NGUYỄN AN BÌNH
(Dịch Thơ)
 
 
Tống Chi Vấn  宋 之 問
(Khoảng 656-710), Sơ Đường)
 
     
 
      
      
      
      
 
Phiên âm 
 
Đăng Tiêu Dao lâu
 
Tiêu Dao lâu thượng vọng hương quan,
Lục thuỷ hoằng trừng vân vụ gian.
Bắc khứ Hành Dương nhị thiên lý,
Vô nhân nhạn túc hệ thư hoàn.
 
Dịch nghĩa
 
Từ lầu Tiêu Dao ngóng về cổng làng cũ,
Chỉ thấy nước suối trong và mây mù.
Đi hướng bắc về Hành Dương xa hai ngàn dặm,
Không thể buộc thư hồi âm vào chân nhạn.
 
Dịch thơ
 
Lên lầu Tiêu Dao
 
Lên gác Tiêu Dao ngóng cổng làng
Mây mù, suối chảy nước trong xanh
Hạnh Dương hướng bắc xa ngàn dặm
Chân nhạn làm sao gởi hồi âm?
NGUYỄN AN BÌNH

*Lầu Tiêu Dao còn gọi là lầu Tương Nam 湘南, ở phía đông thành Quế Châu, Quế Lâm. Nguyên năm 710, Duệ Tông lên ngôi, vì ông từng làm quan với Võ Hậu, nên bị biếm ra Lĩnh Nam (nay ở phía nam tỉnh Quảng Tây) tới khi chết ở đó.
 
Liễu Tông Nguyên  柳 宗 元
(773-819), Trung Đường
 
      
 
      
 西     
      
      
 
Phiên âm 
 
Vũ tình chí giang độ
 
Giang vũ sơ tình tư viễn bộ,
Nhật tây độc hướng Ngu Khê độ.
Độ đầu thuỷ lạc thôn kính thành,
Liêu loạn phù tra tại cao thụ.
 
Dịch nghĩa
 
Mưa lớn trên sông mới tạnh, muốn đi bộ ra xa coi xem sao.
Mặt trời đã ngả về tây nơi có bến đò Ngu Khê.
Nước lụt đã rút, thấy lại đường trong làng,
Một cái bè nhỏ trôi lạc thấy còn mắc trên ngọn cây cao.
 
Dịch thơ
 
Mưa tạnh đến bến đò
 
Mưa lớn trên sông vừa mới tạnh
Đến bến Ngu Khê đã xế chiều
Đường làng chợt hiện sau cơn lụt
Cây cao bè nhỏ mắc cô liêu.
NGUYỄN AN BÌNH

*Bài này viết khoảng năm 815, trong thời gian tác giả đang bị biếm trích tại Vĩnh Châu.

  Trở lại chuyên mục của : Nguyễn An Bình