Nuôi thánh thai tròn lớn

Phiêu phiêu ngọn gió hè

II.

Vườn xưa người bỏ lại

Hôm sớm anh em về

Xới đất trồng rau cải

Bình thường mộng gối Quê

Rào thưa như hạn bước

Sách nát, chí đâu cùn

Một nhát cuốc Vô Trước

Đầm đìa mạch Nước phun”

Hay trong bài thơ có tựa đề dài nhất (21 chữ): “Chiều Uống Rượu Với Cụ Sáu Nơi Xóm Nhỏ Vừa Say, Khinh Khoái Chia Tay, Hẹn Giữa Tuần Trăng Lại Uống”:

“Chơi quàng qua xóm nhỏ

Quên “làng - không - có - đâu”

Gặp người bên mái cỏ

Trò khỉ rỡn đôi câu
 

Cuộc đời cũng lắm chuyện

Đắng cay mà nhẹ tênh

Không ghiền vẫn cứ uống

Men rượu chiều lênh đênh

 

Gợn mây và mảy bụi

Vơ vẩn mộng lưng trời

Chữ “vừa” cùng lĩnh ý

Hẹn một chén trăng mời”

 

Tập bản thào “Lửa & Hoa, Bên Bờ Năm Tháng 2000” dày 374 trang, gồm 306 bài thơ đã được Đặng Tấn Tới sáng tác trong gần 30 năm, nhưng trong giới hạn của một bài tạp bút chỉ làm công việc “giới thiệu & ghi lại đôi điều cảm nhận” - nên trước khi “tạm khép” tập bản thảo, xin mời qúy bạn cùng đọc thêm hai bài thơ có tựa là “Quê Nhà” ( I & II), để cùng đồng cảm và chia sẻ với nhà thơ về những năm tháng “về vườn”:

 

QUÊ NHÀ

I.

“Không lưu lạc đất khách

Quê nhà chớm bạc đầu

Bao năm thân thế huyễn

Một sớm thẹn mày râu

Nào đâu đường lối trúc

Hoang thôn bước dãi dầu

Chẳng được như người trước

Am cỏ chỉ  vô cầu

Ngâm tràn câu thanh khí

Giọt lệ thấm ngàn thâu”

 

QUÊ NHÀ

II.

“Bao năm dài kín cửa

Bụi vẫn bám tình quê

Chưa quên hết một chữ

Có chăng ta đã về

Thời thế không lời nói

Phàm thánh chẳng còn chi

Núi xanh lòng xử sĩ

Trăng tỏ ý trời ghi”

 

(*) tập thơ của Quách Tấn

 alt

Đặng Tấn Tới ( người thứ 3 từ trái)

Quê nhà, tháng 01 năm 2013

  Trở lại chuyên mục của : Giới Thiệu