Kha Tiệm Ly


1. HOÀNG SA  NỘ KHÍ PHÚ
 
Ngựa cũ quen đường,
Đĩ già lậm nết. 
Việc phế hưng mỗi thuở khác nhau,
Mộng bá chủ bao đời y hệt!
 
Ta thấy ngươi,
 
Từ Đông Chu bị họa Thất Hùng,
Đến Hậu Hán phải xiềng Tam Quốc.
Đất Trường An thây chất chập chùng,
Bờ Vô Định xương phơi chất ngất!
 
Đã biết,
 
Hễ gieo chinh chiến là kín đất đau thương,
Nếu động can qua thì mịt trời tang tóc.
 
Vậy mà sao,
 
Chẳng lo điều yên nước no dân,
Lại quen thói xua quân chiếm đất?
 
Như nước ta,
 
Một dải non sông, nam bắc chung giềng,
Trăm triệu anh em, trước sau như nhất.
Hoàng Liên, Tam Đảo, Hồng Hà, Cửu Long , muôn đời là máu là xương,
Phú Quốc, Côn Sơn, Trường Sa, Hoàng Sa, vạn kiếp  là da là thịt.
Máu xương ta, ai lại dám tách rời?
Thịt da ta, ngươi dám đòi chia cắt?
Bốn nghìn năm, liền tổ quốc phồn vinh,
Ba miền đất, khối giang sơn gấm vóc.
 
Người trăm triệu nhưng vốn một lòng,
Tim một trái dẫu nhiều sắc tộc!
Nữ nhi chẳng thiếu bậc anh hùng,
Thiếu niên cũng thừa người kiệt xuất.
 
Mười năm phục quốc, gươm Lê Lợi thép vẫn sáng ngời,
Ba lượt phá Nguyên, sông Bạch Đằng cọc còn nhọn hoắt.
Liên hồi giục, trống Ngọc Hồi hực bước tiến quân.
Luôn miệng thét, điện Diên Hồng, vang lời sát thát.
Ải Chi Lăng, Liễu Thăng chết còn lạc phách kinh hồn,
Sông Nhị Hà, Sĩ Nghị chạy còn đứng tim vỡ mật.
Rầm rộ vó câu Thường Kiệt, Khâm Châu ngàn dặm, không còn bóng quỉ bóng ma,(1)
Âm ầm tiếng sét Đống Đa, Quảng Đông toàn tỉnh chẳng tiếng con gà con vịt. (1)
 
Hùng khí dù dậy trời Nam,
Nghĩa nhân lại tràn đất Bắc:
 
Thương ngươi binh bại, tàn quân về, ngươi còn được cấp xe ngựa rình rang (2)
Trọng kẻ trung can, hổ tướng chết, ai vẫn cho thắp khói hương chăm chút?(3)
Mạc Cửu đem quân lánh nạn, chúa ta vẫn mở dạ đón người,
Hoa kiều mượn đất ở nhờ, dân ta vẫn chia cơm xẻ thóc.
 
Phúc cùng hưởng khi mưa thuận gió hòa,
Họa cùng chia lúc sóng vùi gió dập.
Giúp các ngươi như kẻ một nhà,
Thương các ngươi như người chung bọc!
 
Thế mà nay,
 
Ngươi lại lấy oán trả ơn,
Ngươi lại lấy thù báo đức!
Ăn đàng sóng, nói đàng gió, y như đĩ thúi già mồm.
Lộn bề ngược, tráo bề xuôi, khác nào điếm già bịp bạc.
 
Kéo neo tuần hạm, ào ào đổ bộ Hoàng Sa,
Quay súng thần công, ầm ỉ tấn công Đá Bắc.
Chẳng chấp hải qui,
Chẳng theo công ước.
Quen nết xưa xấc láo, giở giọng hung tàn,
Lậm  thói cũ nghênh ngang, chơi trò bạo ngược.
 
Nói cho ngươi biết; dân tộc ta:
 
Từng đánh bọn ngươi chỉ với ngọn giáo dài,
Từng đuổi bọn ngươi chỉ bằng thanh kiếm bạc.
Từng đánh Tây bằng ngọn tầm vông,
Từng đuổi Nhật với thanh mác vót!
 
Vì khát độc lập mà thường uống nươc lạch, nước đìa,
Vì đói tự do  mà quen ăn  muối mè, cơm vắt.
Sá chi tóc gội sa trường,
Đâu quản thây phơi trận mạc.
 
Hãy liệu bảo nhau,
 
Nhìn thây Gò Đống mà liệu  thắng liệu thua,
Thấy cọc Bạch Đằng mà nghĩ sau nghĩ trước!
Đừng để Biển Đông như Đằng Giang máu nhuộm đỏ lòm,
Đừng để Hoàng Sa là Đống Đa xương phơi trắng xác!
 
Nếu ngươi dựa vào hỏa tiển, phi cơ,
Thì ta cũng có tuần dương, đại bác.
So vũ khí, thì kẻ nhược người cường,
Đọ trái tim, coi ai gang ai sắt?
 
Thư hãy xem tường,
Hoàng Sa hạ bút.
 
Kha Tiệm Ly

 
 (1) Sử ghi: Khi Lý Thường Kiệt  xua quân qua Khâm Châu, Liêm Châu, cũng như khi quân Thanh bại trận Đống Đa chạy về, thì dân Tàu vùng biên giới kinh hoàng chạy  theo. “Từ Nam Quan về bắc hàng trăm dặm vắng tanh, không thấy bóng con gà, con vịt”
(2) Sự kiện Lê Lợi cấp ngựa và lương thực cho tù binh quân Minh về nước
(3) Sự kiên dân ta lập miếu thờ Sầm Nghi Đống hạ tướng của Tôn Sĩ Nghị).
 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
 
 
2. HOÀNG SA TIẾU NGẠO PHÚ
 
Tưởng rằng,
 
Tổ tiên có lắm bậc đại hiền,
Tử tôn ắt nhiều người cao đức.
 
Ngờ đâu,
 
Cây cha thẳng, mà tủa cành, nhánh cong queo,
Giống mẹ lành, lại trỗ trái, hoa đắng nghét!
Thương cho các ông thầy Lão Đam, Mặc Địch, Khổng Khâu,
Lại có mấy thằng trò Bàng Quyên, Hòa Thân, Hòa…Thiết (!)
Lời cũng như sách, đều dạy phong ngôn hòa ái, khiêm cung,
Mặt dẫu giống người, nhưng quen dã tính hung hăng, tàn ác.
Với kẻ thù, mi quen tuồng làm tớ làm tôi,
Với đồng bào, mi giở thói sát nhơn sát đức!
 
Đạo đức thì,
 
Làm thức ăn bằng giấy cac-tông,
Chế thuốc uống bằng đồ bá nạp!
Xem con người như chó như heo,
Coi mạng sống như rơm như rác!
 
Chí khí thì,
 
Dân hàng trăm triệu (1), mà chịu bại dưới vó ngựa Mãn, Mông,
Quân mấy mươi muôn (1), mà đầu hàng trước gót giày Anh, Nhật!
Để chúng lấy Giang Bắc nhanh như trở mặt bàn tay,
Để chúng chiếm Giang Nam dễ như lấy đồ trong bọc!
Mất muôn dặm đất (1) mà  còn chẳng chịu hèn?
Đọa trăm triệu dân (1) sao lại chưa biết nhục?
 
Ôi!
 
Thẹn cho đất rộng nghìn vuông,
Tủi cho núi cao ngàn thước!
Trên đầu lột mũ cánh chuồn, bỏ hết cổ trang,
Nửa sọ thắt tóc đuôi sam, tuân theo tân pháp!
Mỏi gối vì câu “vạn tuế” mà bỏ nước bỏ dân,
Trẹo lưng bởi kiếp “nô tài” nên quên vinh quên nhục!
 
Chẳng trách,
 
Tình đồng chí vừa mới quen tai,
Câu hảo bằng còn chưa ráo mực!
Cắt cáp tàu, không chừa thói cuồng ngông,
Cướp hải phận, lại ló mòi láo xấc!
Vạch đường Chữ U, đúng là lưỡi mối miệng lằn,
Nói câu hữu nghị, khác chi tâm xà khẩu Phật!
 
Nầy bọn mi!
 
Chớ huênh hoang mà lấy thịt đè người.
Đừng khờ dại mà lấy gươm chém sắt!
Hoàng Sa ta còn trăm triệu anh em, chỉ cách có mấy giờ bay,
Hoàng Sa ta còn hàng vạn kiều bào, chỉ cách nửa vòng trái đất.
Nếu mi liều lĩnh cho hỏa tiễn rời giàn,
Thì ta lập tức quay thần công nhả đạn!
Hàng vạn tấm lòng đang náo nức hồi hương,
Hàng trăm con tàu đang sẵn sàng rẽ nước!
Lãnh thổ, lãnh hải, xưa nay đâu phải một bận tranh cường,
Bọn ta, bọn mi, đến giờ cũng đã bao phen so đọ sức?
 
Nhớ chăng?
 
Chèo Ngô Vương sụt sôi sóng nước, dìm xâm lăng dưới đáy Bạch Đằng,
Gươm Thường Kiệt sang sảng lời thơ, truyền tuyên ngôn bên bờ Như Nguyệt.
Đánh đường núi, thây chất kín đèo,
Đánh đường sông, dòng trôi nghẽn xác!
Tiếng quân hò rung chuyển Ải Nam Quan,
Khí thế dậy lung lay thành Kinh Bắc.
Mới nghe tên ta, mi sợ mất thần hồn,
Nhác trông bóng ta, bây chạy bung đầu tóc!
 
Vì thế,
 
Thấy cây nhọn, ngỡ cọc Bạch Đằng, rồi bịt mắt ôm tim,
Thấy sắc đỏ, tưởng nước Hồng Hà, vội lấy tay bưng mặt!
Gặp yếm đào, nhớ hồn ma Lục Dận chợt kiêng hùng khí Triệu Nương;
Vào hiểm địa, nhớ mồ tổ Liễu Thăng bỗng sợ thần oai Lê Sát!
Nếu ta lại đem Mã Yên ra dọa, ắt lắm kẻ mặt xanh lè,
Nếu ta còn đem Tốt Động ra  đe, chắc bọn mi môi tím ngắt!
 
Với ta,
 
Ngụy Văn Thà theo tàu tuẩn tiết, chữ DŨNG còn ghi,(2)
Trần Đình Phương vì đảo hi sinh, chữ TRUNG mãi nhắc.(3)
Xem tử sinh là hạt bụi, sợi lông,
Đặt chí khí như tấm gang, lá thép!
Khè lửa mạnh mới biết vàng thau,
Đọ sóng dữ mới hay hào kiệt!
 
Xưa nay,
 
Kế hành binh ngoài chỗ dựa quân cơ,
Giành thắng lợi cốt nhằm vào nhân đức.
 
Huống chi ta,
 
Bên sau, lớp lớp nhân dân đang ngụt chí diệt thù;
Phía trước, hàng hàng chiến sĩ quyết sụt lòng giữ nước.
Gươm tôi đúng lửa, hào quang lòe ba cõi quỉ thần,
Binh dụng phải thời, hùng khí át hai vầng nhật nguyệt!
 
Còn mi,
 
Tay bốc tay hốt, sao không tu tánh sửa mình,
Trước bại sau thua, sao chẳng kiêng oai nể mặt?
Nếu mi ngoan cố còn vẽ “lưỡi bò”,
Thì ta quyết tâm luôn tung kiếm thép!
Với chúng ta mà dám dựa pháo, cậy tàu,
Thì bọn mi sẽ tự lấy phân bôi mặt!
 
Một mai,
 
Dù cho gió đổi màu mây,
Dù cho máu pha màu cát.
Hoàng Sa ta cũng không cho mi lượm viên sỏi của Duy Mộng, Quang Hòa,
Hoàng Sa ta cũng không cho mi lấy… phân chim của Cam Tuyền, Vĩnh Lạc.
 
Đó là công lao cha mẹ ta, dựng nên một dải sơn hà,
Đó là xương máu anh em ta, giữ yên ba miền tổ quốc.
Ta giữ nước bằng mưu trí thần sầu,
Ta giữ nước bằng chiến công oanh liệt!
Ta giữ nước bẳng một dân tộc anh hùng,
Ngươi “giữ nước” bằng dãy trường thành khiếp nhược!!
 
Cảm khái câu:
 
“Thà làm quỷ nước Nam”;
Hơn làm vua đất Bắc”.
 
Hoàng Sa ta,
 
Thân dựa mũi gươm,
Ngựa treo đầu giặc.
Đem xương gởi ở chiến trường.
Lấy máu giữ từng tấc đất. 
Hẹn với lòng một nhục một vinh,
Thề với giặc một còn một mất!
 
 
Nhớ cho,
 
Coi mặt mà bắt hình dong,
Hối hận bây giờ còn kịp!
Bút thép lời gang,
Hoàng Sa hạ bút!
 
Kha Tiệm Ly
 
Chú thích:
 
(1)Những con số minh họa. Tượng trưng cho nhiều, lớn.
(2) Sự kiện, năm 1974: Khi tàu HQ-10 bị địch bắn cháy, Hạm    trưởng Ngụy Văn Thà  tuẫn tiết theo tàu.
(3)  Sự kiện năn 1988, Trung úy Trần Đình Phương trước lúc hi sinh, nói: “Thà hi sinh, chứ không để mất đảo!”
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
 
3. TRƯỜNG SA TÂM THƯ PHÚ
 
 
 
Trộm nghe:
 
Giặc ngoài dễ phòng,
Bệnh trong đáng sợ!
 
Hãy xem,
 
Hoàng Sa đã ngập trong chảo dầu sôi,
Biển Đông sắp chìm trong cơn bão tố.
Kẻ thất phu hừng hực thù căm,
Bậc trí giả  phừng phừng phẫn nộ.
 
Nhìn kẻ địch:
 
Bao phen cắt cáp hiếp tàu, diệu võ dương oai,
Mấy lượt tập trận dàn binh, khua môi múa mỏ.
Tàu cá khoang không tấc sắt, để nó bắn súng ngắn súng dài,
Ngư dân phơi tấm lưng trần, mặc chúng nện cây to cây nhỏ!
Làm con nhớ cha, cạn lệ lâm li,
Để vợ khóc chồng, tàn canh vò võ.
Hải đảo ta mà chúng đóng quân, xem giống của chùa,
Lãnh hải ta mà chúng thăm dò, làm như của chợ!
 
Chớ nên,
 
Thấy đồng bào mình nhục, mà đành ngoảnh mặt làm ngơ,
Nhìn tổ quốc mình đau, lại cứ khoanh tay đứng ngó!
Nghe qua  mấy câu chính khí, cầm bằng ăn ớt ăn tiêu,
Đạp vào mặt kẻ yêu dân, tưởng chừng đạp heo đạp chó!
Đi xe nệm dày một chống, bà ngồi êm đít sướng mông, 
Nhà dựng lầu ngót mấy tầng, ông ngước ngoẹo đầu trẹo cổ!
Thênh thang Hoàng Sa trăm dặm, địch đã cướp rồi xương máu cha ông.
Leo heo Tiên Lãng mấy sào, ngươi lại chiếm cho anh em giòng họ!
Ba hoa miệng lưỡi thì biết đâu ai quỉ ai người,
Bề thế tiện nghi thế mới rõ ai thầy ai tớ!
Mãi tham ô nên đất nước mãi nghèo,
Còn lãng phí nên nhân dân còn khổ:
Bỏ một màn lãng phí, sẽ cứu bao nạn dịch  thiên tai,
Gom mấy trận tham ô, xem còn hơn mưa giông bão lũ!
Lạm công quĩ nên vật giá leo thang,
Rút công trình nên cầu đường thành hố!
Xoay qua, xoay lại, để cầu lộc hưởng bách niên,
Xét tới xét lui, rõ là tội lưu thiên cổ!
 
Có hết đâu!
 
Là cậu tú, mà viết chữ còn trật hỏi, ngã, tê, xê, trông giống cua bò,
Đậu ông nghè, mà hỏi sử còn ngọng ú, ớ, u, ơ, tưởng đâu lưỡi đớ!
Người mưu ích nước lợi dân, thì đong bằng vỏ hến vỏ sò,
Kẻ lo chạy chức mua quan, lại lường bằng cái thau cái rổ!
Khi tàu vũ trụ đã đến sao hỏa, sao kim,
Mà nền quốc học còn ở bờ đê, đầu lộ!
Khác nào bộ máy cà tàng,
Giống y con tàu cổ lỗ!
Kẻ vô sỉ thì đầy như lông chó lông mèo,
Quan thanh liêm lại hiếm như sừng heo sừng thỏ!
Lệ buồn lịch sử phải khóc sụt sùi,
Mồm thúi quân thù lại cười hô hố!
 
Tỉnh lại đi!
 
Hãy soi đạo đức người xưa để tự răn mình,
Hãy lấy tài năng người nay mà  làm xấu hổ.
Một trăm năm thuộc Pháp, lấy đó mà lo,
Một ngàn năm thuộc Tàu cớ chi không nhớ?
Chẳng thấy cái nguy phải chịu làm lệ làm nô,
Thì ở trong mơ cũng chẳng thành rồng thành hổ!
 
Một mai,
 
Trường Sa bốn hướng sóng trào,
Tổ quốc ngập trời lửa đỏ.
Thì của tham ô có ngăn được hỏa tiển địch rời giàn,
Thì tiền hối lộ có đánh tan chiến hạm thù đổ bộ?
Hơi rượu ngọt “hàng hiệu” không làm cho lũ giặc lui binh,
Móng tay nhọn “chân dài” đâu xé được quân thù đứt cổ!
 
Đã tự hào:
 
“Một dân tộc anh hùng”
“Bốn nghìn năm lịch sử”.
 
Thì chớ quên câu:
 
“Dân gần trăm triệu mà lại yếu xìu,
Nước bốn ngàn năm vẫn như trẻ nhỏ!” (1)
Chớ để quân thù coi cọc Bạch Đằng là… cọng lạt xỉa răng,
Đừng để kẻ địch xem gươm Lê Lợi là… cây kim may áo!
 
Mà cho chúng biết,
 
Gươm Lê Lợi chất thép vẫn ngời,
Sông Bạch Đằng máu xưa còn đỏ.(2)
Quân ta đi đường núi, ầm ầm mấy hướng núi mòn,
Tàu ta lướt biển đông, ào ạt bốn bên biển lở!
Đổ máu đào cho tổ quốc quyết sinh,
Khai hỏa lực cùng quân thù quyết tử!
 
Trường Sa ta,
 
Hiên ngang đi trên ngọn lửa hồng,
Dũng cảm đạp lên làn sóng dữ.
Mặt quân thù càng lạnh như băng,
Lòng chiến sĩ càng sôi như lửa.
Lấy ba miền tổ quốc làm nhà,
Lấy trăm đảo biển đông làm mộ.
So gươm cùng địch, để xem ai sắc ai cùn,
Đọ máu với thù, thử coi ai đen ai đỏ!
 
Nay,
 
Tim sắt lòng son,
Trường Sa  hạ bút.
 
Kha Tiệm Ly
 
-------------------------------------------------------------------------------------------
 
4. ĐIỂM MẶT QUÂN THÙ PHÚ
 
 
Biển đông cao sóng hờn căm,
Hải đảo cựa mình đau đáu.
Nhìn về Hoàng Sa, tan dạ nát gan,
Nghĩ tới Trường Sa, đứng tim sôi máu!
 
Hỡi quân thù!
Chớ ỷ mạnh mà quen thói hung tàn,
Chớ cậy đông mà giở trò thô bạo!
 
Nói cho mi biết:
Đụng tới viên sỏi đảo ta, là đụng tới ngàn năm công đức tổ tiên,
Làm nhục một người dân ta, là làm nhục trăm triệu anh em máu thịt!
Hiếp biển nước ta, là bôi mặt nòi giống Tiên Rồng,
Cướp đất đảo ta, là sỉ nhục giang sơn Đại Việt!
Cha, chú ta, dân cày ruộng cũng là hảo hán anh hùng,
Mẹ, chị ta, người nấu bếp cũng là nữ lưu hào kiệt!
Trước họa nước, bao hiểm địa cũng thành Vạn kiếp, Chi Lăng,
Trước nạn dân, mọi trường giang đều hóa Bạch Đằng, Như Nguyệt!
Hồi trống trường, cũng thành trống trận thúc quân,
Bóng cờ lau, cũng thành bóng cờ quyết thắng!
Nói cho mi nhớ,
Triệu Nương, một dải yếm đào mà Lục Dận chẳng một tàn quân,
Trưng Vương, hai mảnh quần hồng mà Tô Định không còn manh giáp!
Sức mạnh ta là Hội Nghị Diên Hồng,
Khí thế ta là cánh tay sát thát!
Sao không lấy gương Liễu Thăng, Ô Mã mà soi?
Sao không lấy chuyện Thoát Hoan, Vương Thông mà xét?
Thấy Sầm Nghi Đống treo cổ sao chẳng rớt tim?
Nghe Hứa Thế Hanh bỏ mạng mà chưa vỡ mật?
Thanh gươm Lê Lợi, trăm năm sau, mi vẫn còn phách mất hồn tan.
Vó ngựa Lý Thường, hai châu cũ (**), đất chẳng dám hoa khai cỏ mọc!
Với bọn mi,
Tổ tiên ta từng bẻ trúc rừng làm ngọn giáo dài,
Cha anh ta đã lấy lưỡi cày đúc thanh kiếm bạc.
Thế mà,
Đằng Giang mấy lần nhuộm máu, máu thù chẳng hết  tanh hôi,
Đống Đa một trận phơi xương, xương giặc vẫn chưa rũ mục!
Chương Dương gươm khua chan chát, xác cản mũi tàu, xác nghẽn bước quân,
Khâm Châu sét nổ ầm ầm, máu ngập chân thành, máu dơ chân ngựa!
 
Huống chi nay,
 
Tiềm thủy đỉnh xuất quỷ nhập thần,
Chiến đấu hạm, đi giông về lốc.
Đầy căn cứ, muôn (*) dàn hỏa tiển đối không,
Nghẹt vùng trời, hàng đội phi cơ tiềm kích.
Cờ phất, đạn bay khiếp quỷ kinh thần,
Bấm nút, bom rơi long trời lở đất.
Tàu ta ầm ầm lướt biển, trèo lên sóng dữ gió to,
Quân ta ào ạt băng rừng, đạp nát cây gai lá sắc.
Gươm anh linh thép vẫn ánh ngời ngời,
Tim chính khí máu luôn sôi sùng sục!
 
Dù vũ khí có chia rõ nhược, cường.
Nhưng ý chí mới định phân cao, thấp:
Quân mi mấy mươi vạn (*), mà Đằng Giang xác nổi như bèo?
Quân mi mấy mươi muôn, mà Hồng Hà thây trôi như rác?
Quân ta mấy vạn, mà xác bọn mi làm nghẽn đường chiến tượng Quang Trung?
Quân ta mấy muôn, mà máu lũ mi đã đẫm giáp chinh y Hưng Đạo?
Lớn miệng khoe đất rộng, mà chịu làm tôi tớ bởi bầy ngựa Nguyên Mông,
Cao giọng ỷ người đông, lại đành làm tai sai do mấy đoàn quân Nhật!
 
Chúng ta đây,
Hướng ra biển, triệu triệu anh em chung dạ sẵn sàng,
Muốn hồi hương, vạn vạn kiều bào một lòng háo hức.
Đem tim gan tôi đỏ chí quật cường,
Lấy đoàn kết, nấu sôi lòng son sắt!
Cờ tổ quốc đâu để nhạt màu,
Máu hùng anh không cho phai sắc!
Liệt sĩ Hoàng Sa luôn bám bước quân hành,
Liệt sĩ Gạc Ma vẫn theo người cứu quốc!
Từng đánh mi trăm trận, đã biết đâu đá đâu vàng,
Giờ thử lửa một phen, cho biết ai gang ai sắt?
 
Anh em ta,
 
Nam nhi hề, chí tại biển đông,
Chiến sĩ hề, thân treo đầu súng.
Cửu Long vẫn hiên ngang chín khúc hào hùng,
Hoàng Liên mãi sừng sững mấy tầng cao ngất.
Lúc gian nguy, ra trước ngõ lại thấy anh hùng
Buổi quốc nạn, xoay bai bên đụng người kiệt xuất!
Vì chung trăm trứng, nên đá nghìn non  thương về hải đảo anh em,
Cũng bởi một nòi, mà nước muôn lạch tìm đến biển xanh cốt nhục.
Chung mẹ Âu Cơ, nên máu chảy ruột mềm,
Cùng cha Long Quân, mới lòng đau dạ thắt.
Trăm triệu đồng bào đều muốn vượt trùng khơi,
Mấy triệu anh em luôn hướng về cố quốc.
Bọn chúng bây, nào một lần cướp nước, hại dân,
Anh em ta, đã bao bận đuổi thù, giết giặc.
Thân vắt mạn tàu, bao anh hùng muôn thuở thơm danh,
Chết dưới ngọn cờ, máu liệt sĩ ngàn năm đỏ sắc!
Hét lên đi! Đại Việt hùng cường!
Vung tay lên! Việt Nam bất khuất!
Máu đọ máu thử coi ai đỏ ai đen?
Tim đọ tim thử xem ai vinh ai nhục?
 
Lời cuối cho mi:
 
Lịch sử Âu Lạc không thiếu đấng kiên trung,
Nhân dân Đại Cồ chẳng có người khiếp nhược!
Hải đảo ta một vùng khiêm tốn, vẫn đủ cho lũ giặc chôn thây,
Biển đông ta bốn hướng mênh mông, dư sức để muôn tàu dìm xác!
Ta nói có cội có nguồn,
Mi liệu tính sau tính trước!

Kha Tiệm Ly

Chú thích:
* những con số chỉ có giá trị biểu kiến
---------------------------------------------------------------------------------------------
 
 
5. TỰ TRÀO PHÚ

 
 
 
Trộm nghe,
 
Lấy gương soi mặt giai nhân,
Lấy tâm soi lòng kẻ sĩ.
Đem gian nan thử bậc cao tài,
Đem lửa đỏ thử vàng đúng tuổi.
 
Cười cho mỗ,
 
Một đời múa bút, chữ “sĩ” lăm le,
Bao bận khoa gươm, chữ “hùng” lấp ló.
Chỉ vì bút nghiên chệch choạt, mà văn chẳng ra văn,
Cũng tại chân cẳng quều quào, mà võ không ra võ!
Ngũ kinh lập bập, rặn ba bài phú mà đọ với Dương Hùng,
Tam lược nghêu ngao, lượm mấy cơ mưu, lại sánh ngang Tôn Vũ!
 
Lại cười cho mỗ:
 
Dốt không chịu dốt, bày trò thi phú búa xua,
Hèn chẳng chịu hèn, giao kết đệ huynh lố nhố.
Muốn trương buồm ngâm câu Thiên Địa, rượu rót tràn ly,
Thích tuốt kiếm ca khúc Lương Sơn, ngựa phi thẳng vó.
Chí tồi mà muốn vọt thấu mây,
Guơm sét lại đòi bung khỏi vỏ!
 
Chẳng nhớ câu:
 
Giao long lỡ vận nào khác tép tôm,
Mèo chó đắc thời tuồng như báo hổ!
Mỉa mai câu nói “sinh bất phùng thời”,
Chua xót lời khuyên “đức năng thắng số”!
 
Thì thôi,
 
Thân đã ở nhà lá nhà tranh,
Miệng ráng ăn rau đay rau ngổ!
Đã cam tâm ngậm cục bồ hòn,
Thì mơ tưởng chi hơi cam lộ!
Thênh thang năm dài tháng rộng, tội mỗ đây lấy nhục làm vinh,
Chắt chiu bữa đói bữa no, xót mẹ đĩ chịu thương chịu khó!
Trong cơn dâu bể, hữu bằng đầy dẫy Lý Thông,
Sau trân phong ba, đồ đệ có bao Tử Lộ?
Quăng đuốc danh, lòi mặt kẻ hai lòng,
Nhá  lửa lợi, đổi màu vàng bốn số!
Chưa chứng Thiên Nhãn mà thấy tâm can kẻ đứng sau tường,
Chưa chứng Tha Tâm, mà biết thức thần người nằm dưới mộ!
 
Thương cho,
 
Vợ ăn cháo hoa lỉnh bỉnh, lại chịu ngày đói ngày no,
Con mặc áo khính thùng thình, còn vá miếng xanh miếng đỏ!
Vải dỏm loang màu, giặt một nước, lông lá bèo nhèo,
Chuối chát độn cơm, ăn một miếng, lưỡi môi ngờ ngợ!
Dù lành dù rách, gìn nếp riêng, chẳng mở lời than,
Dù đói dù no, noi phép cũ, không châu miệng ngó!
 
Nay thì,
 
Vinh nhục như đã hết duyên,
Văn thơ xét ra vẫn nợ.
Năm xe kinh điển, quyển mất quyển còn,
Mấy lố bạn văn, đứa đi đứa ở.
Miệt mài trên báo, xem “thơ tự do” mà bụng dạ hãi hùng,
Lang thang trên mạng, coi “thơ Đường luật” làm mặt mày mắc cỡ!
 
Chỉ vì.
 
Thẹn cho tài, dẫu gọt hết trúc rừng làm bút, mà chẳng thành danh,
Tủi cho phận,  dù mài vơi nước sông làm mực, cũng chưa tiệm ngộ!
Luật niêm trớt lớt, nào dám xưng văn nọ văn kia,
Đối chác lem nhem, đâu dám vô hội nầy hội nọ!
Thơ viết người không muốn đọc, mà “ca” ù tai hơn tiếng ve kêu,
Sách in mối chẳng thèm ăn, lại “bốc” điếc ráy còn hơn bom nổ!
Mùi chưa dậy mà mắc buồn nôn,
Bụng không chửa lại lên cơn ói!
 
Làm thơ mà:
 
Cho không ai nhận, thì đem về nhóm lửa nấu cơm.
Đọc chẳng người nghe, cứ để dành gói xôi gói đỗ!
Những tưởng, tay nắm tay cùng dắt lên mây,
Dè đâu, mặt đưa mặt thay phiên trét lọ!
 
Ôi thôi!
 
Thà đành há miệng chờ sung,
Chẳng chịu trói voi bỏ rọ.
Kệ miệng người nói thẳng nói xiêng,
Mặc trôn đĩ đóng ngang, đóng dọc!
 
Kha Tiệm Ly
 
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
 
6. SẮC TÀI THÁN PHÚ
 
 
 
 
Trộm nghe,
 
Nghề văn muôn thuở như nhau,
Gái đẹp mỗi thời có khác!
Người luôn chê chữ nghĩa giá bèo,
Ai dám bảo hồng nhan phận bạc?
 
Ôi! Cái văn,
 
Thường được coi là món bổ tinh thần,
Sao lại rẻ hơn thú vui nhục xác?
 
Hẩm hiu thay!
 
Đợi bài lên báo, ngóng dài cổ vạc cổ cò,
Đến lúc lãnh tiền, đếm được đồng trinh đồng cắc!
Sách kim sách cổ, có ra chi ngọn bút vẽ vời.
Ông cống ông nghè, sao sánh bằng cái mông lúc lắc!
Nhuận bút bài báo, mua không được một cái quần xì,
Tiền thưởng bài văn, sắm chẳng nổi nửa manh áo ngực!
Ngày tối cơn ho lục khục, mồm khạc cục tím cục bầm.
Vợ con cái mặc lem nhem, áo vá miếng chằng miếng đụp!
Thân như bệnh nhân chờ thuốc, ốm tỏng ốm teo,
Nhà như người đẹp khoe lưng, trống huơ trống hoác!
 
Chi bằng,
 
Tối ngày ôm đít vợ, cố rặn ra một đứa “tiểu thư”
Hôm sớm nựng má con, ráng “tút” được một nàng “khuê các”!
Quần soọc (short) phơi đì phơi háng,  lổ lộ của trời,
Áo dây khoe rún  khoe lưng, chênh hênh bộ ngực!
 
Nhìn thi người mẫu, hoa hậu kia:
 
Lúc nhúc dáng ngồi cao thấp, giống hệt “ruồi bu…” (c… ngựa!”)
Tác hoác  miệng há nhỏ to, y chang  chó ngáp!
 
Trớ trêu thay!
 
Nhà văn bao lần đoạt giải, mơ mấy triệu ngoài sức mỏi mòn,
Hoa hậu một bận đăng quang, ôm vài tỉ trong tay cầm chắc!
Nhờ sự bảo kê của mấy thằng lắm bạc nhiều tiền,
Nhờ thói rửng mỡ của lắm tên thừa gân dư nạc!
 
 
Mới hay,
 
Sắc trọng như vàng,
Văn khinh như rác!
 
Nhìn xem,
 
Bao người cơ nhỡ vất vưởng vất vơ,
Bao kẻ lang thang cù bơ cù bấc.
Có em nghèo khó mà nửa chừng dang dở sách đèn,
Có phận hẩm hiu mà suốt đời chưa vào trường học!
Tiền tỉ đó sao không giúp kẻ khốn cùng?
Tiền tỉ đó, sao không giúp người đói rách?
 
Hay chi,
 
Đo chữ hư danh bằng vòng ngực vòng mông,
Lấy thói phù hoa thay cái nhân cái đức?
 
Hay là,
 
Lòng nhân gió cuốn tro bay,
Thể xác gió lên cờ phất?
 
Nhớ câu:
 
“Ăn gì mỗi lúc một ngu,
Uống chi mỗi ngày một dốt!”
 
Than ôi!
 
Cái tâm nhỏ xíu nào khác lá đa,
Chữ đức nhẹ hều, y như cọng lác!
Sự đời hao hao mõm chó, đen thủi đen thui,
Chữ tình tờ tợ mảng mông, trắng xơ trắng xác!
Ngẫm mà dạ xé như bào,
Thấy mà ruột đau như cắt!
 
Thương thay các nhà văn,
 
Tài năng sanh chẳng gặp thời;
Tinh hoa trỗ không đúng lúc.
Viết ngàn trang sao bằng một cái vẹo mình,
Thức trắng đêm tiếc cho trăm năm mài bút!
 
Đúng quá cho câu:
 
“Thế gian kẻ dại người khôn”
“Óc khôn không bằng trôn (l…) mập”!!
 
 
Thôi thôi,
 
Thói đời lắc léo đành ngả mủ chào thua.
Màn kịch éo le xin tuột quần bái phục!
Ngửa mặt khóc ba tiếng hu hu,
Nhắm mắt cười mấy tràng hặc hặc.
 
Kha Tiệm Ly
----------------------------------------------------------------------------------------

7. VĂN “HÀNH”
 
Trộm nghe:
 
Thế nhân vốn một mặt muôn lòng,
Văn chương cũng năm đường bảy ngõ!
Trò đời đã nhiều chuyện lá lay,
Con tạo lại bày trò cắc cớ!
 
Nhớ xưa,
 
Bao thi nhân hùng khí chưa mờ,
Bao kiệt tác ngôn phong còn đó.
Đồ Chiểu đâm mấy thằng gian, bút cũ chẳng tà,
Cử Trị mắng bao phường nịnh, lòng son còn tỏ.
Hịch Tướng Sĩ, sông Bạch Đằng nước cuộn sóng gào,
Cáo Bình Ngô, ải Chi Lăng cây rung lá đổ.
“Văn dĩ tải đạo”, lời cũ thường khuyên,
“Đức khả thắng tài”, kẻ sau chẳng nhớ!
 
Thế mà nay,
 
Học hành đôi chữ lem nhem,
Văn vẻ ba xu ú ớ.
Vỗ bụng cứt, khoe ráp được vần ngược, vần xuôi,
Vểnh tai trâu, thích nghe nịnh lời nầy, lời nọ.
Văn nghe  trớt huơ trớt hướt, giống hệt nước mắm chấm dùi,
Thơ viết lốc cốc lom com,  y như thầy chùa gõ mõ!
Không rành luật đối, cũng xưng mầy đó ta đây,
Chẳng sạch vần gieo, cũng vô hội nầy hội nọ!
Thơ in vài tập, bán chẳng ai mua, mà chừng như đội đá vá trời,
Văn  viết đôi bài, mời không ai đọc, mà đã vội khua môi múa mỏ!
 
Vậy mà,
 
Đọc báo lâu lâu thấy “tụng”, chỉ có quỉ mới tường.
Coi mạng thỉnh thoảng thấy “ca”, chỉ có trời mới rõ!
Tội cho người đọc con ráy lùng bùng,
Thương cho người xem con ngươi lổ đổ!
Ráng banh miệng, mà cười chẳng ra cười
Cố xệch môi, mà khổ không ra khổ!
 
Vinh chăng?
 
Đi xe đời mới, đặt đít sướng mông,
Ở nhà lầu cao, ngẩng đầu trật cổ!
 
Như ta đây,
 
Dù cái thi, cái phú chưa đầy lá mít, lá mơ,
Nhưng cái nghĩa, cái tâm khá hơn loài sâu loài bọ.
Ghét quân khẩu Phật tâm xà,
Ghét phường miệng hùm gan sứa.
Không dè lời, cứ thẳng mực tàu.
Theo đúng thước, làm đau lòng gỗ!
Bao năm “bán phổi”, đệ tử mấy ngàn,
Một thuở khua chèo, bạn bè vô số.
 
Ngặt vì,
 
Kết bạn thì “Tri mãn nhân gian”
Ngoãnh mặt lại,”Vô thân tứ cố”!
Không độ nổi những kẻ cúi lòn,
Chẳng theo kịp mấy thằng bợ đỡ!
Chẳng bù cái mũi có giàm,
Không giống đồng xu có lỗ!
Chẳng phải bành voi mặc kẻ leo lên,
Không như trôn đĩ mạnh ai mấy xỏ!
 
 
Dù cho,
 
Thời buổi nầy mà rách dép rách giày,
Xe đạp nọ luôn trật sên trật chó!
Dù áo Châu Trí(1) đã đành mạn cổ, vá vai,
Nhưng mặt Trần Minh(2) dễ gì bôi vôi, trét nhọ.
 
Đã từng,
 
Văn chương treo ở đầu giàn,
Bút mực đem quăng một xó.
Nào chê bai chữ nghĩa rẻ như bèo,
Mà  tức khí vàng thau cùng một rọ!
 
Khổ vì,
 
Muốn hoàn lương (!) mà nghiệp đĩ cứ đeo,
Muốn quăng bút, mà đường văn còn nợ!
Sá gì gạo vét mòn lon,
Thây kệ giày đi há mỏ!
Lời bẩn trét đầy trang giấy, thì mặc ai làm bồi bút mà vui,
Lòng sạch ực nước cành hông, thây kệ người nói thanh bần là khổ.
 
Thôi thì,
 
Mặc ai pha muối pha đường,
Mặc nó lộn vừng lộn đỗ.
Tự hào vì thứ ta đủ, mà họ không cần,
Kiêu hãnh bởi điều họ dư, mà ta không có!
 
Xem xong,
 
Ai nhột thì cứ “xổ nho”
Ai khoái thì xin cổ võ!
 
Kha Tiệm Ly

 
Chú:
(1) Châu Trí: Người học trò nghèo. Phải bắt đom đóm làm đèn thay dầu
(2) Trần Minh: “Trần Minh khố chuối” (nhân vật trong truyện cổ tích)
Chú thích: (*) những con số trong bài nầy chỉ có giá trị minh họa.
 (**) Khâm Châu, Liêm Châu
 
-------------------------------------------------------------------------------------------
 
8. PHÚ TẶNG VỢ 
 

Có chồng cho đáng tấm chồng,
Bõ công trang điểm má hồng răng đen. 
 
Thương ôi, 
 
Mang hình liễu đổi cùng cuộc truân chuyên,
Đem má phấn thách với đời lam lũ!
Không thẳng hướng leo để bám vào cội bách, cội tùng,
Lại chệch hướng bò nhè len nhằm cỏ hôi, cỏ cú! 
 
Thương cho hiền nội,  
 
Nhà chồng nặng gánh nên mỏi rụi hai vai,
Đàn con dễ nuôi mà  ê rần đầu vú!
Chiếc áo  thô nào chỉ có bâu sờn,
Bầu sữa héo đâu riêng gì con bú! (!)
Ngày ngày cơm cơm, áo  áo đã dập vùi cái tuổi thanh xuân,
Năm năm uống uống ăn  ăn, làm bóp nát một thời hoa nụ!
Gánh gồng sớm tối, da đen thui nhìn tưởng ông lò,
Bươn bả quanh năm, mặt nhăn nhíu tưởng đâu bà cụ!
Nhằm gặp thằng chồng nhếch nhác, nên tháng năm đành chịu má môi phai,
Trót sinh đám trẻ  dại khờ, mà ngày tối quản chi sương nắng phủ!
Ở nhà rách, mặc thây cùng kèo cột liêu xiêu,
Hứng mưa nam, kệ xác với cơn ho lụ khụ!
Thiếu li- pít nên da dẻ  xanh dờn như thể chàng hiu,
Chẳng  prô- tên mà hình vóc ốm tong khác chi cá hố!
Vì vướng tình con mà hình hạc gầy mòn,
Bởi nặng nghĩa chồng mà  xương mai héo rũ!
Bước chân chẳng nghỉ dù cho đường phố đèn lên,
Giọng rao vẫn buồn  thoảng như rừng khuya gió hú!
  
Có điều
 
Ngó tới ngó lui mà tủi, vì không bì bằng đàn chị đàn em,
Suy đi nghĩ lại thêm buồn, bởi chẳng sánh được nhà cô nhà chú!  
 
Mặc dù,  
 
Sợ đàn lạc điệu, đành lâu lâu đem khảy đôi lần,
Quen dạ mắn con, nên thoảng thoảng cứ lòi một trự!  
 
Bởi vậy,  
 
Chủ nợ bạc nằm bạc đứng, lố nhố đầy nhà,
Đàn con đứa thấp đứa cao, tròm trèm nửa lố!  
 
Chỉ vì
 
Tay bà Nguyệt làm rối tơ duyên.
Đầu thằng chồng chứa đầy đậu hủ:
Văn viết đọc nực mũi đồ ôi,
Thơ làm nghe khẳm mùi dưa khú!
Ôm bụng đói, mà không chịu quăng cái sỉ, cái liêm,
Ở nhà tranh, lại chẳng thèm làm móng diều, mỏ cú!
Trăm điều chẳng chọn, mà mót bòn ba mớ sỉ sỉ liêm liêm,
Khối sự đều hay, lại quơ quào mấy câu thơ thơ phú phú!    
 
Đâu có biết,
 
Vạn ngày giữ lòng sĩ khí, chẳng bằng nửa giờ con đĩ ngửa mông,
Một đời làm kẻ  thanh liêm, khôn sánh một bận hoa khôi phạch vú!  
Thà rằng lấy củ  khoai củ sắn, lột nó mà ăn, còn có lúc no đầy,
Chẳng hơn rớ thằng sỉ thằng liêm, cho họ chẳng thèm, lại thường khi đói rũ!  
 
Nhìn kia!
 
Mặt thằng liêm lép xẹp, ốm tỏng ốm teo ,
Trôn con đĩ no tròn, mập  ù mập ú! 
Sực nhớ câu,  
Biết nhàn thì nhàn,
Biết đủ thì  đủ!
Có ai ba họ nghèo hèn?
Mấy ai ba đời giàu sụ?
Vi phú bất nhơn,
Vi nhơn bất phú!
Thà ăn rau mà  lỗ đit thông hơi,
Hơn ăn thịt mà  cái đầu nung mủ!
Khi nhắm mắt, bao của tiền cũng để lại thế gian,
Phút xuôi tay, chỉ  hồn xác được mang về âm phủ!
Diêm vương nào kị đứa dái nát cu đen,
Quỉ sứ đâu tè thằng mặt to bụng bự!
                                                
Mình ơi!
 
Bởi anh cứ lây nhây mà việt vị cả đời,
Vậy em chớ cù cưa hãy phạt đền một cú!
 
Kha Tiệm Ly
 
* Thành ngữ :  “cúi đầu trước mặt, đấm c… sau lưng”.
 
--------------------------------------------------------------------------------------------


9. RẮN TÂM SỰ
 
 
Rồng lui chân theo cựu Đông Quân,
Rắn ngỏng cổ mừng tân niên kỉ.
Nhân ngày tư ngày tết, rắn em bày tỏ đôi lời,
Mong năm mới năm mung, mọi người được nhiều đại hỉ.
 
Nghĩ phận em,
 
Thân dài vai… nhỏ, ngàn đời không đứng được… hai chân!
Họ gần họ xa, thể tạng cũng cân non vài kí!
Ở hang sâu hốc tối, bụi rậm tàn cây, mơ gì cửa rộng nhà cao,
Ăn bữa đói bữa no, ểnh ương cóc nhái, dám đâu sơn hào hải vị.
Chẳng truyền bệnh sán như anh chó anh heo,
Không ăn vụn cơm như anh mèo anh Tí.
Biết thân hèn vóc mọn, em cứ loay huay tìm chốn vườn rậm rừng sâu
Mà cạn lý hết tình, người hung hãn cứ dồn vào đường cùng thế bí.
Trong mười hai con giáp, riêng rắn em thường bị lắm tiếng tai.
Dưới cặp mắt người đời, cả họ hàng  luôn bị coi xúi quảy.
 
Lại thoang thoảng bị móng vuốt diều hâu,
Cũng đều đều gặp con thần ve xị:
Mỏ dài vuốt nhọn, cắp lên non, cho con cháu chén  no nê,
Dao bén thớt dày, cho vào bếp, đủ một bàn say bí tỉ!
 
Cho rằng,
 
Lũ chúng em luôn mang nọc độc giết người,
Mà bọn họ cố quên những lời chí lí:
Rắn giết người, tự cổ đếm được bao nhiêu?
Người giết người, đến nay xem ra hàng tỉ!
 
Lại chẳng nhớ:
 
Xà tửu vô ưu,
Đông y hữu lý.
Chẳng những nọc độc thuộc hàng quý dược của y sư
Mà cả xương da cũng dạng ngãi phương trong điều trị.
An tì, bổ thận; chánh tông Gò Đen ngâm cùng thục địa, táo nhơn….
Tăng lực cường dương, rặc ri Bàu Đá hãm hổ mang với đương qui, cao kỉ…
Ngửi một hơi cũng đủ sảng khoái tinh thần,
Hớp một ngụm lại càng nâng cao sĩ khí!
Chiều về các cụ nhâm nhi,
Tối đến mấy bà yêu quý!
Hay cho câu “ông uống bà khen”
Thú cho chữ “ nhỏ nghe lớn chỉ! (bảo) ”
Cao nọc rắn, trị thần kinh tọa, thoái khớp mau lành,
Rượu mãng xà, chữa gai cột sống, thống phong hết ý!
“Bách xà diệu dược”, công năng nổi tiếng ngập Trời Nam
“Ngũ độc gia truyền” chất lượng vượt qua bờ Âu Mỹ.
Mua nếu đúng căn nguyên thì chẳng sợ mất tiền,
Dùng chẳng rõ cội nguồn phải coi chừng lép ví!
 
Có hết đâu!
 
Xào lăn bầm nhuyễn, cuốn bánh tráng lá thơm,
Chặt khúc hầm nhừ, ngấm xả gừng ngũ vị.
Mặc cho nào gà tiềm, bê tái… món ngon sa số hàng hà.
Sánh sao với rắn nướng, rắn nhồi…đặc sản độc chiêu vô nhị?
 
Tuy nhiên,
 
Nếu đi đường chẳng nên lạng lách lung tung,
Thì uống rượu cũng đừng nhềnh nhàng bí tỉ!
Dù mồi “bắt”, có nhiều món để đầy mâm,
Nhưng dược tửu, cũng vài li cho có vị.
Quên ăn ham uống, sẽ tan nát thận tì,
Nhậu rượu bỏ mồi, ắt tổn hao chân khí.
Dùng vừa độ, hồn lâng lâng như lạc cõi thần tiên,
Nốc quá đà, trí mê muội sẽ theo loài ngạ quỉ!
“Chừa đường về”, để còn biết ngõ trước, ngõ sau,
Chớ “tăng hai”, mà lọt xuống bờ dưa, bờ bí!
 
Như nói trên,
 
Chẳng phải thân em phận rắn cắn người,
Mà là dược liệu thần y điều trị:
Cho quí ông sinh lực vô song,
Cho quí bà dung nhan tuyệt mĩ.
Nhậu rượu, mồi gà mồi cá, chỉ loại bá vơ.
“Đưa cay”, với rắn với trăn, mới là “mậu kị”!
So với rồng, với cọp, hình tướng nầy dù hơi kém oai phong,
Đọ cùng chuột, cùng heo, hương sắc đây chẳng lấy gì xấu xí.
 
Vậy cớ sao?
 
Dù em có cao chay xa bay,
Mà người cũng truy cùng đuổi bí.
Thế giới “thả” để bảo vệ môi trường,
Quí anh “giết” thì còn chi đạo lí?
 
Nay đây,
 
Nhân ngày xuân mới, hoa lá dâng hương sắc nồng nàn,
Mượn chén rượu đầy, rắn em tỏ đôi lời thủ thỉ:
Rắn có ích, không hề tội nhỏ tội to,
Rắn có công, chẳng có điều kiêng điều kị.
Năm nay rắn sẽ hóa rồng,
Mọi sự công thành như ý!
Bách phúc mãn đường.
Cung hỉ! Cung hỉ!
 
Kha Tiệm Ly
 
------------------------------------------------------------------------------------------
 
10.HÀN SĨ NGHINH XUÂN PHÚ
 
Tiền viết mướn chỉ đủ mua gạo lẻ lưng nồi,
Nhà ở thuê kiếm đâu ra mai vàng trước ngõ!
 
Nghĩ thân ta,
 
Te  tua mái lá, mặc tình gió bấc mưa nam,
Quạnh quẽ bàn thờ tủi thân ông sơ bà cố!
Mua xôn giày dõm, lê mấy bước thì hả miệng hả mồm
Ráng sức xe cùi, đạp vài vòng cứ trật sênh trật chó!
Không hoa không quả, không nhang đèn, Trời Phật, Chư Thiên dù chẳng sân si,
Chẳng chuối chẳng chè, chẳng hương khói, Ông Địa Thần Tài đếch thèm gia hộ!
Tiền nhà tiền điện, chạy sút quần mệt bở hơi tai,
Nợ mẹ nợ con, há tét miệng chửi banh ngoài ngõ!
 
 
Thế nhưng,
 
Cơm lưng bụng, quân tử cần chi hải vị sơn hào,
Quần sờn mông, hảo hán chẳng màng chi tơ tằm vải bố!
Dẫu nghèo tiền nghèo bạc, mà ba miền tao nhân mặc khách dẫy đầy,
Lại giàu bạn giàu bè, cùng bốn biển, khí phách đệ huynh vô số!
Từ người cửa rộng nhà cao,
Đến kẻ đầu đường xó chợ!
Luôn xa lánh phường chém chú đâm cha,
Lại xót xa bọn trộm trâu trộm chó!
Lòng như nước trong leo lẻo, mặc bấy người đổi trắng thay đen,
Mặt tợ trăng sáng ngần ngần, dễ cho ai trét vôi trét lọ!
 
Ô hô!
 
Dù răn con khuyên cháu, chớ theo văn hóa bọn rợ Tàu.
Mà ngứa bút khua nghiên, lại xổ văn … gừng vài câu đối.
 
Đối rằng:
 
Trong nhà năm xe sách vở mối mọt lăm nhăm,
Ngàn dặm bốn hướng sông hồ anh em lố nhố.
 
Cho nên,
 
Đầy bè đầy bạn, lo chi chén tạc chén thù,
Không vợ không con, sợ gì tiếng chày tiếng cối !
Dăm lít rượu rừng rượu đế, sớm chiều mặc tình tỉnh tỉnh say say,
Ba bữa cơm nguội cơm ôi, sáng tối chẳng sợ no no đói đói.
Gạo rau phun thuốc, dại gì mà dộng cành hông,
Rượu đế pha cồn ai nói chẳng say tới bến?
 
Mắt nhìn hí hí, xem cuộc cờ, ung dung nâng chén uống râm ri, 
Lời thốt tràn tràn, luận anh kiệt, hào sảng vỗ bụng cười hô. hố.                                               
Đất cằn cây lớn, nơi hàn môn xuất hào kiệt  tàng tàng,
Chùa rách Phật vàng, trong áo vá tỏa phong nghi lồ lộ.
 
Xét mình:
 
Dù chữ Dũng nào dám sánh Tăng Sâm,
Còn chữ Hiếu vẫn thua xa Tử Lộ.
Đức mỏng, đâu dám đo cùng bậc thánh, bậc hiền.
Tài hèn, chẳng đủ bàn chuyện kim, chuyện cổ!
 
Chẳng qua:
 
“Phú quý do thiên”
Quan trường tại số.
Cam La má tròn phinh phính đã đạt công khanh
Bá Lý tóc trắng phơ phơ mới ngồi trướng hổ!
Trên cao chót vót mà dòng suối rộng được mấy tầm?
Dưới thấp lè tè nhưng biển khơi sâu hơn nghìn bộ!
Nơi quyền môn có khi thừa kẻ vô lại tham tàn.
Chốn thảo lư lại chẳng thiếu bậc tài hoa đức độ!
Chớ gặp khi thất thời mà dấm dứ dấm da,
Đừng cậy lúc thượng phong mà xí xa xí xố!
 
Chỉ tiếc cho:
 
Núi cao nghìn trượng mà chẳng còn đá cứng gươm mài,
Trời rộng thênh thênh lại chẳng dung đại bằng cánh vỗ!
Chua xót lắm! Bụng kinh luân  mà giống túi đựng cháo đựng cơm,
Cay cú thay! Vai thao lược lại thành giá máng quần máng áo! *
Thả cần sông Vị. mà vắng người Văn, Vũ; chỉ hoài công chờ vận đợi thời,
Đốt lửa non Lương, lại bặt tăm Tiều, Tống; đành phí sức đốn cây cưa gỗ!
Cái lợi cái danh, từ xưa kèo cựa một mớ ba đồng,
Cái đức, cái tài, ngày nay xa cạ một đồng ba mớ!
Nghênh ngang ngọn bút, mà hùng tâm chưa vọt thấu chín tầng,
Sang sảng lời thơ mà khẩu khí còn nằm im mấy độ !
 
Tâm đắc quá:
 
“Bần tiện bất năng di
Uy vũ bất năng khuất”
 
Thì sá chi câu:
 
“Tiểu nhơn đắc thế tợ điểu phi thiên,
Quân tử thất thời như ngư vô thủy”
 
Hôm nay,
 
Ngà ngà men rượu, hứng chí viết dăm chữ lăng nhăng,
Thân thiết bạn hiền, vui miệng nói vài câu nhí nhố.
Chúc mọi người an lạc bốn hướng đông tây,
Hưởng mùa xuân hạnh phúc nhất nhì kim cổ!
 
Kha Tiệm Ly
 
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
 
11.VĂN TẾ THAM QUAN
(Văn tế)
 
 
Hởi ôi!
 
Nước chảy lạnh lùng,
Mưa bay lất phất!
“Cây trong núi ngàn tuổi dễ tìm,
Người ở đời trăm năm khó gặp!”
Lúc sống, nhà còn ở mấy tầng,
Khi chết, thây cũng vùi ba tấc! 
 
Nhớ linh xưa,
 
Quyền thế ngang trời,
Uy phong lệch đất!
Đi nửa bước, hộ vệ bám kè kè,
Ho một tiếng dân đen run lập cập!
 
Rõ là:
 
Trôn con trẻ trây cứt trây phân,
“Miệng nhà quan có gang có thép!”
Mánh mung rút bòn vật liệu, mà cầu, đường nhà nước xuống cấp ào ào,
Lập lờ cắt xén đất đai, nên nhà, xe quan ngài lên đời tới tấp!
Mặc người đi đường té xuống té lên,
Thây kẻ qua cầu rớt tim rớt mật!
Nói sao xuể, bao điều vô sỉ từ nhỏ đến to,
Ghi khôn cùng, đủ lối gian manh từ A tới Z!
Xem báo viết, thiếu điều nhức óc nhức xương,
Mở “web- sai”, càng thêm tối mày tối mặt!
 
Thế mà,
 
Vào công vào việc, lơ mơ tựa giống cù lần,
Thấy của thấy tiền, lít xích như con lật đật!
Thời làm lính, học lem nhem ba chữ i tờ,
Lúc lên quan, “đậu” lủ khủ một lô bằng cấp!
Ruộng tốt trăm vuông,
Vàng ròng thiên dật!
Cược ván cờ vài tỉ, việc tưởng như đùa,
Đặt canh bạc vạn “đô”, không dè chuyện thật!
Châu đầu châu mặt cố moi dự án trên trời,
Quơ tay quơ chân cứ nhét bạc vàng đầy túi.
Là trưởng giả ai lại xài thứ bèo Phú Lễ, Gò Đen.
Đã nhà quan thì phải chơi hàng hiệu Mạc- Ten, Cô - Nhắc!
Của “chùa” đem bỏ vào tráp vào rương,       
Tiền công mang đi sờ đùi sờ nách!          
Tiền chùa của miễu, xài hoang vung thẳng hai tay;
Thằng cu thằng đen, chạy thuế lòi đom một khúc!
Bất lương đâu kém đám Tần Cối, Tần… Chày,
Vô sỉ chẳng thua lũ Hòa Thân,  Hòa… Thiết! (!)
 
Lạ chi,
 
Tai trâu mặt lợn, nào dè muôn tiếng thị phi,
Mồm thép miệng gang, chẳng tiếc trăm điều hống hách!.
Báo ngày tốn bao nhiêu mực, xem chừng đàn khảy tai trâu,
Báo mạng mất bấy nhiêu công, nào khác nước ngoi đầu vịt!
 
Chỉ vì,
 
Cái óc cái tim đen cỡ mực tàu ,
Cái mặt cái mày, dày như tấm thớt!
 
Để rồi hôm nay,
 
Khi thân tại chức, chẳng xì được tiếng thơm tho,
Lúc xác ém sâu, vẫn bốc ra mùi thúi hoắc!
Ngán uy sợ thế, bao người trước mặt cúi đầu,
Miệt đức khi tài, khối kẻ sau lưng đấm c…*
Con thơ nhóc nheo mấy hệ, mặc người xưng bố, xưng ba,
Vợ trẻ mơn mởn dăm bà, mạnh kẻ đổ lờ đổ lọp!
Tim gan dơ tợ máu cùi,
Tiếng tăm thúi hơn cóc chết!
Ngưu đầu mã diện đành cúi mặt chào thua,
Quỉ sứ ma vương cũng dập đầu bái phục!
 
Những tưởng,
 
Sống, tiếng nổi lẫy lừng,
Chết, người thăm chật ních!
 
Nào dè,
 
Từ lúc xuôi tay,
Tới khi liệm xác.
Ngoài vợ con thì khóc hu hu,
Còn ai nấy đều cười khặc khặc!
 
Hôm nay,
 
Rặn dăm câu dăm chữ, thảo điếu văn thống thiết một bài,
Quệt chút ớt chút tiêu, cho làng xóm xốn xang đôi mắt!
Đã không cửa đi đến Tây Thiên,
Thì chắc ăn tìm về Địạ Ngục!
Thành kính dâng ngài,
Nói nhiều không tốt!
 
Ô hô! Có linh xin hưởng!
 
Kha Tiệm Ly
 
Chú Thích: * Thành ngữ :  “cúi đầu trước mặt, đấm c… sau lưng”.


 
  Trở lại chuyên mục của : Kha Tiệm Ly