HOÀNG THỊ BÍCH HÀ
THĂM PHỦ ĐỆ NHỚ NGƯỜI XƯA
THĂM PHỦ ĐỆ NHỚ NGƯỜI XƯA
(Gặp gỡ trò chuyện với hậu duệ của cụ Mai Khắc Đôn, nghe kể một vài kỷ niệm về Hoàng Phi Mai Thị Vàng (Vợ vua Duy Tân, con gái của quan thượng thư Bộ Lễ Mai Khắc Đôn)
Đầu tháng 10/2025, tôi lại có dịp về Huế và lên thăm chị Mai Thị Thanh Xuân, Chị năm nay đã 87 tuổi nhưng vẫn minh mẫn, nhanh nhẹn. Tôi quen biết chị đã hơn 30 năm nay, chị em chơi thân với nhau. Chị coi tôi như đứa em nhỏ. Thực ra thì chị còn lớn tuổi hơn cả mẹ tôi. Nhưng chị bảo gọi chị cho thân mật gần gũi. Chị khéo tay, biết nấu một số món đặc trưng trong cung đình, làm các loại bánh và rất rành ẩm thực truyền thống Huế. Từ thuở nhỏ, chị đã được mẹ, cô dì dạy cho bí quyết chế biến các món và làm các loại bánh, tôi thích nhất là loại bánh đậu xanh trái cây. Còn gọi là bánh “quý tộc” bởi có nguồn gốc từ nền ẩm thực cung đình, dùng tại các yến tiệc trong Hoàng Cung, hoặc trong dịp lễ tết của gia đình quan lại và quý tộc, thời xưa. Nguyên liệu từ đậu xanh, làm thành những “phiên bản” trái cây, y hệt về màu sắc và kiểu dáng.Thoạt nhìn tưởng trái cây, chỉ khi cầm cái bánh lên cắn một miếng mới biết bánh đậu xanh vừa ngọt vừa bùi.

Nhưng tôi không biết chị là cháu nội của Cụ Mai Khắc Đôn (Quan Thượng thư bộ lễ dưới triều vua Duy Tân). Và cũng là cháu gọi Hoàng Phi Mai Thị Vàng bằng cô ruột. Hôm nay có dịp lên nhà thăm, chị mới kể cho tôi nghe. Thế là tôi làm một cuộc phỏng vấn nhỏ: Xin chị kể lại một vài kỷ niệm với người cô ruột Hoàng Phi của mình!
Đôi mắt chị nhìn xa xăm vào khoảng không như ngược miền ký ức chị bắt đầu chậm rãi kể (điềm đạm, chỉnh chu và từ tốn là phong cách của chị và cũng là của phụ nữ Huế xưa).
Chị kể lúc nhỏ thì mỗi lần đi chạp giỗ đều gặp bà Phi. Bà Phi đẹp và hiền lành. Bà sống qua các thời đại thì thời đại nào bà cũng có được hưu bổng. Nhưng cũng eo hẹp sống giản dị. Hồi đó mình lấy chống rồi cũng bận rộn công việc và chồng con, chỉ mỗi khi kỵ giỗ Hiệp Kỵ các vua Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân thì bên Hoàng tộc mời con cháu qua. Mình giờ nghĩ lại thật tiếc: “Có ngọc mà không biết trau” Lúc còn nhỏ có cơ hội gần bà Phi mà không thường xuyên gần bà để học hỏi. Bà hiền thục, giỏi dang lại chung thủy và hiếu đạo”. Có dì em là dì Yến (Trần Thị Yến Tuyết con người em gái của Hoàng phi Mai Thị Vàng, (cháu ngoại của cụ Mai Khắc Đôn). Bà Mai Thị Vàng là chị cả, có hai anh trai và 3 em gái là Mai thị Khánh, Mai Thi Quế và Mai Thị Hường) Dì Yến khi lập gia đình rồi vẫn ở với ba mẹ. Bà Phi thường ghé thăm em gái của mình nên dì Yến có cơ hội gặp gỡ bà Phi nhiều hơn”.
Rồi chị Thanh Xuân đưa tôi lên thăm dì Yến ở đường Lê Ngô Cát (Huế)
Dì Yến năm nay cũng đã 89 tuổi, vẫn minh mẫn, hồng hào và khỏe khoắn. Tôi gọi chị Xuân quen rồi nên chị Yến bảo gọi chị như Chị Xuân cũng được, cho gần gũi thân thương. Ở các chị là con cháu của Cụ Mai Khắc Đôn phong thái toát lên sự nho nhã, có kiến thức, am hiểu của những người phụ nữ dòng dõi trâm anh, gắn bó với vùng đất Kinh Kỳ, với các món ăn Huế, rành rõi từ nguyên liệu đến cách chế biến, nghệ thuật trang trí,...
Nghe hai chị hỏi nhau rằng:
- Chị Trà đã mời dì qua đám giỗ chưa?
Hóa ra nghệ nhân Mai Thị Trà cũng là chị em con bác, con cậu của hai chị và cũng là cháu nội của Cụ Mai Khắc Đôn. (Chị Mai Thị Trà là giáo viên văn của trường Đồng Khánh, sau 1975, chị được phân công dạy thêm môn Nữ công gia chánh. Từ đó chị nổi tiếng với nấu các món Huế từ cung đình đến bình dân và chị trở thành nghệ nhân ở lĩnh vực này. Chị Trà năm nay cũng đã 91 tuổi,cũng còn minh mẫn và khỏe mạnh.Hai chị kể, chị Trà bây giờ làm việc còn nhanh nhẹn hơn cả hai chị nữa. Các chị được gia đình cho học chữ, rồi được mẹ, cô, dì dạy cho cách làm các loại bánh, nấu các món để cúng tổ tiên. Riêng nghệ nhân Mai Thị Trà thì có duyên gắn bó với bộ môn ẩm thực. Năm 1991, sau khi nghỉ dạy văn hóa ở trường, chị Trà dành trọn tâm huyết để truyền đạt kinh nghiệm, bí quyết chế biến những món ăn cung đình, truyền thống Huế cho các thế hệ học viên.
Các chị: Mai Thị Thanh Xuân, Trần Thị Yến Tuyết, Mai Thị Trà,… con cháu của quan Thượng thư, xuất thân trong gia tộc quyền quý. Nay đều ở ngưỡng trên dưới 90, nhưng vẫn minh mẫn, đằm thắm, ân cần khi tiếp chuyện, trong phong thái của những người phụ nữ vốn dòng dõi trâm anh thế phiệt. Giọng Huế ngọt ngào, điềm đạm và dịu dàng. Nét đẹp duyên xưa vẫn còn lưu lại trên khuôn mặt, dẫu đã ghi dấu ấn thời gian, cuối mùa thu của cuộc đời.
Được các chị giới thiệu, hôm 5/10/2025 tôi lên thăm phủ đệ (nay là nhà thờ) của cụ Mai Khắc Đôn ở đường Lý Nam Đế thuộc hậu thôn Kim Long. Được thăm lại nơi ở, nơi thờ tự của cụ và Hoàng Phi Mai Thị Vàng. Lòng tôi rưng rưng tràn đầy xúc cảm khi nhìn cảnh cũ nhớ người xưa, những con người đã để lại dấu ấn tốt đẹp trong lịch sử. Tôi quyết định ghi lại một chút gì đó của lớp người hậu thế, góp một phần nhỏ nhoi để tri ân và tưởng nhớ về những vị tiền nhân đã lưu lại tiếng thơm cho một giai đoạn lịch sử, đầy biến động.
Đôi mắt chị nhìn xa xăm vào khoảng không như ngược miền ký ức chị bắt đầu chậm rãi kể (điềm đạm, chỉnh chu và từ tốn là phong cách của chị và cũng là của phụ nữ Huế xưa).
Chị kể lúc nhỏ thì mỗi lần đi chạp giỗ đều gặp bà Phi. Bà Phi đẹp và hiền lành. Bà sống qua các thời đại thì thời đại nào bà cũng có được hưu bổng. Nhưng cũng eo hẹp sống giản dị. Hồi đó mình lấy chống rồi cũng bận rộn công việc và chồng con, chỉ mỗi khi kỵ giỗ Hiệp Kỵ các vua Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân thì bên Hoàng tộc mời con cháu qua. Mình giờ nghĩ lại thật tiếc: “Có ngọc mà không biết trau” Lúc còn nhỏ có cơ hội gần bà Phi mà không thường xuyên gần bà để học hỏi. Bà hiền thục, giỏi dang lại chung thủy và hiếu đạo”. Có dì em là dì Yến (Trần Thị Yến Tuyết con người em gái của Hoàng phi Mai Thị Vàng, (cháu ngoại của cụ Mai Khắc Đôn). Bà Mai Thị Vàng là chị cả, có hai anh trai và 3 em gái là Mai thị Khánh, Mai Thi Quế và Mai Thị Hường) Dì Yến khi lập gia đình rồi vẫn ở với ba mẹ. Bà Phi thường ghé thăm em gái của mình nên dì Yến có cơ hội gặp gỡ bà Phi nhiều hơn”.
Rồi chị Thanh Xuân đưa tôi lên thăm dì Yến ở đường Lê Ngô Cát (Huế)
Dì Yến năm nay cũng đã 89 tuổi, vẫn minh mẫn, hồng hào và khỏe khoắn. Tôi gọi chị Xuân quen rồi nên chị Yến bảo gọi chị như Chị Xuân cũng được, cho gần gũi thân thương. Ở các chị là con cháu của Cụ Mai Khắc Đôn phong thái toát lên sự nho nhã, có kiến thức, am hiểu của những người phụ nữ dòng dõi trâm anh, gắn bó với vùng đất Kinh Kỳ, với các món ăn Huế, rành rõi từ nguyên liệu đến cách chế biến, nghệ thuật trang trí,...
Nghe hai chị hỏi nhau rằng:
- Chị Trà đã mời dì qua đám giỗ chưa?
Hóa ra nghệ nhân Mai Thị Trà cũng là chị em con bác, con cậu của hai chị và cũng là cháu nội của Cụ Mai Khắc Đôn. (Chị Mai Thị Trà là giáo viên văn của trường Đồng Khánh, sau 1975, chị được phân công dạy thêm môn Nữ công gia chánh. Từ đó chị nổi tiếng với nấu các món Huế từ cung đình đến bình dân và chị trở thành nghệ nhân ở lĩnh vực này. Chị Trà năm nay cũng đã 91 tuổi,cũng còn minh mẫn và khỏe mạnh.Hai chị kể, chị Trà bây giờ làm việc còn nhanh nhẹn hơn cả hai chị nữa. Các chị được gia đình cho học chữ, rồi được mẹ, cô, dì dạy cho cách làm các loại bánh, nấu các món để cúng tổ tiên. Riêng nghệ nhân Mai Thị Trà thì có duyên gắn bó với bộ môn ẩm thực. Năm 1991, sau khi nghỉ dạy văn hóa ở trường, chị Trà dành trọn tâm huyết để truyền đạt kinh nghiệm, bí quyết chế biến những món ăn cung đình, truyền thống Huế cho các thế hệ học viên.
Các chị: Mai Thị Thanh Xuân, Trần Thị Yến Tuyết, Mai Thị Trà,… con cháu của quan Thượng thư, xuất thân trong gia tộc quyền quý. Nay đều ở ngưỡng trên dưới 90, nhưng vẫn minh mẫn, đằm thắm, ân cần khi tiếp chuyện, trong phong thái của những người phụ nữ vốn dòng dõi trâm anh thế phiệt. Giọng Huế ngọt ngào, điềm đạm và dịu dàng. Nét đẹp duyên xưa vẫn còn lưu lại trên khuôn mặt, dẫu đã ghi dấu ấn thời gian, cuối mùa thu của cuộc đời.
Được các chị giới thiệu, hôm 5/10/2025 tôi lên thăm phủ đệ (nay là nhà thờ) của cụ Mai Khắc Đôn ở đường Lý Nam Đế thuộc hậu thôn Kim Long. Được thăm lại nơi ở, nơi thờ tự của cụ và Hoàng Phi Mai Thị Vàng. Lòng tôi rưng rưng tràn đầy xúc cảm khi nhìn cảnh cũ nhớ người xưa, những con người đã để lại dấu ấn tốt đẹp trong lịch sử. Tôi quyết định ghi lại một chút gì đó của lớp người hậu thế, góp một phần nhỏ nhoi để tri ân và tưởng nhớ về những vị tiền nhân đã lưu lại tiếng thơm cho một giai đoạn lịch sử, đầy biến động.
Phủ đệ của cụ Mai Khắc Đôn là một ngôi nhà cổ giản dị, lợp bằng ngói liệt xưa. Tọa lạc tại một mảnh vườn xanh tươi cây trái, ở một vùng quê thanh bình thuộc phường Kim Long, TP Huế. ngay gian giữa có bức hoành phi ghi” Đức Lưu Quang”, Hai bên là hai câu đối của người dân Quảng Trị tặng cụ, khái quát một cách cô động về đức độ, khí tiết và thể hiện lòng kính mến của người dân Quảng Trị dành cho ông. Nội dung là: “Khí tiết thanh cao, đức dày như núi Ngự/ Ân đức từ ái với dân thấm sâu như sông Thạch Hãn”. Ngôi nhà chịu ảnh hưởng của mưa nắng thời gian, được con cháu trùng tu năm 2009. Căn nhà trên kiểu nhà rường bằng gỗ, đẹp thanh nhã. Tôi được gặp bà Nguyễn Thị Mai (cháu dâu) thường gọi là bà Lưu. Bây giờ là chủ nhân của phủ đệ. Chồng bà là ông Mai Khắc Lưu (đã mất) là cháu nội của cụ Mai Khắc Đôn, Bà Mai năm nay đã 89 tuổi, nhưng bà vẫn minh mẫn và ân cần vui vẻ tiếp chuyện. Bà là người gần gũi với bà Phi Mai Thị Vàng trong những năm tháng cuối đời. Bà Mai kể: “Bà cô tôi đẹp mà hiền lắm! Ít nói, sống giản dị và rất thương con thương cháu”. Tôi cũng được gặp gỡ, trò chuyện với chị Mai Thị Nhàn con gái bà Lưu, chắt nội của cụ quan thượng thư Mai Khắc Đôn).
Trong nhà thờ còn lưu giữ nhiều sắc phong được vua ban tặng cho cụ Mai Khắc Đôn và song thân của cụ. Các chị kể là các con dâu của cụ khi nói về bố chồng là cụ Mai Khắc Đôn rằng: Ông hiền như Phật.
Bà Mai Thị Vàng sinh trưởng trong một gia tộc quyền quý như thế, được thừa hưởng truyền thống văn hóa, nền giáo dục nghiêm cẩn của gia đình, bà thông minh, đức hạnh, đẹp người và đẹp nết.
Qua câu chuyện của các chị Mai Thị Thanh Xuân, Chị Trần Thị Yến Tuyết, bà Nguyễn Thị Mai và chị Mai Thị Nhàn, tôi xin tóm tắt lại như sau:

(Ảnh cụ Mai Khắc Đôn- Ảnh mạng)
Cụ Mai Khắc Đôn (1853-1930) thân phụ là ông Mai Bá Hanh, quê ở hậu thôn Kim Long, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông là một nhà nho yêu nước, làm quan nhà Nguyễn dưới hai triều đại vua Thành Thái và vua Duy Tân. Từng làm quan tuần phủ Quảng Trị, là một vị quan thanh liêm, biết lo cho dân. Người học rộng, đức độ và tài năng. Ông được mời về Kinh dạy vua Duy Tân. Mặc dù Tòa Khâm sứ đã cử các thành viên trong Phủ phụ chính làm thầy dạy chữ Hán cho vua Duy Tân, nhưng ông từ chối, ông chọn viên Tuần phủ Quảng Trị Mai Khắc Đôn làm quan phụ đạo của mình. Sau đó cụ được thăng chức Lễ bộ Thượng thư và được đánh giá là có ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng vị vua này. Việc dạy học cho vua là một trọng trách rất lớn, chứa đựng cả một sự ký thác của cả triều đình. Không những dạy chữ Hán cho vua mà còn dạy về truyền thống yêu nước, thương dân, ý chí kiên cường để cứu nước,… Vua Duy Tân rất yêu quý và kính trọng thầy, Việc lựa chọn ông làm thầy dạy học là một quyết định đúng, sáng suốt của vua Duy Tân và triều đình. Cuộc gặp gỡ và gắn bó của vua Duy Tân với người thầy dạy học của mình là cụ Mai Khắc Đôn, ngoài đức độ và tài năng, có lẽ còn có một mối nhân duyên trời định, sau này ngoài quan hệ vua tôi, thầy trò còn có quan hệ gắn bó hơn nữa.
Khi lên 16 tuổi hai người mẹ vua là bà Nguyễn Thị Định thứ phi của vua Thành Thái, (gọi là bà sanh). Hoàng quý phi Nguyễn Gia Thị Anh chính thất của vua Thành Thái, vua Duy Tân gọi là mẹ đích. Hai mẹ và các quan thúc hối việc nạp phi để có người nối dõi thì vua đã chọn tiểu thư Mai Thị Vàng. Mặc dù trước đó, vua thường hay hỏi thầy là: Thầy có con gái lớn không? Thầy bảo: Con thần đều còn nhỏ dại cả”. Ý là cụ không muốn gả vì biết làm vợ vua sẽ khổ. Vua nói: Thầy yên tâm! Thầy gả em Vàng cho con, con sẽ yêu quý em để đền ơn thầy dạy bảo. Vua muốn đền ơn giáo dục của thầy Mai Khắc Đôn vì đã dạy cho ông những điều mà không một đại thần nào dưới sự điều khiển của Pháp dám dạy.
Khi lên 16 tuổi hai người mẹ vua là bà Nguyễn Thị Định thứ phi của vua Thành Thái, (gọi là bà sanh). Hoàng quý phi Nguyễn Gia Thị Anh chính thất của vua Thành Thái, vua Duy Tân gọi là mẹ đích. Hai mẹ và các quan thúc hối việc nạp phi để có người nối dõi thì vua đã chọn tiểu thư Mai Thị Vàng. Mặc dù trước đó, vua thường hay hỏi thầy là: Thầy có con gái lớn không? Thầy bảo: Con thần đều còn nhỏ dại cả”. Ý là cụ không muốn gả vì biết làm vợ vua sẽ khổ. Vua nói: Thầy yên tâm! Thầy gả em Vàng cho con, con sẽ yêu quý em để đền ơn thầy dạy bảo. Vua muốn đền ơn giáo dục của thầy Mai Khắc Đôn vì đã dạy cho ông những điều mà không một đại thần nào dưới sự điều khiển của Pháp dám dạy.

(Ảnh mạng)
Thường ngày thì tiểu thư Mai Thị Vàng và các anh chị em ở Kim Long với mẹ. Còn Quan thượng thư ở lục bộ (sáu ngôi nhà dành cho sáu vị quan đầu triều ở trong thành) một hôm Tiểu thư Mai Thị Vàng về phủ lục bộ chơi. Đang chạy nhảy cùng các chị em ở sân, tình cờ vua Duy Tân cùng ngồi xe song mã với thầy Mai Khắc Đôn ghé qua. Vua hỏi: “đây có phải là con gái lớn của thầy không? Vậy mà thầy cứ giấu tôi”. Thế là từ đó vua đem lòng yêu mến.
Những giai thoại về việc lấy vợ của vua: Khi nghe triều đình chuẩn bị nạp phi cho vua các quan đại thần và các mệnh phụ đều muốn con gái mình có cơ hội làm vợ vua, nhưng vua nói với hai người mẹ là “con có người yêu rồi!”. Hỏi người yêu đâu? Thì vua bảo: mời hai mẹ ra biển cửa Tùng sẽ thấy. Thế là đoàn đi biển cửa Tùng, qua 4 ngày rồi, không thấy bóng hồng nào. Mà chỉ thấy ngày nào vua cũng ngồi vốc cát lên chơi. Hỏi thì vua bảo: Đãi cát tìm vàng. Nếu hai mẹ không thấy thì ngày MAI vô Huế sẽ thấy. Người mẹ đích mới hiểu và nói với mẹ đẻ vua rằng: Vậy là vua đã chọn ý trung nhân họ Mai: Tiểu thư Mai Thị Vàng (con quan Thượng thư Bộ lễ)
Cuối năm 1915, lễ hỏi giữa Hoàng đế Duy Tân và Mai Thị Vàng được cử hành, ngày 12 tháng chạp năm Ất Mão tức ngày 16 tháng 1 năm 1916, lễ nạp phi được tổ chức trọng thể ở bộ Lễ. Bà Mai Thị Vàng năm đó 17 tuổi được phong làm đệ nhất giai phi của Duy Tân. Theo lệ cũ từ thời vua Minh Mạng nhà vua không lập Hoàng hậu. Danh hiệu Đệ nhất giai phi là cao quý bậc nhất lúc bấy giờ.
Bà Phi họ Mai đẹp, thanh thoát, dịu dàng, đặc biệt đôi mắt rất đẹp. Bà được Duy Tân sủng ái, thường cho ngồi ăn chung. Vua còn so đũa, đưa muỗng cho vợ, nói chuyện thân mật cùng nhau bên mâm cơm. Đây là điều trái với điển lệ triều Nguyễn, vốn quy định các bà phi không được ngồi cùng mâm với Hoàng đế. Hai bà mẹ gọi vua lên quở trách. Nhưng vua bảo: Mẹ bảo con ngủ với vợ, sao lại không được ăn chung với vợ để trò chuyện tâm tình,..”.Từ đó về sau không ai nói về việc này nữa.
Cuối năm 1916, Duy Tân khởi nghĩa chống Pháp không thành nên bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, một thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ Dương. Đi cùng vua có Hoàng mẫu Nguyễn Thị Định, Hoàng Phi (còn gọi là Diệu Phi) và em trai vua ( (gọi là Mệ Cưởi) mới 12 tuổi. Lúc theo chồng lên đường, bà Hoàng Phi đã có thai 3 tháng nhưng bị sẩy thai. Sau hai năm ở đảo Réunion, vì không hợp thủy thổ, khí hậu, bị đau ốm luôn. Bà cùng mẹ chồng là bà Định cùng em ông trở về Huế. Lúc này bà mới cuối 19 tuổi, đầu năm 20 tuổi.
Nói về cuộc sống ở đảo Réunion, bà Mai Diệu Phi từng chia sẻ: "Ở đảo Réunion rất dễ chịu. Người dân toàn làm một nghề chài lưới. Họ vui vẻ lắm, mua bán cũng tử tế. Nhưng tôi không biết làm sao, ở đó phong thổ tuy tốt nhưng mà hình như sức khoẻ tôi không hợp, nên hay đau. Vì thế, tôi xin Ngài cho tôi về... Ngài còn cho phép tôi tự ý đi bước nữa... Con nhà nề nếp như tôi dầu thế nào cũng phải giữ danh giá. Vẫn biết tuổi trẻ chưa dám chắc ở mình, nhưng bây giờ có nói đến việc gì cũng là khó. Thôi thì tôi tưởng chỉ có hy sinh cái đời tôi cho Ngài cho trọn".
Sau khi trở về một thời gian, hơn 10 năm thấy bà Phi không có nhà ở, chính quyền lúc đó cấp cho bà căn nhà ở kiệt 1 đường Âm Hồn (nay là kiệt 1 Lê Thánh Tôn) (chị Yến kể). Căn nhà có 3 phòng, bà mời mẹ vua là Bà Nguyễn Thị Định và em trai của vua Duy Tân về ở cùng. Bà Phi rất hiếu để, hằng ngày chăm sóc mẹ chồng và em chồng. Đến năm 1971 mẹ chồng mất. Lúc này bà Hoàng Phi đã 72 tuổi, bà giao căn nhà lại cho em chồng ở, bà xin hồi tôn về lại Kim Long sống cuộc đời còn lại ở phủ của cha mẹ ruột.
Theo chị Yến thì lúc về Huế bà vẫn được nhận hưu bổng, Ngài tòa Khâm Pháp rất mê bà: Nói với bà là: “bà lấy vua không sướng bằng tôi đâu, nếu bà đồng ý làm vợ tôi, tôi sẽ đưa bà đi khắp thế giới”
Nhưng bà từ chối. Bà nói: “Xin lỗi ông, đời tôi chỉ có vua là chồng, vua là thiên từ, không ai có thể hơn vua”
Mỗi lần đến kỳ lãnh lương, ông tòa khâm lại sai người cho xe đến tận nơi rước bà về và mời vào phòng làm việc tiếp đãi, rồi cho xe chở về, bà biết giữ mình nên khi nào bà cũng đi cùng người anh trai của bà để tránh sự thân mật của khâm sứ Pháp. Đúng tinh thần như câu Kiều:
“Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”
Tóm tắt các mốc thời gian quan trọng của Hoàng Phi:
(Đệ nhất Giai Phi nguyên danh Mai Thị Vàng sinh năm 1899, tại thôn Kim Long, Huế, năm 1915 đám hỏi, đám cưới ngày 16/1/1916, tức là năm 17 tuổi đám cưới. 18 tuổi phải theo chồng đi đày, 20 tuổi trở về Huế. Khi ở đảo Réunion, Duy Tân vẫn thường gửi thư về cho bà. Năm 1925, Duy Tân đã gửi thư về cho hội đồng hoàng tộc kèm giấy ly hôn bà Mai Diệu phi, xin Hội đồng chứng nhận để bà đi lấy chồng khác. Khi đó, bà mới 27 tuổi nhưng bà không ly hôn mà vẫn ở vậy nuôi mẹ và em chồng.
Cụ Mai Khắc Đôn đức cao vọng trọng nhưng cụ sống giản dị, thanh liêm. Sau 8 năm học với thầy Mai Khắc Đôn, Vua Duy Tân trưởng thành, trở thành vị vua yêu nước và đứng lên chống Pháp. Tư tưởng của vua có ảnh hưởng tốt từ tư tưởng của thầy dạy và là nhạc phụ Mai Khắc Đôn. Cụ là một nhà nho yêu nước, một vị quan thương dân và là một người thầy đáng kính của vua Duy Tân. Con cháu cụ kể lại là lúc làm quan, về nhà ông còn dạy học cho học trò trong địa phương, làng Trúc Lâm không biết lấy gì để đền ơn cụ nên đã hiến một sào ruộng làm nơi an nghỉ cho cụ. Trải qua làm quan hai triều vua Thành Thái và vua Duy Tân, cụ đã để lại những dấu ấn tốt đẹp. Năm 1930 cụ an nghỉ, mộ cụ được xây giữa một cánh đồng lúa xanh rờn, khung cảnh yên bình, như tính cách và cuộc sống sinh thời cụ đã gần dân, yêu thương dân như thế!
Hoàng Phi Mai Thị Vàng là ý trung nhân vua đã chọn: xinh đẹp, hiền thục, chung thủy và hiếu để. Bà xuất thân quyền quý, bước lên danh vọng đỉnh cao là đệ nhất Hoàng Phi nhưng lại sống giản dị. Là người có tấm lòng trung trinh, thủ tiết với chồng cho đến khi qua đời (1980) tại Kim Long.
Cuộc đời cụ Mai Khắc Đôn là tấm gương về tài năng, đức độ, yêu nước và thương dân, từ những tư tưởng tốt đẹp và kiến thức uyên bác của mình đã truyền dạy, đào tạo một vị vua trẻ tuổi thành vị vua yêu nước thì cuộc đời Hoàng phi con gái cụ là một người phụ nữ Huế tiêu biểu cho nhan sắc và đức hạnh.Nếu vua không bị đi đày thì cuộc đời bà là hạnh phúc viên mãn bên vua và sẽ là một mẫu nghi chuẩn mực trong triều lúc bấy giờ.
Thời gian ở đảo như đã nói ở trên bà thường đau ốm do không hợp thổ nhưỡng, khí hậu, sợ bà có bề gì, trước đó cũng vì vất vả nên bị sảy thai, vua để bảo toàn sức khỏe cho vợ, mẹ và em trai, đã cho Hoàng Phi cùng mẹ là bà Định và em trai về Việt Nam sinh sống.
Sau này, ở Hải ngoại vua cũng sinh được hai Hoàng Tử với người phụ nữ châu Âu. các Hoàng Từ cũng trở về thăm quê cha. Năm 1987 các hoàng tử đưa thi hài của vua Duy Tân từ Pháp về Huế an táng tại An Lăng (Huế)
Mộ phần bà Hoàng Phi Mai Thị Vàng cũng được cải táng chuyển về An Lăng, gần mộ vua Duy Tân. (Năm 1994),
• Bà Nguyễn Thị Định mất năm 1971 tại Huế, được táng trong khuôn viên lăng Dục Đức cùng với vua Thành Thái và Duy Tân. Bà Hoàng quý phi Nguyễn Gia Thị Anh cũng được táng tại đây.
Mời bạn đọc xem 2 video người viết bài có một cuộc phỏng vấn nhỏ với Chị Mai Thị Thanh Xuân (cháu nội của cụ Mai Khắc Đôn), chị Trần Thị Yến Tuyết (cháu ngoại của cụ Mai Khắc Đôn) một số hình ảnh thăm phủ đệ, gặp gỡ bà Mai (cháu dâu) và chị Mai Thị Nhàn, chắt nội của cụ Mai Khắc Đôn)
Saigon, ngày 15/10/2025
Hoàng Thị Bích Hà
Video gặp gỡ trò chuyện với chị Mai Thị Thanh Xuân https://www.youtube.com/watch?v=pzDPN6BtgDE
Video gặp gỡ trò chuyện với chị Trần Thị Yến Tuyết
https://www.youtube.com/watch?v=jMfQWmQd-s0
Những giai thoại về việc lấy vợ của vua: Khi nghe triều đình chuẩn bị nạp phi cho vua các quan đại thần và các mệnh phụ đều muốn con gái mình có cơ hội làm vợ vua, nhưng vua nói với hai người mẹ là “con có người yêu rồi!”. Hỏi người yêu đâu? Thì vua bảo: mời hai mẹ ra biển cửa Tùng sẽ thấy. Thế là đoàn đi biển cửa Tùng, qua 4 ngày rồi, không thấy bóng hồng nào. Mà chỉ thấy ngày nào vua cũng ngồi vốc cát lên chơi. Hỏi thì vua bảo: Đãi cát tìm vàng. Nếu hai mẹ không thấy thì ngày MAI vô Huế sẽ thấy. Người mẹ đích mới hiểu và nói với mẹ đẻ vua rằng: Vậy là vua đã chọn ý trung nhân họ Mai: Tiểu thư Mai Thị Vàng (con quan Thượng thư Bộ lễ)
Cuối năm 1915, lễ hỏi giữa Hoàng đế Duy Tân và Mai Thị Vàng được cử hành, ngày 12 tháng chạp năm Ất Mão tức ngày 16 tháng 1 năm 1916, lễ nạp phi được tổ chức trọng thể ở bộ Lễ. Bà Mai Thị Vàng năm đó 17 tuổi được phong làm đệ nhất giai phi của Duy Tân. Theo lệ cũ từ thời vua Minh Mạng nhà vua không lập Hoàng hậu. Danh hiệu Đệ nhất giai phi là cao quý bậc nhất lúc bấy giờ.
Bà Phi họ Mai đẹp, thanh thoát, dịu dàng, đặc biệt đôi mắt rất đẹp. Bà được Duy Tân sủng ái, thường cho ngồi ăn chung. Vua còn so đũa, đưa muỗng cho vợ, nói chuyện thân mật cùng nhau bên mâm cơm. Đây là điều trái với điển lệ triều Nguyễn, vốn quy định các bà phi không được ngồi cùng mâm với Hoàng đế. Hai bà mẹ gọi vua lên quở trách. Nhưng vua bảo: Mẹ bảo con ngủ với vợ, sao lại không được ăn chung với vợ để trò chuyện tâm tình,..”.Từ đó về sau không ai nói về việc này nữa.
Cuối năm 1916, Duy Tân khởi nghĩa chống Pháp không thành nên bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, một thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ Dương. Đi cùng vua có Hoàng mẫu Nguyễn Thị Định, Hoàng Phi (còn gọi là Diệu Phi) và em trai vua ( (gọi là Mệ Cưởi) mới 12 tuổi. Lúc theo chồng lên đường, bà Hoàng Phi đã có thai 3 tháng nhưng bị sẩy thai. Sau hai năm ở đảo Réunion, vì không hợp thủy thổ, khí hậu, bị đau ốm luôn. Bà cùng mẹ chồng là bà Định cùng em ông trở về Huế. Lúc này bà mới cuối 19 tuổi, đầu năm 20 tuổi.
Nói về cuộc sống ở đảo Réunion, bà Mai Diệu Phi từng chia sẻ: "Ở đảo Réunion rất dễ chịu. Người dân toàn làm một nghề chài lưới. Họ vui vẻ lắm, mua bán cũng tử tế. Nhưng tôi không biết làm sao, ở đó phong thổ tuy tốt nhưng mà hình như sức khoẻ tôi không hợp, nên hay đau. Vì thế, tôi xin Ngài cho tôi về... Ngài còn cho phép tôi tự ý đi bước nữa... Con nhà nề nếp như tôi dầu thế nào cũng phải giữ danh giá. Vẫn biết tuổi trẻ chưa dám chắc ở mình, nhưng bây giờ có nói đến việc gì cũng là khó. Thôi thì tôi tưởng chỉ có hy sinh cái đời tôi cho Ngài cho trọn".
Sau khi trở về một thời gian, hơn 10 năm thấy bà Phi không có nhà ở, chính quyền lúc đó cấp cho bà căn nhà ở kiệt 1 đường Âm Hồn (nay là kiệt 1 Lê Thánh Tôn) (chị Yến kể). Căn nhà có 3 phòng, bà mời mẹ vua là Bà Nguyễn Thị Định và em trai của vua Duy Tân về ở cùng. Bà Phi rất hiếu để, hằng ngày chăm sóc mẹ chồng và em chồng. Đến năm 1971 mẹ chồng mất. Lúc này bà Hoàng Phi đã 72 tuổi, bà giao căn nhà lại cho em chồng ở, bà xin hồi tôn về lại Kim Long sống cuộc đời còn lại ở phủ của cha mẹ ruột.
Theo chị Yến thì lúc về Huế bà vẫn được nhận hưu bổng, Ngài tòa Khâm Pháp rất mê bà: Nói với bà là: “bà lấy vua không sướng bằng tôi đâu, nếu bà đồng ý làm vợ tôi, tôi sẽ đưa bà đi khắp thế giới”
Nhưng bà từ chối. Bà nói: “Xin lỗi ông, đời tôi chỉ có vua là chồng, vua là thiên từ, không ai có thể hơn vua”
Mỗi lần đến kỳ lãnh lương, ông tòa khâm lại sai người cho xe đến tận nơi rước bà về và mời vào phòng làm việc tiếp đãi, rồi cho xe chở về, bà biết giữ mình nên khi nào bà cũng đi cùng người anh trai của bà để tránh sự thân mật của khâm sứ Pháp. Đúng tinh thần như câu Kiều:
“Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”
Tóm tắt các mốc thời gian quan trọng của Hoàng Phi:
(Đệ nhất Giai Phi nguyên danh Mai Thị Vàng sinh năm 1899, tại thôn Kim Long, Huế, năm 1915 đám hỏi, đám cưới ngày 16/1/1916, tức là năm 17 tuổi đám cưới. 18 tuổi phải theo chồng đi đày, 20 tuổi trở về Huế. Khi ở đảo Réunion, Duy Tân vẫn thường gửi thư về cho bà. Năm 1925, Duy Tân đã gửi thư về cho hội đồng hoàng tộc kèm giấy ly hôn bà Mai Diệu phi, xin Hội đồng chứng nhận để bà đi lấy chồng khác. Khi đó, bà mới 27 tuổi nhưng bà không ly hôn mà vẫn ở vậy nuôi mẹ và em chồng.
Cụ Mai Khắc Đôn đức cao vọng trọng nhưng cụ sống giản dị, thanh liêm. Sau 8 năm học với thầy Mai Khắc Đôn, Vua Duy Tân trưởng thành, trở thành vị vua yêu nước và đứng lên chống Pháp. Tư tưởng của vua có ảnh hưởng tốt từ tư tưởng của thầy dạy và là nhạc phụ Mai Khắc Đôn. Cụ là một nhà nho yêu nước, một vị quan thương dân và là một người thầy đáng kính của vua Duy Tân. Con cháu cụ kể lại là lúc làm quan, về nhà ông còn dạy học cho học trò trong địa phương, làng Trúc Lâm không biết lấy gì để đền ơn cụ nên đã hiến một sào ruộng làm nơi an nghỉ cho cụ. Trải qua làm quan hai triều vua Thành Thái và vua Duy Tân, cụ đã để lại những dấu ấn tốt đẹp. Năm 1930 cụ an nghỉ, mộ cụ được xây giữa một cánh đồng lúa xanh rờn, khung cảnh yên bình, như tính cách và cuộc sống sinh thời cụ đã gần dân, yêu thương dân như thế!
Hoàng Phi Mai Thị Vàng là ý trung nhân vua đã chọn: xinh đẹp, hiền thục, chung thủy và hiếu để. Bà xuất thân quyền quý, bước lên danh vọng đỉnh cao là đệ nhất Hoàng Phi nhưng lại sống giản dị. Là người có tấm lòng trung trinh, thủ tiết với chồng cho đến khi qua đời (1980) tại Kim Long.
Cuộc đời cụ Mai Khắc Đôn là tấm gương về tài năng, đức độ, yêu nước và thương dân, từ những tư tưởng tốt đẹp và kiến thức uyên bác của mình đã truyền dạy, đào tạo một vị vua trẻ tuổi thành vị vua yêu nước thì cuộc đời Hoàng phi con gái cụ là một người phụ nữ Huế tiêu biểu cho nhan sắc và đức hạnh.Nếu vua không bị đi đày thì cuộc đời bà là hạnh phúc viên mãn bên vua và sẽ là một mẫu nghi chuẩn mực trong triều lúc bấy giờ.
Thời gian ở đảo như đã nói ở trên bà thường đau ốm do không hợp thổ nhưỡng, khí hậu, sợ bà có bề gì, trước đó cũng vì vất vả nên bị sảy thai, vua để bảo toàn sức khỏe cho vợ, mẹ và em trai, đã cho Hoàng Phi cùng mẹ là bà Định và em trai về Việt Nam sinh sống.
Sau này, ở Hải ngoại vua cũng sinh được hai Hoàng Tử với người phụ nữ châu Âu. các Hoàng Từ cũng trở về thăm quê cha. Năm 1987 các hoàng tử đưa thi hài của vua Duy Tân từ Pháp về Huế an táng tại An Lăng (Huế)
Mộ phần bà Hoàng Phi Mai Thị Vàng cũng được cải táng chuyển về An Lăng, gần mộ vua Duy Tân. (Năm 1994),
• Bà Nguyễn Thị Định mất năm 1971 tại Huế, được táng trong khuôn viên lăng Dục Đức cùng với vua Thành Thái và Duy Tân. Bà Hoàng quý phi Nguyễn Gia Thị Anh cũng được táng tại đây.
Mời bạn đọc xem 2 video người viết bài có một cuộc phỏng vấn nhỏ với Chị Mai Thị Thanh Xuân (cháu nội của cụ Mai Khắc Đôn), chị Trần Thị Yến Tuyết (cháu ngoại của cụ Mai Khắc Đôn) một số hình ảnh thăm phủ đệ, gặp gỡ bà Mai (cháu dâu) và chị Mai Thị Nhàn, chắt nội của cụ Mai Khắc Đôn)
Saigon, ngày 15/10/2025
Hoàng Thị Bích Hà
Video gặp gỡ trò chuyện với chị Mai Thị Thanh Xuân https://www.youtube.com/watch?v=pzDPN6BtgDE
Video gặp gỡ trò chuyện với chị Trần Thị Yến Tuyết
https://www.youtube.com/watch?v=jMfQWmQd-s0