VÕ THẠNH VĂN
BÀI CA BÌNH BẮC #2
[Trưng Nữ Vương đuổi quân Đông Hán, năm 39 – 43 AC]
“Có những hận lớn trong đời
Không dùng gươm không rửa được”
Hùng Sử Thi: VÕ THẠNH VĂN


Giặc Đông Hán
Như ma dơi -- Như đỉa đói
Một bầy hổ báo cáo chồn
Chúng há miệng. Chúng nhe nanh
Chúng gầm gừ
Sùi bọt mép
Cường khấu phương Bắc
[gồm Tô Định thái thú
Mã Viện Phục Ba Tướng Quân
Lưu Long phó tướng
Lâu Thuyền, Đoàn Chí tùy tướng]
Đem quân xâm phạm nước ta
Chúng hút máu Việt tộc đến xanh xao
Đẩy dân lên rừng săn tê giác
Xô dân xuống biển mò ngọc trai
Cát sông Hằng không đếm hết oan thác
Nước biển Đông
Không gột sạch tội ác tầy trời
Thù nhà cao hơn núi
Nợ nước dài hơn sông
Hận nầy sâu hơn biển
Căm nầy rộng hơn rừng
Bốn phương hào kiệt bừng bừng
Cửu Chân, Hợp Phố
Liên Chiểu, Châu Diên
Phù Xá, Đông Sàng
Mê Linh Nương Tử múa làn kiếm thiêng
Thù nhà, sá gì thân liễu yếu
Nợ nước, kể chi phận đào tơ
Quắc mắt phượng gào mưa thét gió
Giương mày ngài hoán vũ hô phong
Trăm mối một lòng son
Từng tấc đất gom thù hận
Đùng đùng gióng trống khua chiêng
Trẩy quân nước bạt thành nghiêng vỡ bờ
Trở tay vung kiếm phất cờ
Phong Châu vó ngựa cuộn mờ mây xanh
Hạ Lôi, Yên Lãng gió lành
Làm nên địa chấn, sóng thần, triều cương
Đường gươm tài nữ oai lừng
Vung đao vương tá thư hùng đất chao
Khoa trường kiếm – Phóng đoản đao
Ó xoay. Phượng lộn. Lân nhào. Hổ vươn
Trưng Nữ Vương
Nữ trung hào kiệt -- Trác lạc tinh khôi
Tài chém tướng -- Đức mẫu nghi
Ráng pha bờm ngựa -- Trời in nhung bào
Múa song kiếm -- Vung báu đao
Thành liền đạp đổ -- Lũy hào hất phăng
Đường gươm Nữ Tướng san bằng
Gò cao. Lũng thấp. Giặc cường. Quân xâm
Trên lưng voi trận oai thần
Giáp vàng. Mũ bạc. Thương trần. Dáo xiên
Đuổi quân Nam Hán khỏi miền
Họ Tô bỏ kiếm vứt khiên chạy dài
Anh Thư Giao Chỉ
Trác lạc muôn đời
Ào ào chính khí
Ầm ầm biển khơi
Quân Nam
Nhất tâm đồng khởi cùng Chủ Soái
Nữ Vương Trưng Trắc
Bình Khôi Tướng Quân Trưng Nhị
Bình Tây Đại Tướng Quân Thánh Thiên Nương Tử
Nữ Kiệt ni cô Hoàng Thiếu Hoa
Kiện Tướng Bát Nàn Công Chúa
Nữ Tướng Tiên Phong Lê Chân
Đồng chung lưng sát cánh
Cùng trích huyết hội thề
Quyết tâm đuổi ngoại xâm
Giữ gìn non sông gấm vóc
Một miền viễn thủy trường nguyên
Dưới cờ Nương Tử oai ngần
Nhật Nam, Hợp Phố, Cửu Chân nhất tề
Sáu lăm (65) thành chẳn thu về
Đánh vùi Lãng Bạc
Thoái hồi Cẩm Khê
Quân tràn khí thế điên mê
Đao thù tuốt vỏ
Gươm thề vung tay
Châu Phong nhung giáp tung bay
Mê Linh sóng vỗ còn say nỗi lòng
Soái Kỳ nườm nượp bóng hồng
Tướng quân kiếm ảnh trời lồng lộng vươn
Phận gái Nam liễu bồ
Mai. Lan. Cúc. Trúc. Tơ. Đào
Môi hồng. Má Lựu. Chiến bào. Tóc mây
Lầu ngọc bội – Đài kim môn
Thâm khuê kín cổng cao tường nghiêm cung
Vì giặc nước – Vì thế cùng
Nữ nhi lá ngọc cành vàng vung tay
Trên lưng chiến mã
Ngự bành voi thiêng
Hô quân
Chém tướng công thành
Đánh què ngựa giặc
Đục thuyền cường gian
Diệt quân thảo mãng hung tàn
Chôn thây giặc cướp dưới làn tên bay
Thành nghiêng Nương Tử phất cờ
Thuận thiên thảo phạt
Thừa cơ diệt thù
Nhung yên. Tượng mã. Binh phù
Thanh gươm thép lạnh thiên thu rửa hờn
Lòng nhi nữ -- Chí quật cường
Muôn đời sóng nước còn rờn rợn xanh
Bãi Đồng Nhân ngất nỗi thương
Trầm thiêng còn tỏa
Khói hương còn vờn
Nghìn năm sóng quyện nỗi hờn
Thiên thu danh tiết chưa sờn núi Nam
Tặc quân vỡ mật tan hồn
Bỏ đồ binh khí, trốn luồn về Ngô
Kể từ đó
Đất Nam riêng cõi
Thanh thế một vùng
Sử xanh vòi vọi
Nghìn năm chưa từng
Anh thư Nữ kiệt lẫy lừng
Sục sôi chính khí -- Bừng bừng trời Nam
Một phen là vạn kiếp
Một lần là muôn năm
phù-hư dật-sĩ
VÕ THẠNH VĂN