LA THỤY
(Chuyển tiếp)
 

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 7 ):
“SỰ THẬT TỪ MỐI TÌNH HOÀNG HOA”... 

Phanxipăng

 
 

 
Năm 1933, Hoàng Thị Kim Cúc tròn đôi mươi

 

 
Kỳ trước, chúng tôi có nhắc qua “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” của mối tình đầu mà Hàn Mạc Tử dành cho cô gái Huế họ Hoàng. Đó là vào năm 1933, giai đoạn chàng đang làm thầy ký đạc điền ở phố biển Quy Nhơn. Trong Đôi nét về Hàn Mạc Tử (tlđd), Quách Tấn ghi nhận: “Khi Tử làm sở đạc điền Quy Nhơn, Tử có yêu một tiếu nữ ở cùng một con đường - đường Khải Định - biệt hiệu là Hoàng Cúc”.

Nàng có họ tên đầy đủ là Hoàng Thị Kim Cúc, ái nữ của tham tá Hoàng Phùng - bấy giờ đảm trách chức vụ giám đốc Sở Đạc điền Quy Nhơn. Với nguồn gốc, chúng tôi chưa hề thấy Hoàng Thị Kim Cúc mang biệt hiệu Hoàng Cúc bao giờ cả. Biệt hiệu nàng là Hoàng Hoa. Có lẽ bắt nguồn từ những câu thơ Hàn viết thuở tương tư nàng. Như bài tứ tuyệt Hoa cúc:
 
Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa,
Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha.
Vẻ mặt khác chi người quốc sắc,
Trong đời tri kỷ chỉ riêng ta.
 
Hoặc rõ rệt hơn là trong bài Sao, vàng sao - bấy nay được lưu hành dưới tiêu đề Đừng cho lòng bay xa - mà Hàn từng gửi “tiểu thư khuê các”:
 
...Trời nhật nguyệt cầu vồng bắc tứ phía,
Ôi Hoàng Hoa, hồn phách đến nơi đây,
Hương ân tình cho kết lại thành dây,
Mong manh như lời nhớ thương hàng triệu...
 
Sinh thời, Hoàng Thị Kim Cúc thỉnh thoảng cũng sáng tác thi ca và ký bút danh Hoàng Hoa (hoặc Hoàng Hoa thôn nữ, hoặc H.H).
 
Hoàng Thị Kim Cúc sinh ngày 5-12-1913 (mùng 8-11 năm Quý Sửu). Hàn sinh năm Nhâm Tý 1912 hơn nàng 1 tuổi. Khoảng cách tuổi tác như thế, theo quan niệm dân gian quả rất xứng đôi vừa lứa: “Nhất gái hơn 2, nhì trai hơn 1”. Lứa thì vừa đấy, song chàng với nàng chẳng hề “đôi lứa xứng đôi” - dẫu chỉ xứng đôi trên tình trường như nhiều người bấy lâu ngộ nhận. Sự nhầm tưởng kia, trớ trêu thay, lại xuất phát từ những hồi ký do thân bằng quyến thuộc của Hàn viết và công bố sau khi Hàn mất! Để bạn đọc nắm rõ sự thật vấn đề, chúng tôi xin sao lục mấy lá thư của chính người trong cuộc là Hoàng Thị Kim Cúc.
 
Thư đề này 13-3-1971 gửi Quách Tấn:
 
“...Hồi đó Tử thường đến chơi với Hoàng Tùng Ngâm là em chú bác với tôi). Bạn Ngâm đông lắm. Trong gia đình tôi, không ai để ý đến bạn của Ngâm. Câu chuyện tâm tình của Tử, trừ Ngâm ra, cũng không ai biết. Tôi được biết trước khi thầy tôi sắp về hưu, do một người bạn khác nói lại, chứ không phải Ngâm...”
 
Thư đề ngày 15-4-1971 gửi Quách Tấn:
 
“...Hồi ấy tuy nhà Tử ở gần tôi, song Tử và tôi cách xa nhau như hai ngọn núi, Tử thì kín đáo và bẽn lẽn như con gái, còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế Tử cũng đã tìm cách để gặp, nhưng rồi vẫn cũng chưa toại nguyện (...). Năm 1936, khi Tử ở Sài Gòn về Quy Nhơn, tôi vẫn còn ở Quy Nhơn đến mấy tháng sau mới về Huế...”
 
Thư đề ngày 15-10-1971 gửi Quách Tấn:
 
“...Về tuồng cải lương [vở tuồng Hàn Mạc Tử của soạn giả Viễn Châu] thì tôi được biết do đoàn Dạ Lý Hương đóng vào đầu năm 1970 (hồi đó tôi vào Sài Gòn được nghe nhiều người kể lại, trong đó có BS. Lê Khắc Quyến kể nữa) và lần lượt đã trình diễn trên tivi khoảng mấy tháng sau tại các tỉnh miền Trung. Họ đã diễn tả đúng đoạn văn của ông trong tập Văn số 73 trang 93 [hồi ký [i] Đôi nét về Hàn Mạc Tử [/i], tlđd]. Nghĩa là họ diễn đoạn Tử nhờ người đến cầu hôn bị ông bà thân nhà gái từ chối, hất hủi, vì lẽ Tử không xứng mặt đồng sàng! Cô Cúc không có trong vở tuồng, không xuất hiện trên sân khấu chỉ có ông bà thân của cô và Tử thôi. Ông bà đã lột hết tài nghệ phơi bày rõ rệt tâm địa của con người chỉ biết tiền, ham danh vọng, khinh miệt người, hống hách... Như vậy, ông đã thấy rõ, vì động chạm sai lạc đến thầy mẹ tôi và Tử nên tôi mới lên tiếng, chứ không phải vì tôi!”.

 
Thư đề ngày 16-10-1987 gửi Nguyễn Bá Tín - em ruột Hàn:
 
“...vào đầu năm 1936, sau khi ông trợ Cát là cậu tôi ghé nhà chơi, lúc ra về bỏ quên thư của Tử gửi cho cậu tôi mà nội dung chỉ nói về chuyện tâm tình của Tử. Tử có tới gặp tôi 2 lần; lần đầu chỉ nói bâng quơ vài câu rồi chào về. Lần thứ 2, Tử mạnh dạn trong dáng điệu rụt rè, lắp bắp mấy lời tỏ tình, rồi đưa tặng tôi tập thơ Bâng khuâng với mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ. Tôi bàng hoàng rồi cũng rụt rè từ chối, không nhận sách, không nhận thư (...). Gần cuối năm 1936, khi Tử về dự Hội chợ Huế, mang theo một xấp Gái quê vừa in xong, có gặp tôi cùng đi với anh em tôi trong Hội chợ. Tử đưa tặng anh em tôi mỗi người một tập, có đề chữ tặng, không tặng tôi mà chỉ yên lặng nhìn! Mấy hôm sau, Ngâm cho biết: Tử có về nhà tôi ở Vỹ Dạ mà lại đứng ngoài ngõ nhìn vô, rồi từ đó chúng tôi không gặp nhau, lại không thư từ, thăm viếng, hứa hẹn, mỗi người một ngả, cách xa nhau như hai ngọn núi (...). Nếu không có bức thư ông trợ Cát để quên ở nhà tôi thì có lẽ tôi vẫn dửng dưng vô sự. Và Ngâm cũng không nói gì với tôi về mối tình của Tử. Ngâm thấy không thể giấu được nên mới kể đại khái rằng: “Trí nó cảm chị lâu rồi, từ hôm chị bán gian hàng ở hội chợ của Toà sứ Quy Nhơn tổ chức (...). Trí đã nhờ Ngâm đưa thư cho chị, Ngâm không đưa. Trí nhờ nói với chị về nỗi lòng, Ngâm từ chối. Trí làm thơ tặng chị đăng trong báo Phụ nữ tân văn, Ngâm cắt mấy bài thơ vừa rồi mới đưa báo cho chị (...). Thật tội cho thằng Trí! Nó kể cho em nghe nhiều nhiều, mà Ngâm đâu có nói gì với chị, vì Ngâm không muốn làm bận rộn tâm trí chị, khi thấy chị chưa nghĩ gì về chuyện yêu đương!” Thật thế, lúc đó tôi đã 21 tuổi rồi [21 tuổi ta, 20 tuổi tây, tức là vào năm 1933] mà sao còn quá ngơ ngác!...”
 


Thủ bút của Hoàng Thị Kim Cúc trong thư đề ngày 16-10-1987 gửi Nguyễn Bá Tín

Thư đề ngày 11-5-1988 gửi Hoàng Toại - anh cả của Hoàng Thị Kim Cúc:
 
“...Lâu nay em chưa có dịp kể cho anh nghe và em cũng không kể cho ai hết, tuy thế đã có nhiều người biết chuyện, biết qua sách báo sai lạc, biết qua sự phỏng đoán và tưởng tượng của họ. Câu chuyện xảy ra trên nửa thế kỷ rồi anh nợ, em cũng im lặng cho nó đi qua, vì câu chuyện thuộc về dĩ vãng. Không ngờ mấy năm sau đây mấy nhà viết sách tìm tòi moi móc, moi những chuyện không đúng sự thật như bài báo của Kiêm Đạt ở bên đó [Mỹ] mà anh đã cắt gửi về cho em coi chẳng hạn (...). Hồi em ở Quy Nhơn với ba, Hàn Mạc Tử có để ý đến em, nhờ Ngâm hỏi ý kiến em, Ngâm không hỏi. Anh ấy kiếm cách gặp em kể lể nỗi niềm, em thấy trước là câu chuyện không đi đến đâu nên từ chối. Câu chuyện chỉ có chừng nấy, em yên trí là không liên quan gì với nhau nữa, không dè thi sĩ cứ thầm yêu trộm nhớ, làm thơ rồi nhờ bạn bè tặng sách báo cho em, em vẫn cứ im lặng, không trả lời trả vốn (...). Sau khi Hàn Mạc Tử qua đời, Ngâm mới kể rành mạch nỗi lòng của Hàn Mạc Tử đối với em. Em hết sức cảm kích và vô cùng ngậm ngùi. Anh có nhớ hồi anh làm ở văn phòng nào đó, ông Trần Tái Phùng cũng làm một chỗ với anh, một hôm anh đi làm về, đưa cho em một tờ giấy nhỏ có ghi hai câu thơ của Hàn Mạc Tử do ông Trần Tái Phùng đưa cho anh đem về hỏi em. Hai câu thơ đó là: “Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá / Muốn ôm hồn Cúc ở trong sương”. Em xem xong chỉ cười mà không trả lời (...). Hôm nay em mới kể câu chuyện tâm tình đó với anh, kể ra cũng quá chậm, song chắc anh cũng hiểu tâm trạng em mà hoan hỷ cho em (...). Kha Anh, Kha Em hay Em Nhỏ thì có biết chuyện, song cũng biết lơ mơ vì em không nói chi hết; mấy em ở trong nhà cũng chỉ biết qua sách báo (...). Trong gia đình, anh là người đầu tiên mà em kể chuyện tâm tình của em...”
 
Qua trích đoạn 5 lá thư của người trong cuộc, ắt bạn đọc đủ cơ sở để kết luận: mối tình đầu Hàn dành cho Hoàng Hoa chỉ là tình đơn phương. Trao đổi với chúng tôi về chuyện này, nhà văn Trần Thanh Địch nhận định:
 
- Năm 1941, ngay sau khi Hàn qua đời, anh Trần Thanh Mại soạn sách Hàn Mạc Tử [sđd] đã có đoạn kết tiên đoán rất đúng: “Tôi vẫn biết trước, trong một ngày không lâu, người ta sẽ dành nhau cái vinh dự xây dựng cho thi sĩ Hàn Mạc Tử những chiếc Thánh giá vĩ đại, đến cả những lăng tẩm nguy nga nữa”. Tham dự một số buổi lễ kỷ niệm Hàn Mạc Tử được tổ chức đó đây trong thời gian qua, chắc anh đã chứng kiến cảnh mấy phụ nữ tranh nhau tự nhận là “nàng thơ”, là “tình nhân” của thi sĩ quá cố. Thói đời mà! Thế nhưng, chị Cúc thì khác. Chị không nhận những gì mình không có. Tôi cho đó là đức tính trung thực đáng quý. Và nhiệm vụ của các cây bút ngày nay là hãy cố gắng đem “cái gì của César trả lại cho César”.

 
Thiết tưởng cần soi sáng thêm đôi điểm về nhân thân Hoàng Thị Kim Cúc cùng một vài nhân vật liên quan từng được đề cập trong 5 bức thư trên. Biết đâu đôi điểm này lại có khả năng là một trong những “chìa khoá” giúp chúng ta “giải mã” phần nào hành trạng và tác phẩm của Hàn thi sĩ.
 
Nhiều người dân Huế hiện tại vẫn còn nhớ Hoàng Thị Kim Cúc ít nhất ở hai cương vị: nhà giáo kiêm nữ cư sĩ (tu trì Phật giáo tại gia). Lật các tuyển tập Đồng Khánh mái trường xưa do Ban liên lạc cựu học sinh Đồng Khánh - Huế (nay là trường THPT Hai Bà Trưng) thực hiện từ năm 1992 trở đi, chúng ta thường bắt gặp những dòng hồi ức của bao thế hệ học trò về “hình ảnh dịu dàng, vóc dáng nhỏ nhắn, vui vẻ ân cần nhưng cũng rất nghiêm khắc của Hoàng Thị Kim Cúc, cô giáo đầu đàn của bộ môn nữ công gia chánh thời ấy” (trích bài viết của Võ Thị Tiểu Kiều - tlđd). Hoàng Thị Kim Cúc cũng là tác giả bộ sách Món ăn nấu lối Huế do NXB Khai Trí (Sài Gòn) ấn hành năm 1970, sau này NXB Phụ Nữ (Hà Nội) và NXB Đà Nẵng in lại.
 
Thời ấy, nếu đến trường Đồng Khánh được các nữ sinh kính cẩn thưa “cô”, thì lúc ra đường, Hoàng Thị Kim Cúc thường được nhiều thanh thiếu niên gọi thân tình bằng “chị”. Đó là cách xưng hô phổ biến đối với các nữ huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam (GĐPTVN - Tiền thân là đoàn Thanh niên Đức Dục và Gia đình Phật hoá phổ được thành lập tại Huế vào thập niên 1930). Mà chị Cúc là huynh trưởng phó ban hướng dẫn trung ương GĐPTVN, phụ trách ngành nữ từ năm 1947. Như vậy, cư sĩ không chỉ tu tại gia mà còn tích cực hoạt động xã hội. Chúng tôi đã gặp chị Cúc lần đầu tài đồi thông chùa Từ Hiếu (Huế) trong hội trại mang tên Hoài Nhân do GĐPTVN tổ chức năm 1974. Sau đó, chúng tôi đôi lần ghé thăm chị ở nhà riêng tại Vỹ Dạ (Huế) mà lần cuối cùng là lúc chị nằm thoi thóp trên giường bệnh sau vụ tai nạn giao thông xảy ra tại TP. Hồ Chí Minh ngày 11-8-1988 rồi được chuyển về Huế ngày 23-9-1988. Ngày 3-2-1989, tức 27 tháng chạp Mậu Thìn, Hoàng Thị Kim Cúc - pháp danh Tâm Chánh - lìa trần, hưởng thọ 76 tuổi. Lễ di quan diễn ra ngày 15-2-1989, nhằm ngày 10 tháng giêng Kỷ Tỵ. Lúc ấy, chúng tôi ở TP. Hồ Chí Minh nên không dự được. Vậy xin dẫn đoạn tường thuật đám tang Hoàng Thị Kim Cúc đăng trên tạp chí Sông Hương số 2-1990: “Có lẽ đó là một trong những đám tang lớn nhất ở Huế gần đây mà tôi [Mai Văn Hoan] được biết. Đoàn xe tang nối dài từ Đập Đá đến trường Quốc Học. Quanh xe tang đính nhiều câu đối ca ngợi phẩm hạnh người vừa khuất. Tôi còn nhìn thấy nhiều bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ [của Hàn Mạc Tử]...”

 


Đám tang Hoàng Thị Kim Cúc qua Đập Đá, Huế. Ảnh: Hồ Tấn Nghiêm
 
Ngoài ông anh cả là Hoàng Toại định cư ở nước ngoài, Hoàng Thị Kim Cúc còn có mấy anh ruột tập kết ra Bắc sau hiệp định Genève 1954: Hoàng Xuân Tuỳ (nguyên thứ trưởng Bộ Giáo dục), Hoàng Hoan Nghinh (nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại Philippines). Người em ruột Hoàng Tế Ngộ ở lại Huế, sau này “thủ từ” trong ngôi nhà mà chị Cúc từng sinh sống.

 


Kim Cúc cùng anh em ruột. Trái sang, hàng trước: Hoàng Thị Kim Cúc, Hoàng Tiêu Diêu tức Hoàng Xuân Tùy, Hoàng Thị Ngọc Anh; hàng sau: Hoàng Tế Ngộ, Hoàng Hoan Nghinh, Hoàng Do

Anh em chú bác của Hoàng Thị Kim Cúc có Hoàng Tùng Ngâm vốn là bạn thân cùng tuổi Nhâm Tý 1912 và cùng làm chung Sở Đạc Điền Quy Nhơn với Hàn. Sau năm 1954, Hoàng Tùng Ngâm tập kết ra Bắc, đổi tên là Hoàng Thanh Trai và từng làm đại sứ nước ta tại Sri Lanka, Ai Cập; đầu năm 1976 thì mất ở Hà Nội. Năm 1939, chính nhờ “xúc tác” của Hoàng Tùng Ngâm, Hàn đã hứng khởi sáng tạo một số áng thơ tặng Hoàng Thị Kim Cúc - trong đó có Ở đây thôn Vỹ Dạ, bài thơ gây nhiều tranh luận bấy nay...

 


Tranh chân dung Hoàng Thị Kim Cúc (đen trắng) nơi bàn thờ trong nhà riêng tại Vỹ Dạ, Huế. Ảnh: Phanxipăng
 
 
CHÚ THÍCH:

1) Hiện là đường Lê Lợi.

(2) Vở tuồng cải lương 'Chuyện tình Hàn Mạc Tử' do Viễn Châu và Thể Hà Vân hợp soạn năm 1957.
 
(3) 21 tuổi ta, 20 tuổi tây, tức là vào năm 1933.
 
(4) Bên đó: Hoa Kỳ
 
(5) Quý bạn đọc sẽ biết kỹ hơn về nhân vật này ở chương 'Những bạn thân đồng tuế đồng hương' của Hàn đã đăng tạp chí Thế Giới Mới 891 (5-7-2010) rồi đưa vào sách này.
 
(6) Cư sĩ: người tu trì Phật giáo tại gia.
 
(7) Trích bài viết 'Nhớ cô Hoàng Kim Cúc' của Võ Thị Tiểu Kiều in trong tuyển tập Đồng Khánh mái trường xưa năm 1992.
 
(8) Do Nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn ấn hành lần đầu năm 1970, sau được nhiều NXB tái bản.
 
(9) Gia đình Phật tử có tiền thân là đoàn Thanh niên Đức dục và Gia đình Phật hoá phổ được thành lập tại Huế vào thập niên 1930.
 
(10) Trích bài “Tiếng thở dài”- chia sẻ với Hàn Mạc Tử đăng tạp chí Sông Hương số 2 năm 1990, sau in vào sách Cảm nhận thơ Hàn Mạc Tử (NXB Thuận Hoá, Huế, 1999).
 
                                                                                    Phanxipăng

  Trở lại chuyên mục của : La Thụy