MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Xuân Rừng Thiền
Rừng thiền diện mục thị thường thôi!
Đông khứ, xuân lai, vận tự hồi!
Hang đá, đùn len làn khói núi
Triền non, vun thả đám mây trời
Nắng mưa biến đổi theo mùa tiết
Vui khổ vần xoay đúng nghiệp thời
Hoa nẩy nụ mầm, ươm biếc thắm
Cây vươn cành nhánh, hiến xanh tươi
Bài thơ thuận pháp bày câu chữ
Nét bút duyên tâm mở ý lời
Trí giả, hiền nhân trăm dặm lữ
Hoát nhiên tao ngộ cố hương rồi!
Xuân Tự Trào
Đã tuổi bảy mươi, cộng một hai
Cửa kho cạn vốn, chốt tiêu xài
Óc cùn, tìm chữ đều “qua đát!”
Túi rỗng, mò kim thảy “bái bai!”
Mắt mỏi, chán nhìn, đâu loạn sắc
Chân run, mệt bước, chẳng lầm gai
Biếng lười lui tới, xa hung hiểm
Nhác nhớm nói năng, đỡ hoạ tai
Gậy chống, thẳng lưng, không luỵ gối
Kiếng đeo, rõ bụi, chẳng nhờ ai
Thoáng nghe bóng ngựa rời non vắng
Nhẫm tính trăm năm chẳng ngắn dài!
Xuân Tự Gẫm
Mỗi Tết, mỗi Xuân - Phật tự lòng
Thế nên trăm việc thả ngàn đông
Một bầu trăng gió, màu quê quán
Ba cõi trời mây, sắc lữ bồng
Thế sự, triền non, làn khói nhẹ
Nhân tình, đầu lá, giọt sương trong
Liễu thiền, chẳng bận trò hư, thực
Ngộ đạo, đâu màng chuyện có, không
Duyên tụ, duyên tan đùa đốm mắt
Pháp sinh, pháp diệt cợt trăng sông
Thương ai cuộc mộng còn mê mải
Kẻ nổi, người trôi - bọt giữa dòng!
Xuân Cát Tường
Am không, tiết ấm phún đàn hương
Cây lá xôn xao phụng cúng dường
Vẫy nét thiền thi gom tịnh thuỷ
Mở trang bối diệp ngắm trùng dương
Cảm ai mắt đục, xua mây bụi
Xót kẻ dặm mờ, vẹt khói sương
Xấu ác bẻ mầm, tiêu ghét hận
Tốt lành ươm hạt, nẩy yêu thương
Thênh thang gót tuệ, chơi cao ngạn
Phơi phới hoa tâm, dệt thiện đường
Đời đạo cân phân, vui nhật nguyệt
Người hiền, trang mới, cát tường chương!
Mai Trúc Am – Xuân 2015
Xuân Ẩn Cư
Xuân chẳng thưởng đào, chẳng ngắm mai,
Ẩn cư hang núi, chốt sương cài
Cảm thương nghiệp nước, mây đùn khói
Đau xót tình người, đá sởn gai
Phước mỏng, đâu kham đời dịch họa
Thân gầy, nào chịu cảnh thiên tai?
Tiếc tâm, không đủ nhân lành tốt!?
Tủi đức, chưa dung chuyện xấu sai!?
Cửa hẹp, vắng tênh, trăng ngủ mệt
Phòng đơn, lạnh lẽo, dế rên dài
Dòng văn, ngơ ngác, trơ hoa đốm!
Câu chữ, thẹn thùng, mọt nghiến tai!
Điên đảo nhân sinh, điên đảo mãi
Ngã nghiêng thế đạo, ngã nghiêng hoài
Bi từ đức Phật, nguồn vô lượng
Nhen lửa trái tim. ấm một vài.
Xuân Tức Cảnh
Xuân của đất trời, xuân của ai?
Mà nơi non lạnh, liếp thưa cài
Mù mây lững thững chơi đồi vắng
Sương khói lơ thơ dạo lũng dài
Nắng mới nể tình hong ấm tóc
Gió lành vị nghĩa thổi vui tai
Đá nằm vườn cỏ, công bao độ
Hoa nở hiên lan, đức mấy vài
Thơ vụng mượn vần, đùa trúc biếc
Bút cùn khoe chữ, cợt đào phai
Lộc non phơi phới, rừng thay áo
Đón khí thanh dương, mở cửa sài!
Xuân Tự Sự
Gẫm chuyện năm qua, Phật mỉm cười
Làm nhiều, nghỉ khỏe, lãng du chơi
Dựng xây chùa cảnh, duyên lo vốn
Sáng tác thơ văn, chữ kiếm lời
Việc được, việc chưa, nghe pháp nói
Điều hay, điều dỡ, ngắm hoa rơi
Bụi mê, bỏ quét, xoa rồi phủi!
Thuyền giác, buông chèo, chống lại bơi!
Lòng rỗng, phiền ưu không khoái chỗ
Óc nhàn, tham giận chẳng thèm nơi
Đã về, đã tới quê hương cũ
Then khóa tử sinh, lỏng chốt rồi!
Xuân Trí Tuệ
Giác tính muôn xưa vẫn tịch thường
Xuống trần, quang rạng một vầng dương
Soi lòng khô mục, bung hoa lộc
Chiếu óc trơ lì, biết hiểu thương
Tăm tối nghe kinh, trăng dọi bóng
U mê học pháp, nước mài gương
Mắt mù, mò mẫm tìm chân thực
Thân tật, lần dò gặp cố hương
Sanh, già - vỡ đất, trồng cây trái
Bệnh, chết - lấp mồ, cấy ruộng nương
Phản chiếu, hồi đầu, nguyên diện mục
Thế gian như thị, Tuệ-Con-Đường!
Xuân Từ Bi
Xuân Phật, thương ai khổ, đói, nghèo
Lại thêm đạo lý tóp rồi teo!
Trông lên, bao kẻ xơi vàng lá
Nhìn xuống, lắm người xực cám heo
Túng quẩn, giết bừa, tù khóa buộc
Đói cuồng, cướp cạn, tội cùm đeo
Cánh đồng tình nghĩa, cây khô nỏ
Sa mạc nhân luân, lửa cháy xèo
Xấu ác quen nề, không biết thẹn
Tốt lành tủi phận, phải nằm queo
Cao hiền, trí giả, tâm vô lượng
Thuyền nhỏ, từ bi, vẫn ráng chèo!
Xuân Rừng Thiền
Rừng thiền diện mục thị thường thôi!
Đông khứ, xuân lai, vận tự hồi!
Hang đá, đùn len làn khói núi
Triền non, vun thả đám mây trời
Nắng mưa biến đổi theo mùa tiết
Vui khổ vần xoay đúng nghiệp thời
Hoa nẩy nụ mầm, ươm biếc thắm
Cây vươn cành nhánh, hiến xanh tươi
Bài thơ thuận pháp bày câu chữ
Nét bút duyên tâm mở ý lời
Trí giả, hiền nhân trăm dặm lữ
Hoát nhiên tao ngộ cố hương rồi!
Xuân Tự Trào
Đã tuổi bảy mươi, cộng một hai
Cửa kho cạn vốn, chốt tiêu xài
Óc cùn, tìm chữ đều “qua đát!”
Túi rỗng, mò kim thảy “bái bai!”
Mắt mỏi, chán nhìn, đâu loạn sắc
Chân run, mệt bước, chẳng lầm gai
Biếng lười lui tới, xa hung hiểm
Nhác nhớm nói năng, đỡ hoạ tai
Gậy chống, thẳng lưng, không luỵ gối
Kiếng đeo, rõ bụi, chẳng nhờ ai
Thoáng nghe bóng ngựa rời non vắng
Nhẫm tính trăm năm chẳng ngắn dài!
Xuân Tự Gẫm
Mỗi Tết, mỗi Xuân - Phật tự lòng
Thế nên trăm việc thả ngàn đông
Một bầu trăng gió, màu quê quán
Ba cõi trời mây, sắc lữ bồng
Thế sự, triền non, làn khói nhẹ
Nhân tình, đầu lá, giọt sương trong
Liễu thiền, chẳng bận trò hư, thực
Ngộ đạo, đâu màng chuyện có, không
Duyên tụ, duyên tan đùa đốm mắt
Pháp sinh, pháp diệt cợt trăng sông
Thương ai cuộc mộng còn mê mải
Kẻ nổi, người trôi - bọt giữa dòng!
Xuân Cát Tường
Am không, tiết ấm phún đàn hương
Cây lá xôn xao phụng cúng dường
Vẫy nét thiền thi gom tịnh thuỷ
Mở trang bối diệp ngắm trùng dương
Cảm ai mắt đục, xua mây bụi
Xót kẻ dặm mờ, vẹt khói sương
Xấu ác bẻ mầm, tiêu ghét hận
Tốt lành ươm hạt, nẩy yêu thương
Thênh thang gót tuệ, chơi cao ngạn
Phơi phới hoa tâm, dệt thiện đường
Đời đạo cân phân, vui nhật nguyệt
Người hiền, trang mới, cát tường chương!
Mai Trúc Am – Xuân 2015
Xuân Ẩn Cư
Xuân chẳng thưởng đào, chẳng ngắm mai,
Ẩn cư hang núi, chốt sương cài
Cảm thương nghiệp nước, mây đùn khói
Đau xót tình người, đá sởn gai
Phước mỏng, đâu kham đời dịch họa
Thân gầy, nào chịu cảnh thiên tai?
Tiếc tâm, không đủ nhân lành tốt!?
Tủi đức, chưa dung chuyện xấu sai!?
Cửa hẹp, vắng tênh, trăng ngủ mệt
Phòng đơn, lạnh lẽo, dế rên dài
Dòng văn, ngơ ngác, trơ hoa đốm!
Câu chữ, thẹn thùng, mọt nghiến tai!
Điên đảo nhân sinh, điên đảo mãi
Ngã nghiêng thế đạo, ngã nghiêng hoài
Bi từ đức Phật, nguồn vô lượng
Nhen lửa trái tim. ấm một vài.
Xuân Tức Cảnh
Xuân của đất trời, xuân của ai?
Mà nơi non lạnh, liếp thưa cài
Mù mây lững thững chơi đồi vắng
Sương khói lơ thơ dạo lũng dài
Nắng mới nể tình hong ấm tóc
Gió lành vị nghĩa thổi vui tai
Đá nằm vườn cỏ, công bao độ
Hoa nở hiên lan, đức mấy vài
Thơ vụng mượn vần, đùa trúc biếc
Bút cùn khoe chữ, cợt đào phai
Lộc non phơi phới, rừng thay áo
Đón khí thanh dương, mở cửa sài!
Xuân Tự Sự
Gẫm chuyện năm qua, Phật mỉm cười
Làm nhiều, nghỉ khỏe, lãng du chơi
Dựng xây chùa cảnh, duyên lo vốn
Sáng tác thơ văn, chữ kiếm lời
Việc được, việc chưa, nghe pháp nói
Điều hay, điều dỡ, ngắm hoa rơi
Bụi mê, bỏ quét, xoa rồi phủi!
Thuyền giác, buông chèo, chống lại bơi!
Lòng rỗng, phiền ưu không khoái chỗ
Óc nhàn, tham giận chẳng thèm nơi
Đã về, đã tới quê hương cũ
Then khóa tử sinh, lỏng chốt rồi!
Xuân Trí Tuệ
Giác tính muôn xưa vẫn tịch thường
Xuống trần, quang rạng một vầng dương
Soi lòng khô mục, bung hoa lộc
Chiếu óc trơ lì, biết hiểu thương
Tăm tối nghe kinh, trăng dọi bóng
U mê học pháp, nước mài gương
Mắt mù, mò mẫm tìm chân thực
Thân tật, lần dò gặp cố hương
Sanh, già - vỡ đất, trồng cây trái
Bệnh, chết - lấp mồ, cấy ruộng nương
Phản chiếu, hồi đầu, nguyên diện mục
Thế gian như thị, Tuệ-Con-Đường!
Xuân Từ Bi
Xuân Phật, thương ai khổ, đói, nghèo
Lại thêm đạo lý tóp rồi teo!
Trông lên, bao kẻ xơi vàng lá
Nhìn xuống, lắm người xực cám heo
Túng quẩn, giết bừa, tù khóa buộc
Đói cuồng, cướp cạn, tội cùm đeo
Cánh đồng tình nghĩa, cây khô nỏ
Sa mạc nhân luân, lửa cháy xèo
Xấu ác quen nề, không biết thẹn
Tốt lành tủi phận, phải nằm queo
Cao hiền, trí giả, tâm vô lượng
Thuyền nhỏ, từ bi, vẫn ráng chèo!