NGUYỄN LƯƠNG VỴ

TRĂM NĂM BÍCH KHÊ

 
1. BÍCH KHÊ
 
Gờn gợn bóng huyền hồ
Kiếp tài hoa bạc mệnh
Tinh Huyết đọng mùa Thơ
Biết bao giờ Em đến?!...
 
5.1973
 
2. CẢM ỨNG BÍCH KHÊ

 
Em bí mật chôn ta
Trong tinh hoa của sắc
Trong hiu hắt của màu
Trong tiếng vang thời khắc
Gọi là lộc khổ đau
 
Lộc khổ đau tươi rói
Xuân Tượng Trưng phúc trời
Ta chết ngay trong lời
Lộc biếc vang một ý
Nở thanh khí một trời
 
Núi Thiên Ấn ngủ vùi
Sông Trà chảy xót ruột
Thơ ta ngún một nùi
Tinh Huyết ngân một giọt
Em bí mật hoài thai
 
Hài nhi bọc tinh âm
Khóc xanh hết bờ cõi
O oe hồng tiếng nói
Kiến trúc chín bậc trầm
Mười bậc cao vòi või
 
Thơ lạ như thần ưng
Âm thương đau móng sắc
Ta chết ngay tức khắc
Giữa trời Xuân Tượng Trưng
Tinh Huyết bỗng thơm lừng…
 
5.2003
Ghi chú: Những chữ in nghiêng là tác phẩm của thi sĩ Bích Khê.
 
3. ỨNG MỘNG BÍCH KHÊ
 
Lại ứng mộng Bích Khê
Cơn ho buốt Thiên Ấn
Mắt sáng quắc như kiếm
Ngẩng mặt chào Huyền Không (*)
Ngũ Hành Sơn sóng bồng
Câu thơ nhón từng bước
Bấu từng bậc đá ngược
Lượm tiếng chuông tiếng kinh
Lượm hạt nắng trầm mình
Phơi hồn chữ trên biển
Gió luồn vô chánh điện
Rồi luồn ra ngáp chơi
Thi nhân hít một hơi
Thơ trào ngàn búng huyết
Núi mở ngực đón hết
Rồi thẳng lưng ngồi quên…
 
2008
(Viết theo thần khí bài thơ Ngũ Hành Sơn của thi sỹ Bích Khê).
(*)Động Huyền Không - Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng.
Trích trong tập thơ Huyết Âm, bài # 68
 
4. THU TỲ BÀ
 

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
 
(Tỳ Bà - Bích Khê)
 
Thu vang âm tỳ bà
Âm vang xa vang xa
Xa xôi A xa xăm
Mong ai nơi quê nhà
 
Quê nhà hoa vàng lay
Thu gầy trên đôi tay
Tay ngà A hoa âm
Âm hoa dâng triều ngày
 
Vàng lay âm vàng rơi
Thu ơi xin đưa lời
Lời hoa A so dây
Dây vang ngân tơ trời
 
Trời thu rơi sương thu
Ta ngồi nghe đàn ru
Tỳ bà A tơ trời
Rơi rơi rơi đàn thu
 
Thi nhân tri âm đàn
Đàn tan theo thơ tan
Thấm hết nắng cố xứ
Mênh mông A mênh mang…
 
10.2014
 
5. TRĂM NĂM BÍCH KHÊ
 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông (*)
Ô! Hay trăm năm vang thinh không
Thi nhân đâu ngờ âm Tinh Huyết
Tỳ Bà về theo bông triều Đông
 
Bông triều Đông dâng âm Tinh Hoa
Ô! Hay trăm năm rưng rưng và
Thi nhân la thầm khi trăng ứa
Hương em tan theo hương Thu xa
 
Hương Thu xa vang thơ Tinh Âm
Ô! Hay trăm năm thơm hồ cầm
Thi nhân xoa tay nghe Thiên Ấn
Sông Trà nhòa trong sương giăng câm
 
Sương giăng câm vàng rơi vàng rơi
Ô! Hay trăm năm thơ rền trời
Thi nhân trong veo hai con mắt
Dung nhan em huyền hồ xa vời
 
Huyền hồ xa vời lời bay theo
Ô! Hay trăm năm như truông đèo
Thi nhân về ngồi nhìn trăng ướt
Bông trăng em bên đời đang reo
 
Đời đang reo ồ bông trăng đêm
Ô! Hay trăm năm thơ say mèm
Thi nhân say theo em nhan sắc
Vàng rơi vàng rơi Thu bay lên
 
Thu bay lên không gian tươi đàn
Ô! Hay trăm năm quên thời gian
Thi nhân xâu âm cầm thu réo
Bông trăng em lừng hương sương tan
 
Hương sương tan vàng bay vàng bay
Ô! Hay trăm năm trầm như mây
Thi nhân như hài nhi nằm khóc
Thơ ghi trên mồ âm trăng lay
 
Âm trăng lay hay âm thinh không
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng (*)
Suối Biếc nắng lắng xuống búng huyết
Tri ân thi nhân Thu mênh mông.
 
Cuối Thu, 2015
 
Ghi chú:
(*) Trích trong bài thơ Tỳ Bà của Bích Khê.
Bích Khê (24.03.1916 -17.01.1946), tên thật là Lê Quang Lương, nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam thời tiền chiến. Ngoài bút hiệu Bích Khê, ông còn ký bút hiệu Lê Mộng Thu khi sáng tác thơ Đường luật
Thuở nhỏ, Bích Khê học tiểu học ở Phước Lộc và Đồng Hới, học trung học ở Huế, rồi ra Hà Nội học ban tú tài nhưng nửa chừng bỏ dở.
Năm 1931, 15 tuổi, Bích Khê đã biết làm thơ Đường luật, ca trù.
Năm 1934, cùng người chị ruột tên là Ngọc Sương vào Phan Thiết học thêm và mở trường dạy học tư.
Năm 1936, Ngọc Sương bị mật thám Pháp bắt, trường đóng cửa, Bích Khê trở lại quê nhà.
Năm 1937, Bích Khê bị bệnh phổi, sau khi điều trị trở về lên sống trên núi Thiên Ấn - Quảng Ngãi, ông lại ngược xuôi trên một chiếc thuyền quanh các ngả Sa Kỳ - Trà Khúc.
Năm 1938, Bích Khê lại cùng chị Ngọc Sương (khi ấy đã được ra tù) vào Phan Thiết mở trường dạy học, được vài năm lại bị chính quyền Pháp ra lệnh đóng cửa.
Năm 1941, Bích Khê dạy học ở Huế.
Năm 1942, bệnh phổi tái phát, Bích Khê trở về Thu Xà thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 17 tháng 1 năm 1946, Bích Khê lìa bỏ cõi đời và cõi thơ tại Thu Xà lúc 30 tuổi.
Cuộc đời của người thi sĩ tài hoa bạc mệnh quá ngắn ngủi, nhưng ông đã kịp hoàn thành ba tập thơ:
-“Những dòng thơ cũ” tập hợp các bài thơ cũ được sáng tác trong khoảng 1931 – 1936 chưa xuất bản.
-“Tinh Huyết” được xuất bản vào tháng 12 năm 1939
-“Tinh Hoa” được xuất bản trọn vẹn vào tháng giêng năm 1997 (trước đó, đã được trích đăng một số bài trên các sách, báo trước và sau 1975).
(Nguồn tham khảo: wikipedia.org, bichkhe.org).
 
 
 
  Trở lại chuyên mục của : Nguyễn Lương Vỵ