VÕ THẠNH VĂN
BÀI CA BÌNH BẮC #5
[Triệu Quang Phục đánh quân nhà Lương, năm 549-571]
“Có những hận lớn trong đời
Không dùng gươm không rửa được”
Hùng Sử Thi: VÕ THẠNH VĂN
Nam Bang hào kiệt
Bẻ nát xiềng gông
Quyết xoay thời thế
Giành lại non sông
Cha Anh ngang tàng dũng liệt
Hoành thương nhọn mũi chỉ trời
Thề không cúi mình trước giặc
Chống gươm đứng thẳng giữa đời
Múa ba thước gươm chém đất
Quyết không uốn gối trước thù
Núi sông Cha Anh muôn thuở
Muôn đời. Vạn kiếp. Thiên thu
Triệu Việt Vương
Chí tát Trường Giang
Tài lấp Động Đình
San bằng Tần Lĩnh
Chẻ đôi Thái Hằng
Đạp đầu Ma Thiên Lãnh
Xô nghiêng Vạn Lý Trường Thành
Từng chém ngạc -- Từng đuổi kình
Một tay cử đỉnh hưng binh giúp đời
Đã quen khuấy nước chọc trời
Còn thân còn để cho người biết danh
Triệu Quang Phục
Dạ Trạch Vương
Thủy tổ du kích chiến
Mượn sương của trời
Mượn sình của đất
Mượn nước của sông
Muợn cây của núi
Mượn tên của giặc
Mượn lương của thù
Tài bắt hổ
Chí chém rồng
Giặc Bắc bao lăm mà hống hách
Trời Nam lồng lộng khí lòa mây
Rồng thiêng cựa mình lũng thấp
Thổi gió phun mưa trời cao
Dẫu sông cạn
Dẫu đá mòn
Tinh thần quật khởi nước Nam muôn đời
Đầm úng thủy – Chỗ yểm quân
Đất đai thiêng hiểm – Non ngàn sình vây
Chiêu binh. Mãi mã
Tuyển tướng. Rèn quân
Ngày luyện sĩ tốt – Tối duyệt binh thư
Giấu quân đầm Dạ Trạch
Ngày vá giáp -- Tối mài đao
Một năm thanh thế ào ào can qua
Trăng tàn. Rừng lạnh. Sương sa
Ngựa băng tháo lạt – Voi qua cỡi bành
Non nghiêng. Đèo trút. Thác chênh
Xuất quân (sập núi, đổ ghềnh) man khê
Đốt doanh trại. Phục binh chờ
Hô quân. Đuổi giặc. Phất cờ. Gióng chiêng
Xua voi công kích trận tiền
Ngựa tràn thác chảy. Núi liền tan băng
Đường gươm nhát kiếm huân thần
Công lao hãn mã sáng ngần thiên thu
Tướng giặc Trần Bá Tiên
Đánh liều, thua mãi, thua to
Lương thảo cạn. Ý quân nhụt
Lòng quân loạn
Sĩ tốt đốt thương giáp
Đạp nhau bỏ chạy thất thần
Về Ngô chân đất lưng trần
Binh lao mã liệt
Đao giáp tơi bời
Nghìn năm còn sợ
Sấm sét nhà Nam
Nộ khí ngất trời
Quân nhà Lương vô cớ
Xua quân xâm phạm bờ cõi nước ta
Chúng tự mua dây thắt cổ
Chui đầu vào thòng lọng
Do chính mình giăng ra
“Thiên tác nghiệt, du khả vi
“Tự tác nghiệt, bất khả hoạt
[Trời gieo họa, còn tránh được
Tự chuốt họa, tránh đàng nào]
Quân Lương bại tẩu
Tháo chạy về Tàu
Nghìn năm còn khiếp
Oai chấn muôn sau
Quân giặc kém đức, bất tài
Xô nhau tháo chạy về thành Gia Ninh
Dạ Trạch Vương
Triệu Quang Phục Tả Tướng Quân
Hoành thương lẫm liệt
Vung kiếm chém sao
Ngập trời, lụt đất
Bắc Đẩu mờ chao
Trấn kiếm sơn – Bình Bắc đao
Núi non đạp phẳng – Lũy hào bước ngang
Nước tràn. Băng lở. Tuyết tan
Rùng thiêng lửa thét. Biển ngàn sóng xao
Kiếm cung gió cuộn mưa rào
Nước non (đồi thấp, núi cao) nghiêng mình
Tất lòng son đỏ trung trinh
Sông quê sương nhuộm -- Đồi tình nắng hong
Linh địa Giao Châu -- Giang san cẩm tú
Xã tắc chung linh -- Sấm dậy rừng rú
Hào kiệt anh minh
Mấy phen sóng ngạc, biển kình
Trống Đồng vỗ động rung rinh Thái Hằng
Hùng khí trời Nam
Bạt hồn phương Bắc
Núi non rùng mình
Sao đêm chuyển sắc
Khoa bảo kiếm ngang đầu cường tặc
Thần hồn, thần tính, lạnh sao khuya
Sông sâu thủy mộ nao lòng giặc
Làm ma đất Việt biết bao mùa
Linh khí, hề, trời Nam
Đất thiêng nuôi hào kiệt
Nghìn thu, hề, lẫm liệt
Máu nóng nung thép gan
Công hãn mã
Chí nguyên nhung
Đức vương tá
Tài chém rồng
Lại một lần
Sẽ vạn lần
Lạc Hồng hào kiệt
Che mờ Thái Sơn
Phù-Hư Dật-Sĩ
VÕ THẠNH VĂN