VÕ THẠNH VĂN
Đoạn Trường Hư Thanh
“Tân Thanh
hoà quyện Cựu Thanh
“Vô Thanh một thuở
Hư Thanh nghìn đời
(phds/vtv)
Khúc [261]
THUÝ KIỀU VÂNG LỆNH
HẦU ĐÀN HOẠN NƯƠNG
“Lĩnh lời
nàng mới lựa dây”
(ND)
Mê tơi (từng ngón) tay trần
Nỉ non (từng sợi dây thần) vút cao
Biển dâng. Sóng trút. Thuyền chao
Núi nghiêng. Thác chảy. Suối trào. Mương khai
Bốn dây (rỉ máu) tài hoa
Đài trang (từng sợi tóc dài) buông lơi
Kiều ngồi (dáng mộng) chơi vơi
Năm cung tức tưởi, châu rơi, ngọc chìm
Biệt mù (tăm cá) bóng chim
Tuyết tan. Giá vữa. Gió im. Băng rời
Khúc [262]
THÚC VỀ VÔ TÍCH
CHO KHUÂY NỖI BUỒN
“Nhớ quê,
chàng lại tìm đường thăm quê”
(ND)
Nhớ người. Nhớ dáng. Nhớ hơi
Mưa trời tuyết đọng. Mây trời sương in
Quẩn quanh (mộng bóng) mơ hình
Ra vào (thương nghĩa, xót tình) nôn nao
Nhìn hoa tưởng má môi đào
Bước ra khuây khoả. Khép vào hôn mê
Chợt nghe trong buổi đi về
Âm âm nỗi xót. Bề bề nỗi xa
Dong cương (trở lại) quê nhà
Bụi vương chân ngựa. Trăng sa dặm đường
Khúc [263]
THÚC VỀ VÔ TÍCH
LINH CẢM BẤT AN
“Làm ra
con ở chủ nhà đôi nơi”
(ND)
Một về. Một bước. Một thương
Xa miền gió cuốn. Gần phương bụi quầng
Bước ra lòng những tần ngần
Đầm rồng. Hang cọp. Khe hùm. Hố dơi
Một đi (lòng rối) bời bời
Dữ nhiều lành ít trăng rơi dọc đàng
Hoá ra (duyên nợ) phũ phàng
Ngỡ ngàng số kiếp. Bẽ bàng lứa đôi
Nước đưa. Bèo giạt. Mây trôi
Ai ngờ (gió dập, sóng giồi) chưa yên
Khúc [264]
THÚC, KIỀU ĐỐI MẶT
KHÔNG DÁM NHÌN NHAU
“Ăn làm sao,
nói làm sao bây giờ”
(ND)
Mặt đối mặt. Tim chạm tim
Còn ngờ (lỡ lối, lạc miền) chiêm bao
Ai bày (chước độc) mưu cao
Gặp nhau cúi mặt mạch trào máu đen
Mắt gặp mắt. Tình gặp tình
Ai ngờ (trong cõi ba sinh) có ngày
Dấm chua. Muối mặn. Gừng cay
Chưa từng (nếm trải kế dày) chước sâu
Đau nầy ai biết cho nhau
Nghiệp oan. Duyên ẩm. Tình nhàu. Nghĩa suông
Khúc [265]
HOẠN NƯƠNG MỪNG THÚC
TIỆC BÀY ĐOÀN VIÊN
“Tẩy trần mượn chén
giải phiền đêm thu”
(ND)
Dặm trường (bụi lấm) yên cương
Nỗi vui đoàn tụ. Nỗi buồn chia ly
Tẩy trần mượn chén vân vi
Rượu ngon. Thịt béo. Tình si. Nghĩa dày
Đèn chong. Hoa kết. Trầm vây
Vui đêm sum họp. Quên ngày đường xa
Nồng nàn. Âu yếm. Thiết tha
Mời nhau (cạn chén quan hà) thuỷ chung
Mừng nhau (sóng mắt) trùng phùng
Nói cười. (Rào đón mông lung). Khó lường
Khúc [266]
KIỀU HẦU HOẠN, THÚC
GẢY ĐÀN MUA VUI
“Cuộc vui
gãy khúc đoạn trường ấy chi”
(ND)
Niềm sau trước. Nỗi hưng vong
Ngón tay diệu thủ khoá vòng trần ai
Tâm mê tỉnh. Thân lạc loài
Cung trong rơi lệ. Trời ngoài mưa giăng
Tiếng đàn (vỡ tuyết) tan băng
Sầu mưa. Thảm gió. Rụng trăng. Lịm dòng
Dây tơ (ai oán) trầm hôn
Năm cung than khóc. Ba hồn ngất say
Bốn dây lạnh buốt lòng tay
Nghĩa chua mật vữa. Tình cay rượu hèm
Khúc [267]
Ai VUI CHĂN ẤM
KẺ BUỒN PHÒNG KHÔNG
“Người ngoài cười nụ,
người trong khóc thầm”
(ND)
Nối hương. Rót rượu. Khơi đèn
Tiệc khuya chưa dứt. Trăng đêm gần tàn
Người vầy chăn gấm, màn loan
Kẻ ôm đàn khóc lệ tràn tây hiên
Phím loan (dằng dặc) ưu phiền
Mưa rơi. Bão rớt. Suối nghiêng. Mây quầng
Thùng đàn gỗ quặn đường gân
Đớn đau hai mặt. Bâng khuâng hai lòng
Dấm chua. Rượu nhạt. Lệ ròng
Bốn dây (mười ngón tơ hong) đêm chùng
Khúc [268]
MỘT TÊN SỢ VỢ
BẢN CHẤT THÚC SINH
“Vội vàng
gượng nói gượng cười cho qua”
(ND)
Danh long đong. Phận long đong
Áo cơm (thẹn mặt, tủi lòng) nam nhi
Thẹn mày râu. Thẹn tu mi
[Sân Trình. Cửa Khổng. Trường Qui. Sách đèn]
Tam cương (bách hạnh) rối beng
Ngũ thường (năm mối sang hèn) thị phi
Chữ tình (gốc lụy) sân si
Trăm cay nghìn đắng cũng vì non gan
Đường hoạn lộ đã lỡ làng
Tình duyên (oan khốc, bẽ bang) riêng chung
Khúc [269]
TRAO TRÌNH HOẠN, THÚC
KIỀU VIẾT TỜ CUNG
“Rằng tài nên trọng
mà tình nên thương”
(ND)
Kiều nghiêng tóc rối chảy tràn
Vai (run rẩy) động. Lệ (bàng hoàng) rơi
Tay tiên (mười ngón) tuyệt vời
Ngón măng tháp bút. Ngón ngời kiêu sa
Giấy vân tiên. Mực cẩm hoa
Rót dòng (tâm huyết lệ nhoà) trang thơ
Thanh tao. Cổ kính. Diệu vời
Hàng hàng châu ngọc. Lời lời gấm nhung
Quỳ dâng Hoạn, Thúc tờ cung
Tiêu dao dáng ngất. Ung dung dáng ngời
Khúc [270]
CHÚT TÌNH CŨNG MẾN
NHƯNG DUYÊN KHÔNG CHÌU
“Thoạt xem
dường có ngẩn ngơ chút tình”
(ND)
Tờ cung nâng trước mặt người
Rừng sâu thác trút. Biển khơi sóng dìm
Biết đâu (ngọc nát) vàng chìm
Lòng người đáy giếng. Dấu chim vực nguồn
Tài nên trọng. Tình nên thương
Mà lòng dan díu, ai nhường chi ai
Tài nầy (sắc ấy) chưa phai
Nghìn vàng đúc sẵn lâu đài cũng nên
Người trên (tỏ lượng) kẻ trên
Mở chuồng. Tháo cổng. Nới then. Cởi tròng
Khúc [271]
ĐẦU QUAN ÂM CÁC
KIỀU ĐƯỢC THOẢ LÒNG
“Rắp đem mệnh bạc
xin nhờ cửa không”
(ND)
Biết đâu dại. Biết đâu khôn
Đầu Quan Âm Các quên hờn, oán, thương
Chép kinh. Niệm Bụt. Thỉnh chuông
Hoa Nghiêm lá bối. Vô thường mực thơm
Sớm chiều (khánh mõ) trầm ươm
Mây vương bút thánh. Hoa tươm nét thần
Nén lòng. (Gạn đục). Khơi trong
Bể trần thủ phận. Cửa không gởi mình
Tìm gác tẻ. Lánh bụi tình
Nhang, đèn phảng phất. Điển, kinh tịnh ngời
Khúc [272]
TỤC DANH NAY ĐỔI
PHÁP DANH TRẠC TUYỀN
“Áo xanh
đổi lấy cà sa”
(ND)
Suối trong. (Nước đục). Ngược đời
Dòng trong, ai biết. Nước ngời, ai hay
Trạc Tuyền (pháp hiệu) từ nay
Khe phô đá gợn. Suối bày rêu nguyên
Đổi tên. Giấu họ. Lánh phiền
Hoa Nô ngạc ngạc. Trạc Tuyền phiêu phiêu
Từ Thuý Kiều, đến Mã Kiều
Mấy năm lưu lạc bao điều trớ trinh
Đổi tên chẳng đổi tâm tình
Lầu son. Thềm phấn. Gác kinh. Thư phòng
Khúc [273]
KIỀU ĐẮP Y VÀNG
LÀM KHÁCH THƯỢNG TÂN
“Lửa lòng tưới tắt
mọi đường nhân duyên”
(ND)
Thay áo vải. Mặc áo vàng
Chép kinh tu đạo vào hàng Thượng Tân
Sách Hoa Nghiêm. Bút Trạc Tuyền
Đạo duyên vừa chớm. Tục duyên dần tàn
Khép lối mê. Mở đạo tràng
Vườn sau. Sân trước. Hoa làn. Bướm đưa
Tháng chầy (khánh sớm) mõ trưa
Thời kinh triêu mộ gió đưa ong vờn
Lòng nguôi hận. Tâm nguôi hờn
Niềm vui dìu dịu. Nỗi buồn rưng rưng
Khúc [274]
XUÂN HOA, THU NGUYỆT
HẦU HẠ HƯƠNG ĐÈN
“Xuân, Thu
cắt sẵn hai tên hương trà”
(ND)
Xuân Hoa, Thu Nguyệt đôi vừng
(Sắc dâng nhã điệu. Hương bừng nhã thanh)
Trăng Thu sáng. Hoa Xuân lành
Môi cung sơ nguyệt. Má vành nguyên tiêu
Thương mệnh ít. Tiếc duyên nhiều
Dượng Tơ Dì Nguyệt cợt trêu khách tình
Cùng nhau gõ mõ, nghe kinh
Đốt trầm. Thắp nến. Nện kình. Thỉnh chuông
Pha trà. Nối sáp. Khơi hương
(Kế ngoài lơi lỏng. Mưu trong sâu dày)
Khúc [275]
NƠI QUAN ÂM TỰ
THUÝ KIỀU CHÉP KINH
“Ngày pho thủ tự,
đêm nhồi tâm hương”
(ND)
Tài hoa (thơm ngát) đôi tay
Búp lan mười ngón sen bày đoá xuân
Phút giây (động thủ) xuất thần
Lan Đình Nhã Tập mây quầng giấy thiêng
Mực thần. Bút thánh. Tay tiên
Chép trang (kinh ngọc Hoa Nghiêm) đạo mầu
Tóc nghiêng (chảy lụt) vai sầu
Rồng tranh. Hạc múa. Lân chầu. Phụng xoay
Chữ cuồn cuộn chảy cung mây
Hoa ươm nhụy mộng. Phấn rây hương thiền
Khúc [276]
CỬA QUAN ÂM CÁC
NHỮNG NGÀY TẠM YÊN
“Dường gần rừng tía,
dường xa bụi hồng”
(ND)
Tiếng kinh xoá nỗi ưu phiền
Trầm xông (khói quyện phiêu nhiên) tháng ngày
Tâm gạn tỉnh. Tình lọc say
Chút lòng (tịch mặc mây bay) sương ngần
Nhang bừng. Khói toả. Hương dâng
Hoa viên viện sách như gần như xa
Đêm ngày khánh mõ ngân nga
Nhớ thương (chầy tháng phôi pha) lịm dần
Tình man man. Ý man man
Quẩn quanh. Quanh quẩn. Ươm trầm. Trầm ươm
Khúc [277]
GÁC KINH, VIỆN SÁCH
TƯỞNG GẦN HOÁ XA
“Trong gang tấc
lại gấp mười quan san”
(ND)
Hương tình (viện sách) thoảng thơm
Gác Quan Âm tiếng mõ hờn gọi khuya
Nhớ. Thương. Trông. Ngóng. Mong. Lìa
Trăng nầy tròn khuyết. Lòng kia vơi đầy
Chập chờn (cơn tỉnh) cơn say
Đêm (dầm) lệ ngọc. Ngày (mài) mực châu
Biết đâu (manh mối) là đâu
(Gió sương đất khách. Biển dâu quê người)
Tơ lòng (ngõ ý) còn tươi
Khói hun nến bạc. Trầm khơi lư đồng
Khúc [278]
THỪA LÚC VẮNG HOẠN
THÚC LÉN THĂM KIỀU
“Xăm xăm
đến mé vườn hoa thăm nàng”
(ND)
Nhớ nhung (khắc cốt) chưa sờn
Lời nguyền (thệ hải, minh sơn) còn nồng
Vạch hoa. Rẽ lối. Tìm đường
(Giật mình đàn bướm. Hoảng hồn bầy ong)
Cắn răng bẻ một chữ đồng
Vạn lời muối mặn. Nửa hồn gừng cay
Trăm năm (thoảng cuộc) bể dâu
Chút hương (tình cũ chắp sầu) chưa phai
Nợ nần (ai đã) vì ai
Chữ đồng (ai đã chia hai) từ ngày
Khúc [279]
THÚC, NỖI BẤT LỰC
VÀ LÒNG THƯƠNG NHỚ
“Thấp cơ
thua trí đàn bà”
(ND)
Vì ta nên nỗi nước nầy
Vì ta (má phấn, mày ngài) héo hon
Vì ta (thương nhớ) mỏi mòn
Vì ta (mắt biếc, môi son) rạc gầy
Bởi ta thua trí đàn bà
Bởi ta (thúc thủ), (bó tay) chịu lòn
Bấy lâu (lòng dạ) sầu hong
Miệt mài. (Nung nấu chưa tròn). Nghĩa ân
Thì thôi duyên nợ có ngần
Thì thôi. (Rừng ngút. Núi ngàn). Cao bay
Khúc [280]
THUÝ KIỀU XIN THÚC
MỞ CỔNG CHO ĐI
“Ấy là tình nặng,
ấy là nghĩa sâu”
(ND)
Tình ai khất. Nợ ai vay
Nghịch duyên. (Huyễn hợp. Bèo mây). Lẽ thường
Xin chàng lưu chút vấn vương
Đưa tay (mở khoá khai đường) mai sau
Ra đi còn nhớ buổi đầu
Trăm năm (không thẹn trầu cay) bẽ bàng
Dỡ dang. (Trăn trở). Lỡ làng
Sắc son tô đậm. Đá vàng khắc sâu
Rộng lòng giải thoát cho nhau
Món quà. (Ngang trái. Thảm sầu). Duyên ta
Đoạn Trường Hư Thanh
“Tân Thanh
hoà quyện Cựu Thanh
“Vô Thanh một thuở
Hư Thanh nghìn đời
(phds/vtv)
Khúc [261]
THUÝ KIỀU VÂNG LỆNH
HẦU ĐÀN HOẠN NƯƠNG
“Lĩnh lời
nàng mới lựa dây”
(ND)
Mê tơi (từng ngón) tay trần
Nỉ non (từng sợi dây thần) vút cao
Biển dâng. Sóng trút. Thuyền chao
Núi nghiêng. Thác chảy. Suối trào. Mương khai
Bốn dây (rỉ máu) tài hoa
Đài trang (từng sợi tóc dài) buông lơi
Kiều ngồi (dáng mộng) chơi vơi
Năm cung tức tưởi, châu rơi, ngọc chìm
Biệt mù (tăm cá) bóng chim
Tuyết tan. Giá vữa. Gió im. Băng rời
Khúc [262]
THÚC VỀ VÔ TÍCH
CHO KHUÂY NỖI BUỒN
“Nhớ quê,
chàng lại tìm đường thăm quê”
(ND)
Nhớ người. Nhớ dáng. Nhớ hơi
Mưa trời tuyết đọng. Mây trời sương in
Quẩn quanh (mộng bóng) mơ hình
Ra vào (thương nghĩa, xót tình) nôn nao
Nhìn hoa tưởng má môi đào
Bước ra khuây khoả. Khép vào hôn mê
Chợt nghe trong buổi đi về
Âm âm nỗi xót. Bề bề nỗi xa
Dong cương (trở lại) quê nhà
Bụi vương chân ngựa. Trăng sa dặm đường
Khúc [263]
THÚC VỀ VÔ TÍCH
LINH CẢM BẤT AN
“Làm ra
con ở chủ nhà đôi nơi”
(ND)
Một về. Một bước. Một thương
Xa miền gió cuốn. Gần phương bụi quầng
Bước ra lòng những tần ngần
Đầm rồng. Hang cọp. Khe hùm. Hố dơi
Một đi (lòng rối) bời bời
Dữ nhiều lành ít trăng rơi dọc đàng
Hoá ra (duyên nợ) phũ phàng
Ngỡ ngàng số kiếp. Bẽ bàng lứa đôi
Nước đưa. Bèo giạt. Mây trôi
Ai ngờ (gió dập, sóng giồi) chưa yên
Khúc [264]
THÚC, KIỀU ĐỐI MẶT
KHÔNG DÁM NHÌN NHAU
“Ăn làm sao,
nói làm sao bây giờ”
(ND)
Mặt đối mặt. Tim chạm tim
Còn ngờ (lỡ lối, lạc miền) chiêm bao
Ai bày (chước độc) mưu cao
Gặp nhau cúi mặt mạch trào máu đen
Mắt gặp mắt. Tình gặp tình
Ai ngờ (trong cõi ba sinh) có ngày
Dấm chua. Muối mặn. Gừng cay
Chưa từng (nếm trải kế dày) chước sâu
Đau nầy ai biết cho nhau
Nghiệp oan. Duyên ẩm. Tình nhàu. Nghĩa suông
Khúc [265]
HOẠN NƯƠNG MỪNG THÚC
TIỆC BÀY ĐOÀN VIÊN
“Tẩy trần mượn chén
giải phiền đêm thu”
(ND)
Dặm trường (bụi lấm) yên cương
Nỗi vui đoàn tụ. Nỗi buồn chia ly
Tẩy trần mượn chén vân vi
Rượu ngon. Thịt béo. Tình si. Nghĩa dày
Đèn chong. Hoa kết. Trầm vây
Vui đêm sum họp. Quên ngày đường xa
Nồng nàn. Âu yếm. Thiết tha
Mời nhau (cạn chén quan hà) thuỷ chung
Mừng nhau (sóng mắt) trùng phùng
Nói cười. (Rào đón mông lung). Khó lường
Khúc [266]
KIỀU HẦU HOẠN, THÚC
GẢY ĐÀN MUA VUI
“Cuộc vui
gãy khúc đoạn trường ấy chi”
(ND)
Niềm sau trước. Nỗi hưng vong
Ngón tay diệu thủ khoá vòng trần ai
Tâm mê tỉnh. Thân lạc loài
Cung trong rơi lệ. Trời ngoài mưa giăng
Tiếng đàn (vỡ tuyết) tan băng
Sầu mưa. Thảm gió. Rụng trăng. Lịm dòng
Dây tơ (ai oán) trầm hôn
Năm cung than khóc. Ba hồn ngất say
Bốn dây lạnh buốt lòng tay
Nghĩa chua mật vữa. Tình cay rượu hèm
Khúc [267]
Ai VUI CHĂN ẤM
KẺ BUỒN PHÒNG KHÔNG
“Người ngoài cười nụ,
người trong khóc thầm”
(ND)
Nối hương. Rót rượu. Khơi đèn
Tiệc khuya chưa dứt. Trăng đêm gần tàn
Người vầy chăn gấm, màn loan
Kẻ ôm đàn khóc lệ tràn tây hiên
Phím loan (dằng dặc) ưu phiền
Mưa rơi. Bão rớt. Suối nghiêng. Mây quầng
Thùng đàn gỗ quặn đường gân
Đớn đau hai mặt. Bâng khuâng hai lòng
Dấm chua. Rượu nhạt. Lệ ròng
Bốn dây (mười ngón tơ hong) đêm chùng
Khúc [268]
MỘT TÊN SỢ VỢ
BẢN CHẤT THÚC SINH
“Vội vàng
gượng nói gượng cười cho qua”
(ND)
Danh long đong. Phận long đong
Áo cơm (thẹn mặt, tủi lòng) nam nhi
Thẹn mày râu. Thẹn tu mi
[Sân Trình. Cửa Khổng. Trường Qui. Sách đèn]
Tam cương (bách hạnh) rối beng
Ngũ thường (năm mối sang hèn) thị phi
Chữ tình (gốc lụy) sân si
Trăm cay nghìn đắng cũng vì non gan
Đường hoạn lộ đã lỡ làng
Tình duyên (oan khốc, bẽ bang) riêng chung
Khúc [269]
TRAO TRÌNH HOẠN, THÚC
KIỀU VIẾT TỜ CUNG
“Rằng tài nên trọng
mà tình nên thương”
(ND)
Kiều nghiêng tóc rối chảy tràn
Vai (run rẩy) động. Lệ (bàng hoàng) rơi
Tay tiên (mười ngón) tuyệt vời
Ngón măng tháp bút. Ngón ngời kiêu sa
Giấy vân tiên. Mực cẩm hoa
Rót dòng (tâm huyết lệ nhoà) trang thơ
Thanh tao. Cổ kính. Diệu vời
Hàng hàng châu ngọc. Lời lời gấm nhung
Quỳ dâng Hoạn, Thúc tờ cung
Tiêu dao dáng ngất. Ung dung dáng ngời
Khúc [270]
CHÚT TÌNH CŨNG MẾN
NHƯNG DUYÊN KHÔNG CHÌU
“Thoạt xem
dường có ngẩn ngơ chút tình”
(ND)
Tờ cung nâng trước mặt người
Rừng sâu thác trút. Biển khơi sóng dìm
Biết đâu (ngọc nát) vàng chìm
Lòng người đáy giếng. Dấu chim vực nguồn
Tài nên trọng. Tình nên thương
Mà lòng dan díu, ai nhường chi ai
Tài nầy (sắc ấy) chưa phai
Nghìn vàng đúc sẵn lâu đài cũng nên
Người trên (tỏ lượng) kẻ trên
Mở chuồng. Tháo cổng. Nới then. Cởi tròng
Khúc [271]
ĐẦU QUAN ÂM CÁC
KIỀU ĐƯỢC THOẢ LÒNG
“Rắp đem mệnh bạc
xin nhờ cửa không”
(ND)
Biết đâu dại. Biết đâu khôn
Đầu Quan Âm Các quên hờn, oán, thương
Chép kinh. Niệm Bụt. Thỉnh chuông
Hoa Nghiêm lá bối. Vô thường mực thơm
Sớm chiều (khánh mõ) trầm ươm
Mây vương bút thánh. Hoa tươm nét thần
Nén lòng. (Gạn đục). Khơi trong
Bể trần thủ phận. Cửa không gởi mình
Tìm gác tẻ. Lánh bụi tình
Nhang, đèn phảng phất. Điển, kinh tịnh ngời
Khúc [272]
TỤC DANH NAY ĐỔI
PHÁP DANH TRẠC TUYỀN
“Áo xanh
đổi lấy cà sa”
(ND)
Suối trong. (Nước đục). Ngược đời
Dòng trong, ai biết. Nước ngời, ai hay
Trạc Tuyền (pháp hiệu) từ nay
Khe phô đá gợn. Suối bày rêu nguyên
Đổi tên. Giấu họ. Lánh phiền
Hoa Nô ngạc ngạc. Trạc Tuyền phiêu phiêu
Từ Thuý Kiều, đến Mã Kiều
Mấy năm lưu lạc bao điều trớ trinh
Đổi tên chẳng đổi tâm tình
Lầu son. Thềm phấn. Gác kinh. Thư phòng
Khúc [273]
KIỀU ĐẮP Y VÀNG
LÀM KHÁCH THƯỢNG TÂN
“Lửa lòng tưới tắt
mọi đường nhân duyên”
(ND)
Thay áo vải. Mặc áo vàng
Chép kinh tu đạo vào hàng Thượng Tân
Sách Hoa Nghiêm. Bút Trạc Tuyền
Đạo duyên vừa chớm. Tục duyên dần tàn
Khép lối mê. Mở đạo tràng
Vườn sau. Sân trước. Hoa làn. Bướm đưa
Tháng chầy (khánh sớm) mõ trưa
Thời kinh triêu mộ gió đưa ong vờn
Lòng nguôi hận. Tâm nguôi hờn
Niềm vui dìu dịu. Nỗi buồn rưng rưng
Khúc [274]
XUÂN HOA, THU NGUYỆT
HẦU HẠ HƯƠNG ĐÈN
“Xuân, Thu
cắt sẵn hai tên hương trà”
(ND)
Xuân Hoa, Thu Nguyệt đôi vừng
(Sắc dâng nhã điệu. Hương bừng nhã thanh)
Trăng Thu sáng. Hoa Xuân lành
Môi cung sơ nguyệt. Má vành nguyên tiêu
Thương mệnh ít. Tiếc duyên nhiều
Dượng Tơ Dì Nguyệt cợt trêu khách tình
Cùng nhau gõ mõ, nghe kinh
Đốt trầm. Thắp nến. Nện kình. Thỉnh chuông
Pha trà. Nối sáp. Khơi hương
(Kế ngoài lơi lỏng. Mưu trong sâu dày)
Khúc [275]
NƠI QUAN ÂM TỰ
THUÝ KIỀU CHÉP KINH
“Ngày pho thủ tự,
đêm nhồi tâm hương”
(ND)
Tài hoa (thơm ngát) đôi tay
Búp lan mười ngón sen bày đoá xuân
Phút giây (động thủ) xuất thần
Lan Đình Nhã Tập mây quầng giấy thiêng
Mực thần. Bút thánh. Tay tiên
Chép trang (kinh ngọc Hoa Nghiêm) đạo mầu
Tóc nghiêng (chảy lụt) vai sầu
Rồng tranh. Hạc múa. Lân chầu. Phụng xoay
Chữ cuồn cuộn chảy cung mây
Hoa ươm nhụy mộng. Phấn rây hương thiền
Khúc [276]
CỬA QUAN ÂM CÁC
NHỮNG NGÀY TẠM YÊN
“Dường gần rừng tía,
dường xa bụi hồng”
(ND)
Tiếng kinh xoá nỗi ưu phiền
Trầm xông (khói quyện phiêu nhiên) tháng ngày
Tâm gạn tỉnh. Tình lọc say
Chút lòng (tịch mặc mây bay) sương ngần
Nhang bừng. Khói toả. Hương dâng
Hoa viên viện sách như gần như xa
Đêm ngày khánh mõ ngân nga
Nhớ thương (chầy tháng phôi pha) lịm dần
Tình man man. Ý man man
Quẩn quanh. Quanh quẩn. Ươm trầm. Trầm ươm
Khúc [277]
GÁC KINH, VIỆN SÁCH
TƯỞNG GẦN HOÁ XA
“Trong gang tấc
lại gấp mười quan san”
(ND)
Hương tình (viện sách) thoảng thơm
Gác Quan Âm tiếng mõ hờn gọi khuya
Nhớ. Thương. Trông. Ngóng. Mong. Lìa
Trăng nầy tròn khuyết. Lòng kia vơi đầy
Chập chờn (cơn tỉnh) cơn say
Đêm (dầm) lệ ngọc. Ngày (mài) mực châu
Biết đâu (manh mối) là đâu
(Gió sương đất khách. Biển dâu quê người)
Tơ lòng (ngõ ý) còn tươi
Khói hun nến bạc. Trầm khơi lư đồng
Khúc [278]
THỪA LÚC VẮNG HOẠN
THÚC LÉN THĂM KIỀU
“Xăm xăm
đến mé vườn hoa thăm nàng”
(ND)
Nhớ nhung (khắc cốt) chưa sờn
Lời nguyền (thệ hải, minh sơn) còn nồng
Vạch hoa. Rẽ lối. Tìm đường
(Giật mình đàn bướm. Hoảng hồn bầy ong)
Cắn răng bẻ một chữ đồng
Vạn lời muối mặn. Nửa hồn gừng cay
Trăm năm (thoảng cuộc) bể dâu
Chút hương (tình cũ chắp sầu) chưa phai
Nợ nần (ai đã) vì ai
Chữ đồng (ai đã chia hai) từ ngày
Khúc [279]
THÚC, NỖI BẤT LỰC
VÀ LÒNG THƯƠNG NHỚ
“Thấp cơ
thua trí đàn bà”
(ND)
Vì ta nên nỗi nước nầy
Vì ta (má phấn, mày ngài) héo hon
Vì ta (thương nhớ) mỏi mòn
Vì ta (mắt biếc, môi son) rạc gầy
Bởi ta thua trí đàn bà
Bởi ta (thúc thủ), (bó tay) chịu lòn
Bấy lâu (lòng dạ) sầu hong
Miệt mài. (Nung nấu chưa tròn). Nghĩa ân
Thì thôi duyên nợ có ngần
Thì thôi. (Rừng ngút. Núi ngàn). Cao bay
Khúc [280]
THUÝ KIỀU XIN THÚC
MỞ CỔNG CHO ĐI
“Ấy là tình nặng,
ấy là nghĩa sâu”
(ND)
Tình ai khất. Nợ ai vay
Nghịch duyên. (Huyễn hợp. Bèo mây). Lẽ thường
Xin chàng lưu chút vấn vương
Đưa tay (mở khoá khai đường) mai sau
Ra đi còn nhớ buổi đầu
Trăm năm (không thẹn trầu cay) bẽ bàng
Dỡ dang. (Trăn trở). Lỡ làng
Sắc son tô đậm. Đá vàng khắc sâu
Rộng lòng giải thoát cho nhau
Món quà. (Ngang trái. Thảm sầu). Duyên ta