CHÂU THẠCH


Đọc “NHẤP SÓNG HOÀNG HÔN”

Thơ Ca Dao

 

Nhấp Sóng Hoàng Hôn
 

Chiều trổ nhánh hoàng hôn

bên thềm: nhớ!

Dấu tình xa vẽ tròn trịa môi cười

Ngày gom cả nồng nàn trên cánh nắng

Gửi theo chiều

chín ửng đóa tình khơi

Chiều nghiêng bóng gội đầu thơm chùm kết

Nghe bồi hồi khuôn ngực

tóc mây trôi

Gió lả lướt trên bờ vai ngà ngọc

Khỏa nụ hồng

hôn nhẹ bờ môi

Nghiêng tay rót cho mình

riêng chén đắng

Uống trôi chiều, sóng sánh giấc phù hư

Quanh co giữa khoảnh ngà

đời: Rộn? Vắng?

Xin gửi chiều một chút nỗi riêng tư!

Ca Dao

Lời bình:

Chỉ cần đọc cái đầu đề bài thơ đã cho ta một sự thú vị rồi: “Nhấp sóng hoàng hôn”. Ta hãy nghe một vài câu thơ có chữ “nhấp”:

“Khướt mềm cũng bởi nhấp cùng ai

Tri kỷ ngày đêm cạn chén hoài”

(Rượu cùng Em- Hải Rừng),

“Một sáng nhấp môi mấy tách trà

Hương thơm thoáng thoảng quyện bay xa”

(Trà- Trần Bảo Kim Thư).

Vậy thì “nhấp” là một động từ chỉ hành động uống từ tốn, thích thú một thứ nước ngon nào đó. Với trà và rượu mà nhấp là cử chỉ của đạo sĩ, của tiên, của những con người cốt cách phong lưu, thoát tục.

Nhà thơ Ca dao không nhấp rượu, nhấp trà mà nhấp “sóng hoàng hôn”. Đọc cái đầu đề bài thơ thôi, người nhạy cảm thì cảm nhận rõ ràng, người không nhạy cảm thì cảm nhận mơ hồ như có hương thơm, có mùi vị tức khắc liền ngay trong chữ “nhấp”.

Rồi thì “sóng hoàng hôn”cho ta hình ảnh gì? Hình ảnh bao la, bát ngát của sông và biển. Sóng của sông, của biển thì còn nặng nề hơn sóng hoàng hôn. Sóng hoàng hôn tưởng tượng ra chỉ là sự gợn nhẹ của ánh sáng chiều vàng, chiếu trên màng sương mỏng hay trên làn hơi mong manh của không khí.

Tác giả đặt chữ “nhấp” trước cụm từ “sóng hoàng hôn”đã đạt được ranh giới tận cùng trong sự kết hợp của từ ngữ, làm cho người đọc trong ý thức hay trong vô thức đều thưởng thức được thứ hương vị kỳ thú của tinh hoa chữ nghĩa mà nhà thơ đã dùng.

Thế nhưng câu thứ nhất của bài thơ lại càng độc đáo hơn nữa: “Chiều trổ nhánh hoàng hôn”. Đối với những tâm hồn dơn giản thì đây là một câu thơ không những nghịch lý mà còn vô lý nữa. Chiều là hoàng hôn rồi, vậy mà chiều còn “trổ nhánh hoàng hôn” là dư chữ.

Hoàng hôn bao la khắp cả bầu trời chớ đâu phải là một cụm nhỏ mà đem ví với một nhánh cây nào đó?. Thế nhưng nếu bình tâm mà chiêm nghiệm thì đây là một câu thơ mà tác giả đem cái tài quan sát của mình nắm bắt được cái “thần”của sự vật. Hình ảnh trong thơ tưởng như nghịch lý, vô lý nhưng nó lại là sự tương đồng, tương ứng giữa các sự vật.

Ta hãy đọc câu thơ thứ nhì:”Bên thềm: nhớ!”. Vậy thì chiều không còn bao la nữa, nó ở ngay bên thềm, nó có thể lung linh trên một nhánh cây nào đó lọt trong con mắt tác giả, hoặc nó cũng có thể cô đọng lại trước cái nhìn của người đang nhớ, đang lơ đãng quan sát bên ngoài. Chiều cũng đang ở trong không gian nhưng hoàng hôn đang ở trong lòng tác giả. Chiều và hoàng hôn là một nhưng đây là chiều của cảnh vật và hoàng hôn thì của tâm lý nhân vật.

Đây là một câu thơ có khuynh hướng siêu thực , bắt nguồn từ chủ nghĩa tượng trưng và phân tâm học. Tư duy của thơ không bị gò bó bởi lý trí hay logic thường tình, không phân biệt thực hay hư, mộng hay là thấy trước mắt. Câu thơ mang một bức tranh có sức sống mới, mang một ý nghĩa trọn vẹn diễn đạt một lúc không gian và nội tâm một cách tuyệt vời.

Và tiếp những câu thơ ở khổ một:

Dấu tình xa vẽ tròn trịa môi cười

Ngày gom cả nồng nàn trên cánh nắng

Gửi theo chiều

Chín ửng đóa tình khơi

Bốn câu thơ sau đều mang tính chất của câu thơ đầu. Mỗi câu thơ đều cho ta một bức tranh rất lạ, nó rất trừu tượng, nó làm cho người đọc nửa hiểu nửa không hiểu. Đến đây người viết nghĩ rằng không cần phải lý giải từng câu thơ nữa, bởi vì cái phong cách của thơ đã rõ nét, ai đọc cũng có một ý niệm mỹ thuật như ý niệm về trường phái siêu thực hội họa trước khi vào xem tranh của họa sĩ nào đó. Từ đây người viết chỉ xin đề cập đến nội dung hàm chứa trong thơ.

Bây giờ nhà thơ đang quay lại qúa khứ, nhớ về một cuộc tình mà kỷ niệm toàn là những điều tốt đẹp. Niềm vui ngày ấy của tác gỉả thăng hoa đến độ nắng trở thành cánh chim chở sự nồng nàn của tình bay trong trời chiều, Chiều lại trở thành một thứ trái cây chín mọng.

Đọc bốn câu thơ ta thấy có hai bức tranh động và hai bức tranh tĩnh vật. “Môi” và “đóa” là tranh tĩnh vật, “nắng” và “gửi theo chiều” là tranh động. Cả bốn bức tranh đều có màu tươi và tinh sạch. Tất cả tranh dầu tĩnh hay động đều nằm trong sự yên lặng, không có âm thanh. Đọc thơ ta cảm nhận được tất cả niềm vui như đã được thanh lọc. lắng trong cõi bình tịnh của tâm hồn.

Thơ là tiếng nói của tâm hồn, tâm hồn đang xao động thì thơ cũng xao động, tâm hồn bình tịnh trên con thuyền êm ái quay về dòng sông quá khứ thì thơ cũng nhẹ nhàng êm ái. Đọc thơ chính ta cũng thấy một niềm vui thanh thoát đang lan tỏa trong hồn.

Qua khổ thơ thứ hai:

Chiều nghiêng bóng gội dầu thơm chùm kết

Nghe bồi hồi khuôn ngực

tóc mây trôi

Gió lả lướt trên bờ vai ngà ngọc

Khỏa nụ hồng

hôn nhẹ bờ môi

Bây giờ người hóa hình vào chiều và chiều ẩn hết vào người. Người trở thành thắng cảnh và thắng cảnh trở nên một thiếu nữ nông thôn thơm phức mùi thơm đồng nội. Người đọc thơ, tự nhiên thụ hưởng một lần được hai hương vị, hương vị của nông thôn đầy tinh khiết và hương vị của da thịt thiếu nữ sực nức hương trinh.

Thơ là gì? Thi pháp là gì? Đây là thơ! đây là thi pháp! Đừng định nghĩa thơ, đừng bắt bẻ thi pháp, vì cái gì chuyển tải vào tâm hồn ta mà ta không diễn đạt được mới chính là thơ, mới chính là thi pháp. Đức Phật nói “ta đi hành đạo tám năm không nói một lời” thì thơ cũng nói với ta như vậy. Như khổ thơ trên đây. tôi chỉ viết quanh quẩn vòng vo thôi, còn cảm nhận được thơ là cái giác quan thứ sáu bén nhạy của mỗi một tâm hồn.

Vế thơ cuối của bài thơ nói về một sự thích thú, thú đau thương:

Nghiêng tay ta rót cho mình

Riêng chén đắng

Uống trôi chiều, sóng sánh giấc phù hư

Quanh co giữa khoảnh ngà

Đời: rộn? vắng?

Xin gửi chiều một chút nỗi riêng tư!

Có một nhà thơ nào đó đã xử dụng cụm từ “thú đau thương” nghich lý và khó hiểu để nói về cuộc tình cúa mình. Đọc khổ thơ trên ta có thể hiểu thú đau thương là thế nào.

Ca Dao đã tự nghiêng tay mà rót chén đắng cho mình. Ta nhớ đêm cuối cùng, trước giờ chịu thương khó, đến Đức Chúa JêSus mà cũng cầu nguyện xin Cha nếu được thì cho mình đừng uống chén đắng. Vậy mà ngày nay, Ca Dao tự chuốc chén đắng cho mình. Thế có nghĩa là chén đắng đem tới cho người thơ cái “thú đau thương”. Thú được nếm một hương vị nào đó đau mà thú vị.

Đừng nên hiểu rằng Ca Dao uống chén đắng như uống một ly cà phê đen đậm hay một ly rượu cay. Không. đó là tự nguyện uống, còn ở đây tuy Ca Dao tự rót cho mình nhưng không phải là tự nguyện. Nhà thơ uống chén đắng trong tâm trạng bi quan, rót hết buổi chiều sóng sánh, phù hư vào lòng. Nhà thơ uống chén đắng trong tâm trạng khắc khỏai với những dấu hỏi to lớn và với một tiếng thở dài ở phút cuối: “Đời:rộn? vắng?/Xin gởi chiều một chút nỗi riêng tư”. Dễ hiểu thôi, vì cái giây phút quay lại quá khứ trong tâm tư là do tác động của buổi chiều buộc nhà thơ phải thả tâm trí mình trôi trên dòng thời gian ngược chiều ấy.

Buổi chiều kích động cho nhà thơ nhớ lại quá khứ với mối tình đẹp trong dĩ vãng xa xưa, đưa nhà thơ hưởng lại cái thú mật ngọt thuở nào. Thế nhưng, đồng thời lúc ấy, mối tình đã tan vỡ gợi niềm đau thương trong lòng. Những điều đó khiến cho tác giả vừa thú lại vừa đau.

 

Khổ thơ cuối cho ta thấy một chuyển biến trong tâm hồn tác giả. Bây giờ nhà thơ không”nhấp” buổi chiều đẹp như trước nữa mà nhà thơ đã “uống” một lần trôi cả buổi chiều như ảo gác, như ảo mộng, như phù hư vào cả trong lòng.

Từ khổ thơ đầu đến khổ thơ cuối ta thấy nhà thơ đã vẽ một chuyển biến tình cảm trong tâm hồn như một vòng xoáy đinh ốc. Nỗi nhớ ban đầu bàng bạc trong nắng chiều cứ xoáy dần đến đỉnh điểm biến thành nỗi đau riêng tư. Nỗi đau ấy tác giả gởi vào chiều nhưng lại uống trọn vào lòng một chén đắng cay. Đây là một nghệ thuật miêu tả nội tâm rất thành công, đạt đỉnh cao sự diễn đạt những biến chuyến trong chiều sâu tâm hồn nhân vật, gởi vào lòng người những cảm xúc mỗi lúc một dâng cao cùng nhân vật, và làm cho thơ xúc tích, chứa trọn vẹn những gì diễn ra trong các vách con tim sâu kín.

“Nhấp Sóng Hoàng Hôn” có thể nói là một bài thơ chứa đầy cảm hứng, cảm hứng của tình yêu và cảm hứng của nỗi đau trong tình yêu.

Thực và mộng không ranh giới trong thơ, người và thiên nhiên cũng không ranh giới trong thơ. Toàn bộ bài thơ cho ta ngồi để uống ánh nắng chiều, rồi cho ta bay vào không gian để hưởng hương bồ kết. Cuối cùng ta đứng trên chót vót để uống cả trời đất cùng niềm đau, để nghe trong nỗi đắng cay, để thấy phù hư của cuộc đời, để thấy nỗi riêng tư nhỏ nhoi của mình tan trong chiều nhạt nắng.

Nếu có người chịu đọc, tôi sẽ viết mãi viết mãi cho bài thơ nầy mà không biết chán bao giờ!!!
 

  Trở lại chuyên mục của : Châu Thạch