VÕ THẠNH VĂN
KINH VÔ THƯỜNG
MƯỜI NĂM TRÔI GIẠT
VIẾT KINH VÔ THƯỜNG
Mười năm trôi giạt sông hồ
[Núi khe đầm rạch mương hồ đầm khơi]
Mười năm hành khất chợ đời
Vô Thường kinh chép rạc rời mây trôi
Mười năm ăn đứng ngủ ngồi
Co ro -- chiếu đất màn trời -- sắc không
Sương rơi – mưa rớt – gió lồng
Gom mây nhiếp anh -- Vắt hồng ghép thơ
Mười năm cát bụi dật dờ
Viết KINH VÔ TỰ vạn lời vô ngôn
Băng thao thức -- Tuyết bồn chồn
Non cao. Vực thẳm. Trăng bồng. Đèo ngang
Mười năm cháo chợ, cơm đàng
[Miệt mài. Rong ruổi. Độc hành. Như nhiên]
Trưa dừng quán -- tối ghé đình
Góp vần vô thức viết KINH VÔ THƯỜNG
TIỂU TỰ
Của Tác Giả Nhân Ngày Hoàn Thành
Bộ KINH VÔ THƯỜNG
KINH VÔ THƯỜNG
MƯỜI NĂM TRÔI GIẠT
VIẾT KINH VÔ THƯỜNG
Mười năm trôi giạt sông hồ
[Núi khe đầm rạch mương hồ đầm khơi]
Mười năm hành khất chợ đời
Vô Thường kinh chép rạc rời mây trôi
Mười năm ăn đứng ngủ ngồi
Co ro -- chiếu đất màn trời -- sắc không
Sương rơi – mưa rớt – gió lồng
Gom mây nhiếp anh -- Vắt hồng ghép thơ
Mười năm cát bụi dật dờ
Viết KINH VÔ TỰ vạn lời vô ngôn
Băng thao thức -- Tuyết bồn chồn
Non cao. Vực thẳm. Trăng bồng. Đèo ngang
Mười năm cháo chợ, cơm đàng
[Miệt mài. Rong ruổi. Độc hành. Như nhiên]
Trưa dừng quán -- tối ghé đình
Góp vần vô thức viết KINH VÔ THƯỜNG
TIỂU TỰ
Của Tác Giả Nhân Ngày Hoàn Thành
Bộ KINH VÔ THƯỜNG
KINH VÔ THƯỜNG là lời kêu thương bi thống của một kiếp nhân sinh bi luỵ trong cõi trần bi ai. Đó là lời ca cùng tột bi tráng chứa đựng bao nỗi ngậm ngùi chất ngất đau thương của những tâm hồn vươn lên từ nỗi bi thiết thường hằng.
Từng con chữ trong Kinh Vô Thường là từng bước chân rời rạc rã riêng của hành trình đi vào tâm thức, một tâm thức tuyệt đối cô đơn khép kín riêng tư. Từng chữ, từng lời là những bước chân hành giả trên dường hành hương, ngơ ngác dọ dẫm đi vào tự thức để tìm lại chính mình.
Nhìn lại cho rõ lòng mình, cái bản lai diện mục, là nhận diện nỗi bi thương to lớn của một kiếp nhân sinh. Nỗi bi thương to lớn ấy, chính là con người đã dánh mất bản thể từ lúc chưa sinh. Từ đó, con người hoang mang và miệt mài tìm kiếm chính mình trong huyễn vọng.
Trong suốt cuộc hành trình đơn độc đi vào tiểu ngã để tìm kiếm đại ngã, con người vừa hân hoan bắt gặp, vừa ngậm ngùi chua chát cho thân phận. Đó là hình ảnh người con trai ngậm ngải tìm trầm giữa rừng thiêng nước độc của bát ngát non ngàn.
Giữa đoạn đường tìm kiếm đó, con người chợt mê chợt ngộ, chợt tỉnh chợt say, chợt mừng chợt tủi, chợt mù chợt sáng. Càng mê càng băn khoăn, trăn trở, thao thức… Càng (tiểu) ngộ càng chập chờn, khắc khoải, mất ngủ, nghi hoặc, lạc lỏng, bơ vơ.
Đông Thiên, Tây Trúc và miền Đất Hứa… càng đi càng lạc, càng đến gần càng xa lạ. Đứng sát cạnh Linh Thứu vẫn thấy mình trôi giạt, lạc loài, quạnh hiu. Quỳ dưới chân núi thánh Si-Na-I chợt biết mình mất hướng, bồng bềnh, vong thân, vong lạc…
Đó chính là nỗi bi tráng, nhục nhằn, thống hận, lạc hướng, hoang mang, khắc khoải, bất lực, ngờ vực… của kiếp người, của từng kiếp người, của muôn thuở, của muôn nơi, của bất cứ không gian hoặc thời gian nào.
Cho nên, có lẽ, thái độ khôn ngoan duy nhất, mà con người có thể có, là nên khiêm nhường lựa chọn cho chính mình, qua khuôn thước mà cha ông đã vạch sẵn, đó là: Gần với Trời, hoà với Đất, vui với Đạo, yên với Đức, bằng lòng với Mệnh, chấp nhận lẽ An bài của cao xanh.
Như thế, cũng có nghĩa là: Không xa đời, không lánh người. Đối với đời và đối với người: Không oán, không ghét, không giận, không hờn… mà, chỉ thương, chỉ nhớ, nên vui, nên mừng… để tích hợp diệu nghĩa, để biểu đạt lương duyên.
Từ đó, trong nỗi quạnh hiu tuyệt đối… con người nhận chân Đấng TẠO HOÁ, để điềm nhiên cười cợt với cô đơn hiện hữu, ve vuốt khổ đau thường hằng, mơn trớn những bất hạnh chung quanh, chiêm nghiệm lẽ vô thường, kết thân với nỗi chết rình rập quẩn quanh. Tức là, biết uyển chuyển hoà hợp với tâm linh vũ trụ.
Từ đó, cùng với đức khiêm hạ cần thiết, lấy thiên nhiên làm Thầy, lấy sương khói làm Bạn, lấy trăng nước làm vui, lấy lá hoa cây cỏ làm sản nghiệp, lấy bốn mùa làm của riêng tây, lấy sắc không vô thường làm thi nghiệp, lấy Niềm Tin Tôn Giáo làm Thần Hứng, lấy huyền vi làm nhã hứng sáng tạo.
Từ đó, con người biết thực là thực, biết hư là hư, biết hư là thực, biết thực là hư; biết có là có, biết không là không, biết có là không, biết không là có; biết còn là còn, biết mất là mất, biết còn là mất, biết mất là còn; biết tụ là tụ, biết tán là tán, biết tụ là tán, biết tán là tụ; biết hợp là hợp, biết tan là tan, biết hợp là tan, biết tan là hợp…
Bởi cuộc sống biến dịch vô thường, từng giây từng phút. Do Đức Hiếu Sinh của Tạo Hoá mà cuộc sống sinh hoại dị diệt từng sát na, từng niệm… Cho nên, cây lá phải rã mục cho hạt giống nẩy mầm. Con người muốn thăng hoa cũng phải tự mình vác Thập Giá đi lên đỉnh Golgotha, phải bước qua sa mạc để đến Đất Hứa, phải chết đi để được phục sinh.
Rồi từ đó, từ hiểu biết và lựa chọn trên, dẫn đưa con người đến tỉnh thức. Với tinh thần thức tỉnh, con người sẽ vừa rong chơi vừa ca hát nghêu ngao… để an nhiên thư thái đi hết chặng đường Thập Giá nghiêu khê như một cái Nghiệp phải trả trong kiếp nhân sinh hữu hạn mà bước vào thế giới vô hạn mai sau.
Viết tại Phù Hư am,
Vùng Bắc Vịnh, mùa Đông năm 2000
phù hư dật sĩ võ thạnh văn bái bút.