GIANG HIỀN SƠN


Ảnh: Tác giả

 
THÁI NGUYÊN,
MỘT NỐT TRẦM NHỚ THƯƠNG
                                                         
          Trước ngày sáp nhập các tỉnh thành trên toàn quốc, trong đó có Thái Nguyên, chúng tôi trở về thành phố của những nhà máy sản xuất thép và chè, từng nổi tiếng cả nước để thăm lại một số di tích của phong trào yêu nước hồi đầu thế kỷ trước từng diễn ra trên mảnh đất này. Bây giờ, thành phố gang thép, một thời là chiến khu Việt Bắc, còn được biết đến với cái tên “đệ nhất danh trà” đã không còn khó khăn như thời kỳ đất nước mới bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc mà chững chạc, mạnh mẽ như “Phù Đổng vươn vai” ở một vị trí không chỉ là phên dậu mà còn chiếm giữ một vai trò rất quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng, cửa ngõ ở phía Bắc của thủ đô Hà Nội. Vùng đất ấy, sau hơn một thế kỷ diễn ra cuộc khởi nghĩa của Đội Cấn cùng những người yêu nước và hơn sáu mươi năm được công nhận là thành phố, hôm nay đang ngày càng đổi mới và hiện đại với những ngả đường thênh thang mở ra muôn dặm cùng những nhà máy, cao ốc mọc lên san sát, chọc trời bên những dòng sông thơ mộng, lung linh huyền thoại. Đó là một Thái Nguyên, thủ phủ của Khu tự trị Việt Bắc ngày xưa đã thay da, đổi thịt trở thành một trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của cả vùng Trung du và miền núi mạn Đông Bắc. Trong dòng chảy hối hả của sự phát triển phồn hoa ấy, người ta thấy đâu đó quá khứ vẫn thấp thoáng hiện về qua những di tích mà thành phố đã và đang lưu giữ trong mình và gợi lên biết bao những khắc khoải nhớ thương.

          Thành phố Thái Nguyên, sau hơn một thế kỷ, cùng với sự bào mòn của thời gian, những khó khăn của đất nước, đặc biệt là chiến tranh phá hoại các thành phố Công nghiệp trên miền Bắc của giặc  nên những di tích lịch sử của phong trào yêu nước chống Pháp ở đây cũng có biết bao đổi thay. Những cái tên nhà lao, trại lính khố xanh, dinh Công sứ hay phòng tuyến Gia Sàng là những địa danh trong thành phố gắn liền với cuộc khởi nghĩa long trời lở đất ở nơi đây do nhà yêu nước Trịnh Văn Đạt (Đội Cấn) và Lương Ngọc Quyến khởi xướng năm 1917 phần lớn được lưu truyền trong ký ức và những trang tư liệu. Ngược dòng thời gian, một thời, nhà lao Thái Nguyên từng được người Pháp làm kiên cố không kém gì nhà tù Côn Đảo ở trong lòng thành phố (giữa đường Quyết Tiến và đường Nha Trang) để làm nơi giam giữ, đày đọa những tù nhân yêu nước, trong đó có Lương Ngọc Quyến. Trại lính khố xanh (trên đường Đội Cấn, trong khuôn viên Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam) là nơi Trịnh Văn Đạt và những cộng sự của mình đã tập hợp đội ngũ, thống nhất kế hoạch khởi nghĩa trong đêm 30 rạng sáng ngày 31 tháng 8 năm 1917. Cũng chính tại trại lính này thủ lĩnh Đội Cấn đã giương cao lá cờ Ngũ tinh nền vàng có năm ngôi sao và dòng chữ “Nam binh phục Quốc”, thành lập Bộ Chỉ huy nghĩa quân, phát lệnh và tiến hành khởi nghĩa. Dinh Công sứ là trụ sở làm việc của công sứ người Pháp, nằm trên quả đồi cách Trại lính khố xanh không xa. Hệ thống công sự trên đồi Bầu, đồi Gò Trại, đồi Bà Cụ, đồi Tăng Xê, đồi Cụ Lân ở phía bên trái đường Gia Sàng (phường Phan Đình Phùng, gọi là phòng tuyến Gia Sàng) là nơi ghi dấu những trận đánh ngoan cường, quyết tử đến người cuối cùng của nghĩa quân Thái Nguyên do Cai Mánh chỉ huy; trong ba ngày, từ mùng 2 đến mùng 4 tháng 9 năm 1917 … Nhưng tất cả những di tích lịch sử ấy giờ đây, đều đã bị hư hại, xuống cấp, đổ nát, không còn nguyên vẹn. Nhà lao Thái Nguyên còn lại là một tấm bia xếp hạng di tích lịch sử để đánh dấu vị trí. Trại lính khố xanh chỉ nhìn thấy trong bức ảnh tư liệu và một bia đá ghi danh xếp hạng di tích lịch sử, tóm tắt về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, dựng ở bên đường Đội Cấn. Dinh Công sứ đồ sộ, nguy nga, kiên cố ngày xưa nay cũng chỉ còn một cái nền nhà và hầm ngầm hoang phế trên quả đồi ở phía Tây khuôn viên Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Phòng tuyến Gia Sàng cũng chỉ xót lại mấy đoạn hào công sự trên đồi Tăng Xê và một tấm bia ghi xếp thứ hạng di tích lịch sử.

          Thế đấy, “của riêng còn một chút này”, trở lại thành phố của những nương trà xanh biếc, thăm lại những địa danh một thời oanh liệt, chúng tôi không khỏi khắc khoải nhớ thương về những nghĩa binh áo vải đã từng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Ngẫm nghĩ chợt nhận ra, trong khoảng sáu tháng tồn tại (từ ngày 30 tháng 8 năm 1917 đến ngày 11 tháng 1 năm 1918) cuộc khởi nghĩa của Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến và những nghĩa sĩ cùng chung khát vọng phục quốc đã thực sự in sâu vào trong những trang sử hào hùng của dân tộc, giống như một dấu son rạng rỡ. Tuy “không thành công” nhưng những con người của cuộc khởi nghĩa “đã thành nhân”. Nhớ lại và hình dung trong tưởng tượng, sáu tháng chiến đấu oanh liệt, thương đau muôn dặm nhưng quả là sáu tháng vẻ vang, bất tử cùng núi sông đất nước. Cuộc khởi nghĩa dù có bị đàn áp dã man và thất bại đau thương nhưng tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập dân tộc của những nghĩa binh áo vải đã làm chấn động cả nước, “thức tỉnh Á châu”, khiến nước Pháp phải rúng động; đặc biệt là đập tan âm mưu “Dùng người Việt trị người Việt” của thực dân Pháp. Cứ thế, nghĩ về cuộc khởi nghĩa và lần theo những dấu chân của cuộc chiến đấu anh dũng còn vương lại trong lòng thành phố, chúng tôi về viếng đền Đội Cấn (nằm trên ngọn đồi lịch sử mang tên ông trên đường Phủ Liễn, bên cạnh đài tưởng niệm ghi danh, tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ Thái Nguyên) để tưởng nhớ người thủ lĩnh anh hùng và những nghĩa binh bất diệt trong cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên với tấm lòng đầy cảm kích, thương nhớ.

          Nghe kể Đội Cấn tuẫn tiết tại núi Pháo (xã Cù Vân, huyện Đại Từ). Sau khi ông mất, người dân Thái Nguyên không nguôi thương nhớ và đã lập ngôi đền trên ngọn đồi ở gần trại lính của ông. Ngôi đền xưa từng bị phá hủy trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, sau này, năm 2002 đã được xây dựng lại và gắn liền với cụm di tích Khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, cũng đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1997. Ngôi đền bây giờ được xây kiên cố; cột, mái đều làm bằng gỗ lim chắc, khỏe. Đền lợp ngói ống muống, hai tầng tám mái với các đầu đao uốn cong duyên dáng và ngự trên đỉnh đồi thoáng đãng; được những tán cây cổ thụ ngày đêm che mát, gợi lên một không gian yên tĩnh, thoáng đãng, trong lành, mát mẻ ... Trong đền, ở giữa chính cung của đặt bức tượng bán thân người anh hùng Trịnh Văn Đạt năm xưa. Không gian trong đền có treo rất nhiều hoành phi, câu đối, ghi bằng chữ quốc ngữ ca ngợi vị thủ lĩnh nghĩa quân. Trong đó, bức hoành phi cao nhất, giữa đền có ghi bốn chữ “Nam binh phục quốc” trong lá cờ Ngũ tinh năm xưa của ông. Tất cả mọi vật trong khu thờ tự hầu như đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy, bởi thế nhìn vào người ta thấy toát lên một sự trang trọng, uy nghi, linh thiêng.  

Đứng trước ngôi đền, thắp nén tâm nhang cho người đã khuất mà trong lòng nghe như không khỏi những nhớ cùng thương. Nhớ lại, hồi đi học, có lần được nghe thầy giáo kể về gương hy sinh của hai vị thủ lĩnh nghĩa quân Thái Nguyên mà không khỏi xúc động. Quân sư Lương Ngọc Quyến do bị khổ hình trong những năm tháng bị giam giữ ở nhà tù của Pháp mà bị liệt hai chân, đi lại đều phải dùng võng cáng. Đến khi cuộc chiến đấu của nghĩa quân gặp phải lúc gian khó, hiểm nguy; không muốn gây thêm vướng bận cho mọi người, để các nghĩa binh có thể tập trung chiến đấu cao độ nên Lương Ngọc Quyến đã nhờ Đội Cấn bắn vào ngực, chấp nhận hy sinh vì nghĩa cả, đó là ngày mùng 5 tháng 9 năm 1917. Cũng giống như vị quân sư của mình, khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Đội Cấn bị thương nặng nên đã nhờ người đào huyệt, rồi nằm xuống và rút súng ngắn bắn vào bụng, nhằm tự sát để không phải chết trong tay kẻ thù, đó là ngày mùng 5 tháng 1 năm 1918. Hai cái chết tuẫn tiết là hai cái chết anh hùng, đầy bi tráng. Đấy là những tấm gương hy sinh một đời tranh đấu vì đất nước. Thật tự hào và đầy cảm kích!

Thế đấy, thành phố Thái Nguyên đâu chỉ có trà Tân Cương ngọt hậu; thành phố Thái Nguyên đâu chỉ có những điểm du lịch nổi tiếng và những khu đô thị đang mọc lên như những sải cánh rộng bay bên những dòng sông; thành phố Thái Nguyên còn mang trong mình cả những vết tích đau thương, mất mát cùng lịch sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Đến thăm xứ chè, đứng trước những chứng tích vật chất ít ỏi còn xót lại của phong trào binh biến năm xưa hẳn người ta không khỏi cảm kích, khắc khoải nhớ thương tiền nhân trong một nốt trầm bi tráng của một thời của đất nước lầm than. Cái nốt trầm bi tráng ấy vẫn còn được lưu giữ và sống mãi trong lòng thành phố.

Giang Hiền Sơn (Đào THị Thu Hiền)


  Trở lại chuyên mục của : Giang Hiền Sơn