(Sưu tầm & Chuyển tiếp)
Những Bài Thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt
Của Vua Trần Nhân Tông
天長晚望
村後村前淡似煙,
半無半有夕陽邊。
牧童笛裡歸牛盡,
白鷺雙雙飛下田。
Thiên Trường vãn vọng
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi há điền.
Dịch nghĩa
Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như khói,
Bóng chiều tà nửa không, nửa có.
Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết,
Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng.
偈云
居塵樂道且隨緣,
饑則飧兮困則眠。
家中有宝休尋覓,
對境無心莫問禪。
Kệ vân
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch nghĩa
Sống giữa phàm trần, hãy tuỳ duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với mọi cảnh giới mà vẫn vô tâm, thì cần chi hỏi thiền nữa.
月
半窗燈影滿床書,
露滴秋庭夜氣虛。
睡起砧聲無覓處,
木樨花上月來初。
Nguyệt
Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thuỵ khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
Dịch nghĩa
Bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường,
Móc rơi trên sân thu, hơi đêm thoáng mát.
Tỉnh giấc không biết tiếng chày nện vải ở nơi nào,
Trên chùm hoa quế trăng vừa mọc.