Sách Mới Xuất Bản:

THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG
(Tập thơ)

Tác giả: La Thụy
 
Lời tựa: Kha Tiệm Ly
Lời bạt: Nguyễn Khôi



 
 
BBT/HBG. hân hạnh giới thiệu với Độc giả, Cộng Tác Viên và Thân Hữu,

Nhà thơ La Thụy vừa cho 
 Xuất bản tập thơ :

Thơ Đời Ngân Vọng

-Đôi dòng về tác giả:

Tên thật: Đoàn Minh Phú
Địa chỉ: 79 - 1/8 Hoàng Hoa Thám Thị xã La Gi Tỉnh Bình Thuận
Email: phudoan56@gmail.com

-Bìa:

 






LỜI TỰA
 
 
Đã từ lâu, chúng tôi vẫn thường tự hỏi, giữa nhà thơ và nhà giáo chắc có cái “duyên” hay cái “nợ” gì trói buộc nhau. Vì hễ gặp nhà giáo, hỏi ra cũng là nhà thơ; gặp nhà thơ, hỏi ra thì cũng đã là nhà giáo! Có lẽ họ giống nhau ở chỗ là đem ngòi bút, trí tuệ của mình để hướng về một nét đẹp tâm hồn, phụng sự quần sinh. Nhà thơ, nhà giáo La Thụy không ngoài “duyên, nợ” đó.
 
La Thụy tên thật là Đoàn Minh Phú, hiện là giáo viên tại Thị Xã Lagi – Bình Thuận, là Phó Chủ Tịch Chi hội UNESCO Thơ Đường tại địa phương.
 
La Thụy sáng tác nhiều thơ văn, đăng trên nhiều tạp chí, báo viết, báo mạng; là chủ trang Blog BÂNG KHUÂNG……Anh đã có nhiều tác phẩm được in chung. Tập THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG lần đầu La Thụy in riêng.
 
THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG  tuy chỉ có 38 bài thơ nhưng khá súc tích với những thể thơ Đường Luật, Lục Bát, Tự Do hàm chứa được nhiều đề tài về học đường, tình bạn, tình quê hương, tình yêu lãng mạn, rượu và, nhân sinh quan.
Với lời thơ trong sáng, chất chứa ý tình rất thật của đời thường, THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG đã “khôn khéo” chen lẫn những đề tài khác nhau, tạo hấp dẫn cho người đọc, dẫn người đọc đọc suốt từ bài đầu đến bài cuối lúc nào không hay!
Có lẽ do sự nghiệp “trồng người” trong tim La Thụy nên đã anh mở đầu trang bằng những lời đầy tâm huyết, khiến người đọc hân hoan bước vào vườn thơ của anh:
          
“Nhặt cỏ vườn hoa bé
Nâng niu từng nụ hồng 
Nhựa xuân rung se sẽ
Mộng hồn bay lâng lâng”

          (Trên bục giảng mùa Xuân)
 
Sau đó chúng ta thấy ngay dạy học và làm thơ  không chỉ là nghề, mà còn là cái “nghiệp” trong suốt cuộc đời của tác giả:
 
“Văn chương nợ ấy còn chưa trả
Giáo nghiệp phận này vẫn phải mang.”

                                        (Hoài cảm)
 
“Còn chưa trả”, “ nợ phải mang” tưởng chừng như lời than của tác giả khi bị bắt buộc trói vào nghiệp! Nhưng thực tế đó là niềm tự hào, sự tự nguyện của tác giả:
 
“Nghiệp bút ta vương hoài lận đận
Tinh thơ ai buộc mãi đam mê”

                                        (Tiếng lòng)
 
Nếu không thì sao sắp đến tuổi hưu, sắp được thoát “nợ”, anh lại cảm thấy tiếc nuối, vấn vương với trường lớp, bục giảng, và không quên ân cần dặn dò những đồng nghiệp lớp sau:
 
“Ừ thì mình cũng qua cầu
Rồi đây bục giảng thành màu khói sương”

 
và:
 
“Chúc người ở lại tâm đồng
"Trồng người" góp sức thành công bội phần”

                               (Thơ tặng người nghỉ hưu)
 
Yên tâm tìm đến Thơ - nỗi đam mê cuốn hút cả đời - tác giả ung dung tận hưởng thú thanh nhàn:
 
“Cho ta ít phút thanh nhàn
Câu thơ bất chợt xuất thần thăng hoa”

                                (Tàn niên cảm tác)
 
Và:
 
“Ung dung tự tại cười khinh khoái
Hào sảng ngân vang khúc tráng ca”

                                       (Nhàn ca )
 
Thơ thường đi đôi với rượu. La Thụy say, không phải say vì rượu mà vì nỗi lâng lâng, vừa sảng khoái của cảm giác tự do, vừa mang miềm u uất:
 
“Danh lợi: chán chê vòng tục lụy
Rượu thơ:  ngây ngất thú yên hà”

                                  (Chào xuân)
 
‘Mạch sầu hiu hắt làn môi
Đẫm thơm men rượu dệt lời thơ bay
Thả hồn rong ruổi trời say
Nghênh ngang gõ nhịp hao gầy tháng năm”

                                     (Rong ruổi trời say)
 
Tình yêu và chất lãng mạn không hề thiếu trong thơ của bất cứ thi sĩ nào; nếu không chẳng khác nào một  vùng đất màu mỡ mà thiếu những loài hoa đẹp. Chất lãng mạn của La Thụy được thể hiện qua những câu thơ diễm tuyệt, cao vút …
 
“Xiêm áo mỏng ủ men tình thắm đượm
Tiếng hồ cầm huyền hoặc dáng liêu trai”

                                        (Tranh Tố Nữ)
 
Sao khuya chếch bóng soi hoài vọng
Lãng đãng vàng gieo rợn nét trinh

                         (Liêu trai cảm tác)
 
Chất lãng mạn còn đột phá trong hai bài thơ toàn âm bằng (bình) với cách phóng bút điêu luyện đã khiến người đọc nhớ thơ một Thâm Tâm năm nào, hay cung nhạc u trầm của Đặng Thế Phong khi xưa; mà theo chúng tôi, có lẽ còn hay hơn thế nữa:
 
“Đêm đêm mơ ai nhìn mây trôi,
Chừ đây uyên ương không còn đôi
Rồi em sang ngang trên thuyền hoa
Giang hồ phiêu bồng ru đời ta”

                                       (Tình xưa)
 
“Tương tư sao, đàn dâng sầu
Say men nồng hay say màu thời gian
Vời chân mây, nhòa non ngàn
Bâng khuâng heo may, mơ màng hơi thu”

                                                  (Hồ Cầm)
 
Sảng khoái ung dung là thế, tình tứ lãng mạn là thế, nhưng La Thụy vẫn không tránh khỏi đôi phút chạnh lòng trước bóng xế của thời gian, trước những thăng trầm, dâu bể cuộc đời:
 
“Tráng khí ngày nao dường úa lạnh
Hùng tâm thuở ấy chợt trôi xa”

                                   (Chạnh lòng)
 
Những giây phút bùi ngùi nhớ quê hương:
 
Ly hương khắc khoải thương mưa Bấc
Biệt xứ bâng khuâng nhớ gió Lào

                                     (Vọng cố hương)
 
 Trong giây phút đắm chìm trong nỗi suy tư về cõi thế, tác giả đã có những câu thơ thiền mang âm hưởng giáo huấn Nhà Phật như thi hào Nguyễn Du:
 
 
“Thiện tâm hạt đã nẩy mầm
Sao còn ảo hóa phù vân nỗi mình”

                       (Với Lương Minh Vũ)
 
Về một kiếp người, tình người:
 
“Hồn thiêng sơn dã gọi bình  nguyên
Vạn năm thẳm đọng triền miên mộng dài
Vọng âm tiếng khóc sơ khai
Mênh mang tro bụi cõi người hóa thân”

                                                    (Thụy du)
 
“Thôi xin đừng nói tỉnh mê
Thế nhân mắt trắng mệt mề đớn đau”

                                (Tàn niên cảm tác)
 
Mặc dù có nhiều trăn trở trong cuộc sống, nhưng La Thụy vẫn luôn giữ được cái TÂM của mình, coi thường mọi thứ cám dỗ và đối phó với chúng với một thái độ lạc quan và cách suy nghĩ tích cực:
 
“Mặc cho phiền muộn rôi đi
Cái vòng danh lợi đâu ghì được ta”

                        (Còn gieo hạt mộng)
 
“Cơm áo đong đưa lòng dậy sóng,
Sách đèn dang dở miệng hoen cười”

                               (Sơ thu tự thán)
 
Và luôn tin tưởng về một ngày mai tốt đẹp hơn:
 
“Chờ nắng hồng lên cành trỗ lộc
Giao thứa canh thức  nhánh đơm hoa”

                               (Chiều đông trẩy lá)
 
“Xôn xao nhựa chuyển run cành lá,
Phơi phới tình xuân phả nhạc lòng”

                                      (Tình xuân)
 
Và reo lên như trẻ thơ:
 
“Ờ thiên kỷ hết ta còn đó
Vật đổi sao dời xuân vẫn xuân”

 
Và cuối cùng, là một niềm vui bất tận khi xướng họa thơ Đường cùng bạn hữu:
 
Xướng họa gieo vần thêu ý bút
Tâm giao nâng chén dệt đường tơ

                                   (Tình thơ)
 
Một đời gắn bó với nghề giáo và đeo nặng nghiệp thơ, hẳn không phải mà ngẫu nhiên La Thụy cho ra mắt THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG vào dịp Ngày Nhà giáo 20/11/2013.
 
THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG chỉ vỏn vẹn 38 bài thơ, song đã hàm chứa nhiều thể loại, nhiều đề tài như đã nói ở trên. Với văn phong trong sáng, thi tứ dồi dào cùng với bút pháp khá điêu luyện, THƠ ĐỜ NGÂN VỌNG là một tập thơ đáng đọc vậy.
 
Dù nghề viết đã theo mình ngót nửa thế kỷ, song chúng tôi rất ngại ngùng (và đã từ chối) viết Lời Tựa cho nhiều tác giả, càng không dám lạm bút phê bình thơ văn bất cứ ai, vì tự nghĩ mình chưa có khả năng làm điều đó. Song, với La Thụy, có lẽ vì đồng cảm với người cùng nghề, cùng “nghiệp”, và nhất là sau khi đọc bản thảo của anh... Do đó, lần đầu tiên chúng tôi viết lời tựa nầy. Điều sai xuất không thể tránh khỏi. Kính mong độc giả tiếp nhận với lòng độ lượng.
 
                                              Mỹ Tho, ngày 14 tháng 11 năm 2013
                                                                     Kha Tiệm Ly


 

                    LỜI BẠT
 
LA THUỴ - HỒN THƠ PHIÊU DU NƠI PHỐ THỊ
 
Mùa hè đỏ lửa 1972, cậu học sinh Đoàn Minh Phú theo chân người tản cư Quảng Trị, cùng trường Nguyễn Hoàng dời vào Trại 5 Non Nước – Đà Nẵng để rồi sau gần 40 năm (khi đã là thầy giáo sắp về hưu - ở La Gi – Bình Thuận) đắm hồn hồi tưởng:
 
         Thoáng kỷ niệm về bơi trong đáy mắt
         Ta trầm ngâm hoài tưởng cả trời xưa

 
Dân tộc Việt Nam ta là một dân tộc đại bất hạnh luôn ở nơi bão táp của thiên nhiên và khói lửa của chiến tranh – những hình phạt của Thượng đế với con người lầm lỗi (tàn phá môi trường, đánh giết lẫn nhau) nên có cảnh:
 
        Trường học cũ giờ tan thành cát trắng
        Thầy cô xưa mù biệt với ngàn khơi

 
Kinh thánh Matthew, có đoạn viết lời răn của Chúa Jesus: “Đừng tích luỹ của cải trên thế gian này cho bản thân người, nơi mối mọt sẽ huỷ hoại chúng và trộm cướp có thể đột nhập vào và lấy chúng đi vì của cải của con người ở đâu thì lòng ngươi sẽ ở đó”.
 
Nhà giáo Đoàn Minh Phú – nhà thơ La Thuỵ là con chiên ngoan đạo “ kính Chúa yêu nước” như mọi công dân khác nhưng khác người là có tâm hồn thi nhân trong sáng nên nhạy cảm với thời cơ chế thị trường đầy tha hoá biến động này:
 
     Ngày tháng lặng buồn tênh vòng cơm áo
     Ta chồn chân mỏi gối với đời mòn
     Thu mình lại ẩn thân vào ốc đảo
     Chút khẽ khàng liệm kín khối tình son

 
Cái “khối tình son” ấy, đó là:  “Em hồn hậu trong ta thành vang bóng / Mắt môi xưa đọng ngấn ngát hương lòng”, đó là :
 
  Em thoáng hiện cho thơ đời ngân vọng”  …
  Bay cùng cánh mộng bâng khuâng
  Tình thơ ý nhạc như lần tuôn ra …
 

Còn đây là cuộc sống thường nhật:
 
    Một đời yêu phấn bảng
    Thân thương tiếng giảng bài

 
   Rồi cũng sẽ đến một ngày “Giã từ giáo nghiệp hôm nay / Giao thoa : khoảng lặng ...  nhẹ bay cung trầm /  Thì ừ ! Chào biệt bạn bè / Chia tay trường lớp, lắng nghe tiếng lòng / Chúc người ở lại tâm đồng / “Trồng người” góp sức, thành công bội phần”
 

  Thơ là tiếng lòng, tiếng con tim, tiếng sự sống… mỗi thi nhân bằng ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ của riêng mình cấu tứ nên bài thơ với những tình - cảnh - sự để thoả mãn nhu cầu nội tâm (giãi bày) đồng thời cũng là “thông điệp” gửi đến bạn đọc:
 
   Thi hứng chừ đây có cạn nguồn?
   Con tằm nhớ lá rối tơ vương
   Phải chăng kén khép chôn hoài niệm
   Lãng đãng hồn hoa đọng khói sương
 

La Thuỵ ở thị xã La Gi bờ biển sóng, bên sông Dinh đổ xuống từ Di Linh – sớm sớm tinh mơ đến giáo đường tham dự thánh lễ, đến giờ lên “bục giảng” “đứng lớp” làm nhiệm vụ “trồng người”, thời gian và không gian bó hẹp… có lẽ vì thế mà “đời” đã làm “thức dậy” hồn thơ ở anh:
 
 Ta ,
 Gã mù huơ gậy đồi hoang
 Sờ soạng từng dấu chân
 Soãi bước
 Thụy du nhẹ nâng gót
……………………….
 
Một phút tâm đầu mơ dáng bướm 
Ngàn năm ý hợp mộng hình tinh

 
La Thuỵ mộng du, phiêu bồng có khác nào thi sĩ Vũ Hoàng Chương xưa với những câu thơ khá đẹp:
 
- Gõ bồn Trang Tử mơ hồ điệp
Vung gậy Xích Tùng mộng tố nga
 
- Sầu dâng phủ giấc muộn phiền
 Hồn hoang nghẽn lối tìm quên trăng vàng
 Sáng ra mình mãi lang thang
 U uất mấy nhịp cơ hàn ai hay
 Chừ đây tay vẫn trắng tay
 PHÚ sao tưởng mộng ăn mày vu vơ
 Ngửa tay nếm chút dại khờ
 Dìu nhau bạn hữu vài giờ lất lây
 Thanh bần hằn vết chua cay 
 Ô hay trôi mất chân mây mộng đời

 
Để rồi : “Chừ cho trái đất xoay vần / Trong ta tuôn chảy vô ngần bơ vơ” có khác nào trung niên thi sĩ Bùi Giáng?
Thơ La Thuỵ đậm chất Lão Trang (thoát tục) như một thi nhân, kẻ sĩ “tu tại gia”:
 
Hương Tây phương giũ phù hư
Thoát trùng bể khổ Thuyền Từ phiêu diêu
Hòa mình cùng chốn tịch liêu
Chuông mai Suối Đó, kinh chiều Chùa Đây

 
Về nghệ thuật, thơ La Thuỵ rất có hồn, với ngôn ngữ tinh luyện, điêu xảo, hình tượng thơ đẹp sống động, với tình thơ man mác hoài thương. Cái “bâng khâng” của thơ bình thanh La Thuỵ - kiểu thơ Bích Khê, đọc lên như một khúc nhạc “ ngàn mây Tràng giang buồn muôn đời …”:
 

   - Hồn chiều in lên mi
   Thuyền tình xuôi mây đi
   Ồ nàng hay sao trời
   Thiên hà hay trùng khơi ?
 
  - Sầu thu mênh mang thương rừng phai
  Tương tư bâng khuâng nhiều canh dài



  - Vàng trăng giăng tơ khơi tình xưa
  Tình ơi ! Tình ơi ! Đừng đong đưa

 
Chao ôi, làm thơ trước tiên là viết cho mình, rồi là để giãi bày nỗi lòng với bạn bè, người thân… Ở nhà giáo, nhà thơ La Thuỵ đó là “thơ đời ngân vọng” chân tình và mộng mơ huyền ảo, thật đúng là nghệ thuật làm nên bài thơ, còn trái tim mới là thi sĩ vậy
           Góc thành Nam Hà Nội 20/11/2013
                           Nguyễn Khôi
                        (Nhà văn Hà Nội)
 

  Trở lại chuyên mục của : Giới Thiệu