VÕ THẠNH VĂN


Đoạn Trường Hư Thanh

“Tân Thanh
hoà quyện Cựu Thanh
 
“Vô Thanh một thuở
Hư Thanh nghìn đời
(phds/vtv)


Khúc [431]
 
MỘT ĐÊM MỘNG TRIỆU
VÂN MƠ THẤY KIỀU

 
“Thuý Vân nằm
bỗng chiêm bao thấy nàng”
(ND)
 
Buồng khuê gió ghẹo song đào
Mơ màng. Thức tỉnh. Chiêm bao. Rụng rời
 
Bờ sông. Bến nước. Chân trời
Dáng Kiều (ẩn hiện mắt ngời) triêu vân
 
Hồn lan (phách quế) lâng lâng
Sen vàng động gót. Tường vân gieo hài
 
Chập chờn. (Mộng mị). Liêu trai
Tưởng người (tiên đảo bồng lai) hiện về
 
Mắt môi (trăng lạnh) thê thê
Mười lăm năm (chén rượu) thề còn hương
  
Khúc [432]
 
HUYỆN QUAN KIM TRỌNG
ĐĂNG ĐƯỜNG HỎI TRA

 
“Họ Đô
có kẻ lại già thưa lên”
(ND)
 
Sáng ra Huyện Lệnh đăng đường
Hỏi tra (nha lại hiện trường) thật hư
 
Ngoài sân quỳ dưới bụi mưa
Lại già có kẻ trình thưa rõ ràng
 
Lửa Phúc Kiến. Khói Tích Giang
Một thời (bão dậy sấm vang) trong ngoài
 
Rằng nghe (có chuyện) động trời
Anh khôi Từ Hải. Hương ngời Kiều Nương
 
Một ngôi mệnh phụ đường đường
Một trang tuấn kiệt. Mười phương sấm tràn
 
Khúc [433]
 
HỌ ĐÔ NHÂN CHỨNG
VỀ TÔNG TÍCH KIỀU

 
“Tôi đà biết mặt,
biết tên rành rành”
(ND)
 
Rằng: Xưa có Vương Mỹ nhân
Kết duyên Từ Hải, tướng quân phi thường
 
Loạn ly. Binh lửa. Ngoan cường
Trầm mình. (Dưới đáy Tiền Đường). Trôi sông
 
Từ, người (đất Việt) Quảng Đông
Hải hồ xẻ đất. Tang bồng cử binh
 
Kiều Nương (kỳ nữ) Bắc Kinh
Chuộc cha (vì hiếu bán mình) lầu xanh
 
Gặp Từ (chí lớn) dọc ngang
Ngày bàn mưu kế. Tối nâng rượu trà
 
Khúc [434]
 
KIM TOAN TREO ẤN
ĐI TÌM NGƯỜI THƯƠNG

 
“Vào sinh, ra tử
hoạ là thấy nhau”
(ND)
 
Trên vì nước. Dưới vì nhà
Trước là nghĩa cả. Sau là tình riêng
 
Muốn treo (đai ấn) phục viên
Tìm nhau (cùng khắp non thiêng) núi trầm
 
Sông, hồ, cồn, bãi, vụng, đầm
Sao cho (gặp được một lần) sánh đôi
 
Tóc tơ (dù có) đền bồi
Muôn chung nghìn tứ dù vơi dù đầy
 
Dù năm. Dù tháng. Dù ngày
Mây trôi. Gió giật. Sóng vầy. Mưa sa
 
Khúc [435]
 
KIM TRỌNG CẢI NHẬM
TRI HUYỆN NAM BÌNH

 
“Khâm ban sắc chỉ
đến nơi rành rành”
(ND)
 
Duyên kim cải. Phận sai nha
Cương thường. (Trăm mối gần xa). Bộn bề
 
Vì dân. Vì nước. Vì quê
Vỗ yên trăm họ không nề gươm đao
 
Giã từ (phố chợ) xôn xao
Dân bày hương án vái chào tiễn chân
 
Đức phụ mẫu. Hạnh đường quan
Thanh liêm. Chính trực. Thư nhàn. Khiêm cung
 
Nam Bình. (Trấn nhậm). Biền bưng
Ngựa xe (thê tử băng rừng) vó câu
 
Khúc [436]
 
VƯƠNG QUAN CẢI NHẬM
TRI HUYỆN PHÚ DƯƠNG

 
“Chàng Vương
cũng cải nhậm thành Phú Dương”
(ND)
 
Huyện đường lệnh bãi trống chầu
Một đoàn gia, tộc, tớ, hầu, sai, nha
 
Phú Dương cải nhậm miền xa
Xe hồng. Ngựa trắng. Kiệu hoa. Lọng vàng
 
Cơ duyên đưa lối dẫn đàng
Phú Dương. (Thuộc đạo Tiền Đường). Triết Giang
 
Ngờ đâu manh mối rõ dần
Biết đâu (thiên, địa, quỷ, thần) hiển linh
 
Cơ duyên (may mắn) thình lình
Đêm (tình) mộng mị. Ngày (tình) chiêm bao
  
Khúc [437]
 
PHÚ DƯƠNG (TRIẾT GIANG)
GẦN SÔNG TIỀN ĐƯỜNG

 
“Tiện đường cùng lại
hỏi nàng xưa sau”
(ND)
 
Tiếng ai xé lụa mày chau
Nghe hơi (gió thoảng nước cau) mặt buồn
 
Tình đầu khe. Nghĩa cuối truông
Ngóng (mong) mười bến. Nhớ (thương) một dòng
 
Tình lênh đênh. Nghĩa long đong
Đầu ghềnh. Cuối bãi. Nước ròng. Nước lên
 
Sông mênh mông. Nước mông mênh
Triết Giang (Phúc Kiến). Tiền Đường (Phú Dương)
 
Nghe mà thương. Nghĩ mà thương
Sông sâu. Nước biếc. Triều cương. Sóng dào
  
Khúc [438]
 
KHƠI DẦN MANH MỐI
KHOANH VÙNG HÀNG CHÂU

 
“Thật tin hỏi được
tóc tơ rành rành”
(ND)
 
Dòng Mịch La. Khúc Ly Tao
Tiền Đường. (Thần Sóng thét gào). Gió đưa
 
Nhớ người mắt đẫm lệ mưa
Khóc người mệnh yểu hương vừa đào xuân
 
Là đây (sông nước) chập chùng
Nghìn thu. (Thuỷ mộ trầm hùng). Mỹ nhân
 
Trời cao (vòi vọi) chín tầng
Man man sóng táp. Ngần ngần đá phơi
 
Thiên cơ. (Bí nhiệm). Đạo trời
Biển tình (lãng đãng, chợt vơi) chợt đầy
 
Khúc [439]
 
VƯƠNG QUAN, KIM TRỌNG
LẬP ĐÀN GIẢI OAN

 
“Ngọn triều
non bạc trùng trùng”
(ND)
 
Tưởng hồn (linh hiển) quanh đây
Tin người. (Phận mỏng. Phúc dày). Cõi âm
 
Lập đàn (giải nạn) bên sông
Hương bay. Gió tạt. Trầm xông. Sóng gào
 
Thương hoa lạc. Xót mật trào
Máu dồn. Tim quặn. Ruột bào. Gan trơ
 
Kêu tên. Gọi mộng. Đốt thơ
Vẽ hình. Tạc ảnh. Chọn giờ. Tế linh
 
“Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh”
Nhang trầm (khói) toả. Hương bình (khói) chao
 
Khúc [440]
 
MƠ MÀNG KIM TƯỞNG
BÓNG HÌNH NGƯỜI XƯA

 
“Vời trông
còn tưởng cánh hồng lúc gieo”
(ND)
 
Khói (đông) lạnh. Nước (dâng) cao
Ầm ầm sóng vỗ. Ào ào triều lên
 
Mịt mù. (Mây cuộn). Sấm rền
Bóng người (ẩn, hiện, chao, chênh) bèo dời
 
Để tang (tình cũ) mây trời
Khóc duyên (tình cũ nước nhồi) vực sông
 
Thương người (tài nữ) mạng vong
[Phận người. (Bèo. Bọt. Rêu. Rong). Kiếp dài]
 
Môi son. Má phấn. Mày ngài
Dáng tha thước (hạnh). Vóc gầy rạc (giao)
 
Khúc [441]
 
TÌNH CỜ GẶP GỠ
SƯ BÀ GIÁC DUYÊN

 
“Giác Duyên
đâu bỗng tìm vào đến nơi”
(ND)
 
Nỗi niềm (ruột thắt) gan bào
Mệnh người. (Đáy lạnh sóng chao). Phận mình
 
Giác Duyên chợt tới thình lình
Rành rành. (Cớ sự phân minh). Giải bàn
 
Mười lăm năm, quá ngỡ ngàng
Mười lăm năm, lắm bẽ bàng tình xưa
 
Mười lăm năm, tưởng sống thừa
Đoá hoa năm cũ vẫn vừa vẹn hương
 
Nỗi nàng (trăm nhớ) ngàn thương
Lòng chàng (chín hướng mười phương) bàng hoàng
  
Khúc [442]
 
GIÁC DUYÊN HÉ LỘ
TUNG TÍCH THUÝ KIỀU

 
“Người còn,
sao bỗng làm ma khóc người”
(ND)
 
Gặp nhau chưa hết ngỡ ngàng
Chợt nghe (nhạn lạc kêu đàn) bãi sông
 
Mây vương. Gió cuộn. Sương bồng
Tưởng người (thần mộng nhập hồn) báo tin
 
Thấy Sư (nguyên bóng) nguyên hình
Nón gồi dép cỏ dáng in chân trời
 
Nhắc đi (lặp lại) một lời
Rằng người (còn sống sờ sờ) ni am
 
Lều tranh. Mái lá. Rèm nan
Thuỷ Vân (lau lách lấn tràn) thiền môn
 
Khúc [443]
 
GIÁC DUYÊN CHO BIẾT
KIỀU NHỚ NGƯỜI THÂN

 
“Đăm đăm
nàng cũng nhớ nhà khôn khuây”
(ND)
 
Đông mai tuyết rụng sườn non
Chiều buông (hoa lạc bãi cồn) trôi xuôi
 
Ngẫm thân (phiêu bạt) bùi ngùi
Mây Tần dằng dặc. Mõ dùi khôn khuây
 
Tin nhà (biền biệt) khói mây
Thương cha. Nhớ mẹ. Mong ngày. Ngóng đêm
 
Mong Vân hạnh phúc trăng rằm
Duyên tơ. (Chắp nối phận tằm). Thiên cơ
 
Xót Quan (đèn sách) canh giờ
Tên treo nhành quế, hoạn đồ hanh thông
 
Khúc [444]
 
NGHE TIN SẤM NỔ
MỪNG VUI KHÔN CÙNG

 
“Nghe tin
ngơ ngác, rụng rời”
(ND)
 
Ven đê (ngỡ lạc) non bồng
Nghe tin (tưởng sóng biển cồn) vọng ngân
 
Lòng mừng thầm. Dạ nhủ thầm
Thiên cơ. (Phép lạ cõi âm). Nhiệm huyền
 
Khóc tình. Khóc nghĩa. Khóc duyên
(Khóc chung thân phận. Khóc riêng mạch đời)
 
Bấy lâu (lưu lạc) phương trời
Bão vùi mệnh số. Rã bời tài hoa
 
Những đêm (lầu nguyệt) trăng tà
Khóc người. Mắt đẫm giọt sa. Lệ tình
 
Khúc [445]
 
CÒN NHIỀU NGHI HOẶC
TRONG CƠN VUI MỪNG

 
“Tình thâm
luống những hồ nghi nửa phần”
(ND)
 
Người về từ cõi tử sinh
Váy xiêm đẫm nguyệt. Bóng hình vướng mây
 
Tin đầu từ thuở uyên bay
Rằng tiên? Rằng tục? Rằng say? Rằng vờ
 
Trong thiên cơ, có huyền cơ
Càn khôn. (Khép. Mở. Diệu. Vời). Chiêm bao
 
Nước vẫn trôi. Sóng vẫn gào
Tuyết run đầu núi. Sương chao lưng đèo
 
Biết đâu (mặt nước) chân bèo
Biết đâu (đá nát vàng gieo) mối ngờ
 
Khúc [446]
 
MƠ HAY LÀ MỘNG
THỰC HAY LÀ HƯ

 
“Cõi trần
mà lại thấy người cửu nguyên”
(ND)
 
Rằng hư? Rằng ảo? Rằng mơ?
Chiêm bao. (Nửa giấc mộng ngờ). Chiêm bao
 
Cửu nguyên còn thấy yếm đào
Cõi trần ẩn hiện hanh hao váy hồng
 
Tóc xưa thề kết giải đồng
Trói duyên (buộc nợ sắc không) tơ trời
 
Rằng chén cạn. Rằng chén vơi
Rằng duyên tan hợp. Rằng đời đẩy đưa
 
Người về (đã thực) về chưa
Mù sương đỉnh tuyết. Mù mưa vực ngàn
 
Khúc [447]
 
MỘT ĐOÀN MỪNG, TỦI
THEO VỀ THẢO LƯ

 
“Quanh co
theo dãy giang tân”
(ND)
 
Ngoài sân chật ních một đoàn
Nói. Cười. Mừng. Tủi. Khuyên. Can. Chào. Mời
 
Mười lăm năm, quả như lời
Đạo Cô Tam Hợp: Cơ trời, phận hoa
 
Tơ bừng. Ngõ ý. Niêm hoa
Khúc đàn bạc mệnh chan hoà cỏ cây
 
Năm xưa. Người ấy. Chốn nầy
Đoạn trường. (Chết lịm. Phô bày). Tân thanh
 
Lập xuân (hoa lá) rờn xanh
Qua cơn hạn hán mưa lành trời cao
  
Khúc [448]
 
SƯ NƯƠNG GỌI KIỀU
RA CHÀO MỌI NGƯỜI

 
“Buồng trong
vội dạo sen vàng bước ra”
(ND)
 
Đang cơn (xúc cảm) dâng trào
Nửa dè dặt (tưởng). Nửa dào dạt (tin)
 
Một căn lều cỏ giang đình
Chân trời xanh thẫm. Bờ kinh sương nhoà
 
Đợi dáng người, từng sát na
Phong trần bụi lấm chưa nhoà sắc gương
 
Trong vô thường, có chân thường
Rừng thiêng. (Mong. Ngóng. Nhớ. Thương). Biển cồn
 
Tình phương viên. Nghĩa vuông tròn
Nửa đời (tương) hợp. Đôi lòng (tương) giao
  
Khúc [449]
 
THUÝ KIỀU SỬNG SỐT
TƯỞNG MÌNH NẰM MƠ

 
“Rõ ràng mở mắt
còn ngờ chiêm bao”
(ND)
 
(Trong hanh hao, có hanh hao)
Trong chiêm bao, có chiêm bao trùng trùng
 
(Mừng. Vui. Run. Sợ. Ngại. Ngùng)
Trong bình thường, có dị thường huyền cơ
 
Buồng trong (thấp thoáng) bóng mờ
Dáng văn nhã điệu. Dáng thơ nhã kỳ
 
Rằng tan hợp. Rằng chia ly
Nửa tin. Nửa tưởng. Nửa nghi. Nửa ngờ
 
Rằng chưa ngủ, sao nằm mơ
Sao người cõi mộng lại phờ phỉnh nhau
  
Khúc [450]
 
BAO NĂM KHẤN NGUYỆN
PHÚT GIÂY TƯƠNG PHÙNG

 
 “Trông xem
đủ mặt một nhà”
(ND)
 
Nầy song thân, tóc ngã màu
Nầy chàng Kim, dáng dãi dầu phong sương
 
Nầy Thuý Vân, vẫn nồng hương
Nầy Vương Quan, với Chung Nương dâu hiền
 
Đây tình. Đây nợ. Đây duyên
Mười lăm năm (đẫm lệ) huyền hoặc rơi
 
Bao phen khấn nguyện ơn trời
Bây giờ đối mặt ngời ngời cơ may
 
Một giây. Một phút. Một ngày
Một đi. Một bước. Một chầy. Một xa
  
Khúc [451]
 
MỪNG VUI THỊNH ĐỨC
MỘT NHÀ HỌ VƯƠNG

 
“Kiếp nầy
ai lại còn cầm gặp đây”
(ND)
 
Đã đành (gió rắc) phong ba
Ai ngờ (nước chảy trôi hoa) giạt bèo
 
Đã đành âm đức còn neo
Ai ngờ hồng phúc còn theo trở về
 
Nỗi tình. Nỗi nghĩa. Nỗi quê
Ơn cha. Ơn Mẹ. Ơn em. Ơn chàng
 
Đức nầy. (Lộc ấy). Ân ban
Từng ngày. (Gieo đức. Cấy nhân). Từng ngày
 
Luật trời (báo ứng) trả vay
Đạo cao. Đức trọng. Phước dày. Lộc sâu
 
Khúc [452]
 
KỂ LỂ LƯU LẠC
NGẤT TRỜI XÓT ĐAU

 
“Nửa đời
nếm đủ mọi mùi đắng cay”
(ND)
 
Một nhà kể nỗi trước sau
Nhớ thương. Mong ngóng. Lo sầu. Buồn tênh
 
Mười lăm năm, trải thác ghềnh
Ong qua. Bướm lại. Hương lền. Nhụy trây
 
Mười lăm năm, kiếp lưu đày
Trôi sông. Lạc chợ. Vơi đầy. Giạt xô
 
Gương trong (nước thuỷ) chưa mờ
Hoa (mơ) đương độ. Trăng (mơ) đương viền
 
Môi xinh nhấp chén trà thiền
Vai nghiêng. (Tóc suối tơ huyền). Mông lung
 
Khúc [453]
 
LÒNG KIM QUẶN XÓT
CHẤT CHỒNG NHỚ THƯƠNG

 
“Lời tan hợp,
chuyện xa gần thiếu đâu”
(ND)
 
Mười lăm năm, vắt cạn lòng
[Tìm nhau. (Mười mối, trăm dòng). Hồ sông]
 
Mười lăm năm, ngóng vân mồng
Xanh xao môi má. Rã ròng tâm can
 
Mười lăm năm, tím ruột gan
Ngày ngày (tơ tưởng dung nhan) buổi đầu
 
Đêm đêm (hồng lệ) ngần châu
Huyện đường (chờ trống tan chầu) quyện sương
 
Nói sao (cho hết) nhớ thương
Kể sao cho hết đoạn trường kinh qua
  
Khúc [454]
 
VÂN, QUAN KHẤP KHỞI
MỪNG DUYÊN TƯƠNG PHÙNG

 
“Hai em
hỏi trước han sau”
(ND)
 
Nhớ ngày (đọc sách) hái hoa
Thơ gieo vườn Thuý. Nhạc hoà lầu Vương
 
Rồi ra (biền biệt) miên trường
Phút nầy tương kiến ngát hương diễm hồng
 
Bao nhiêu đợi. Bấy nhiêu trông
Bao (thương) nhớ bóng. Bấy (mong) chờ người
 
Đoàn viên (ngọc vỡ) tiếng cười
Hương thơm (chợt) rộ. Hoa tươi (chợt) bừng
 
Trăm năm (hạnh ngộ) duyên mừng
Nghìn năm (vàng đá tưởng chừng) phôi khai
  
Khúc [455]
 
NỬA ĐỜI TRÔI GIẠT
DUNG NHAN BUỔI CHIỀU

 
“Mười phần xuân,
có gầy ba bốn phần”
(ND)
 
Khoé uyên. Mắt phượng. Mày ngài
Bao năm (dầu dãi chưa phai) sắc nồng
 
Váy vải sợi. Yếm nâu sồng
Chân, tay, vai, ngực = huệ, hồng, đào, sen
 
Vẫn thơm phấn. Vẫn ngát men
Nguyệt thề chí dị. Trăng vầng liêu trai
 
Nhớ xưa (nghiêng suối) tóc dài
Còn nguyên. (Vóc hạc mình mai). Liễu gầy
 
Sương còn quyện. Phùn vẫn rây
Mắt, môi tuyết (đọng). Mi, mày băng (ngâm)
 
Khúc [456]
 
TẠ ƠN CỨU TỬ
LẠY SƯ GIÁC DUYÊN

 
 “Cùng nhau
lạy tạ Giác Duyên”
(ND)
 
Một nhà (quỳ trước) thiền am
Gió mùa thổi lộng. Mây lam cuộn quầng
 
Tạ ơn (cứu tử) chín tầng
Khói trầm. (Thơm ngát giang tân). Ráng chiều
 
Ân bao nhiêu. Nghĩa bấy nhiêu
Viền trăng (vành vạnh nguyên tiêu) trong ngần
 
Từ Chiêu Ẩn, đến Thuỷ Vân
Lỡ cơ tá túc. Lỡ đàng cậy nương
 
Cùng mâm. Cùng chiếu. Cùng giường
Tụng kinh. Ngâm kệ. Thỉnh chuông. Thưởng trà
 
Khúc [457]
 
CẢ NHÀ MỪNG TỦI
MUỐN ĐÓN KIỀU VỀ

 
“Vương Ông dạy rước
cùng về một nơi”
(ND)
 
Sao đành (dứt ruột) chia xa
Tưởng như nghìn kiếp phôi pha máu đào
 
Lời lời. (Bất tuyệt). Thao thao
Mừng vui. Tủi hận. Mời chào. Rước đưa
 
Chiều nghiêng. Mây nặng. Trầm mưa
Giục người (lên kiệu tránh vừa) cơn giông
 
Vân Thủy Am giữa trời không
Bờ đê. Mặt nước. Mây hồng. Am tranh
 
Bước ra Kiều chợt tần ngần
Thương mây. Tiếc gió. Tủi sông. Luyến Thầy
  
Khúc [458]
 
CỎ CÂY SÔNG NƯỚC
QUEN MÀU ÁO LAM

 
“Đã tu, tu trót,
qua thì, thì thôi”
(ND)
 
Muối nào mặn. Gừng nào cay
Áo sồng. Dưa cải. Cơm chay. Am thiền
 
Trải lòng (hoà với) thiên nhiên
Trang kinh sóng vỗ. Giang biên mây quầng
 
Thiền hành (mép cỏ) bờ tranh
Mù giăng lối thấp. Sương hoành lũng sâu
 
Nghĩ người khuya sớm công phu
Nghĩ mình (duyên vụng đường tu) từ ngày
 
Kiều Nương (quyết chí) theo thầy
Vui cùng (nội cỏ ngàn cây) giang hà
  
Khúc [459]
 
KIỀU NƯƠNG NẠI CỚ
KHÔNG NỠ XA THẦY

 
“Lòng nào
nỡ dứt nghĩa người ra đi”
(ND)
 
Ơn Thầy ai nỡ lìa xa
Am tranh ai chịu bước ra phố phường
 
Cỏ. Cây. Hoa. Lá. Sân. Vườn
Câu thơ nước gợn. Thiền đường mây đưa
 
Kinh chiều. Mõ sớm. Chuông trưa
Canh rau (chay) tịnh. Muối dưa (chay) lòng
 
Tiền Đường (gột rửa) long đong
Sóng xua phiền não. Nắng hong bụi trần
 
Ơn cứu tử. Nghĩa trùng sanh
Nỡ nào (phút chốc đoạn đành) dứt ngang
 
Khúc [460]
 
VƯƠNG ÔNG QUYẾT ĐỊNH
RƯỚC KIỀU RA ĐI

 
“Giã sư, giã cảnh
đều cùng bước ra”
(ND)
 
Ông bà, Kim Trọng, Vân, Quan
Thiết tha mời gọi. Ân cần đón đưa
 
Bao năm (xa cách) đã vừa
Gieo thêm ly biệt thêm thừa cách xa
 
Xênh xang về lại quan nha
Kiệu vàng. Lọng bạc. Rèm hoa. Trướng đào
 
Ngọc đường. Kim mã. Quyền hào
Quà dâng nghĩa rộng. Lời trao tình dày
 
Bến sông. Mặt nước. Cỏ cây
Mỗi xa. Mỗi bước. Mỗi đau. Mỗi mừng
 

 
  Trở lại chuyên mục của : Võ Thạnh Văn