HOÀNG THỊ BÍCH HÀ


Nỗi Đau Chí Phèo
 

Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 
I/ Lý do chọn đề tài: 
Nghiên cứu phần văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945. Đặc biệt dòng văn học hiện thực phê phán chúng ta gặp Nam Cao- một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước năm 1945. Sáng tác của ông tập trung vào hai đề tài lớn: đề tài nông dân và đề tài tiểu tư sản nghèo. “ Chí Phèo” (1941) là tác phẩm nổi bật trong sáng tác của Nam Cao về đề tài nông dân với bút pháp hiện thực xuất sắc và cảm hứng nhân đạo cao cả. 
Tác phẩm “Chí Phèo” là một kiệt tác của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ở đó Nam Cao đã thể hiện được nỗi đau Chí Phèo mang tính điển hình, tính phổ biến. Ở đó vang lên tiếng nức nở của con người không được quyền làm người. Đề tài quen thuộc nhưng vấn đề Nam Cao đặt ra rất mới, rất trẻ. Nỗi đau đó nó vẫn còn có ý nghĩa đối với hôm qua, hôm nay và cho cả ngày mai, vẫn còn nỗi đau tùy cấp độ khác nhau. Và đây là một vấn đề then chốt của văn học lớn mọi thời đại. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: NỖI ĐAU CHÍ PHÈO” 
II/ Lịch sử vấn đề : 
Nghiên cứu chung về nhà văn Nam Cao và các tác phẩm của ông. 
1. Nam Cao (Hà Minh Đức) 
2. Nam Cao (Hà Văn Đức) 
3. Phân tích giảng văn: 
- Đời thừa (Hoàng Như Mai) 
- Lão Hạc (Nguyễn Lộc) 
- Đôi mắt của Nam Cao (Nguyễn Đình Chú) 
4. Đọc lại truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao (Nguyễn Đăng Mạnh) 
5. Đôi mắt ( Nguyễn Quốc Liên, Hà Bình Trị)
6. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện Chí Phèo (Hoàng Ngọc Hiến) 
7. Thử đọc Chí Phèo (Nguyễn Đức Dân) 
8. Chí Phèo của Nam Cao (Đỗ Kim Hồi) 
III/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 
- Nghiên cứu con người và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. 
- - Hoàn cảnh sáng tác. 
- Tác phẩm Chí Phèo. Tập trung nỗi đau của Chí Phèo 
- Bút pháp nghệ thuật của Nam Cao. 
Phần II: NỘI DUNG 
I/ VẮN TẮT SỰ NGHIỆP VĂN HỌC CỦA NAM CAO 
Nam cao sinh năm 1917 và mất năm 1951. 
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri- là nhà văn có vị trí hàng đầu trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Là một trong những đại diện xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước 1945. Nam Cao cũng là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của chặng đường nền văn học mới sau 1945. 
Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính: Cuộc sống người trí thức nghèo và cuộc sống người nông dân. Ở đề tài trí thức tư sản nghèo, đáng chú ý nhất là các truyện ngắn: “ Những truyện không muốn viết”, “Trăng sáng”, “ Đời thừa”, “ Cười” Nước mắt”, “Mua nhà”…và tiểu thuyết “ Sống mòn”. Trong khi miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, bế tắc của những nhà văn nghèo, “ Giáo khổ trường tư”, học sinh thất nghiệp…Nam cao đã làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần của họ. Những con người có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn sống có hoài bão, phát triển nhân cách nhưng cứ bị gánh nặng cơm áo hàng ngày làm cho “ chết mòn “ về tâm hồn.
Trong đề tài nông dân đáng chú ý nhất là các truyện: “ Chí Phèo”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “ Mua danh”, “ Tư cách mỏ”, “ Điếu văn”, “Một bữa no”, “Lão Hạc”, “ Một đám cưới”, “ Dì Hảo”, “ Nửa đêm”, …Ở một số truyện viết về người nông dân lưu manh hóa, nhà văn kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo đã hủy diệt cả nhân tính của những con người vốn bản tính lương thiện đó. 
Sau năm 1945 Nam Cao sáng tác để phục vụ công cuộc kháng chiến. truyện ngắn: “ Đôi mắt”( 1948), “ Nhật ký ở rừng” (1949) và tập bút ký “ Chuyện biên giới”( 1950). Đó là những sáng tác đặc sắc nhất của nền văn học sau 1945 còn rất non trẻ khi đó. Nam Cao còn là cây bút có cái gốc nhân đạo rất sâu và là một tài năng độc đáo bậc thầy. Nam Cao xứng đáng được coi là một nhà văn lớn. “Chí Phèo” và nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của ông thuộc vào những sáng tác đặc sắc nhất của văn xuôi Viêt Nam. 
II/ HOÀN CẢNH XÃ HỘI VÀ CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT CỦA NAM CAO 
Nam Cao là nhà văn hiện thực mà những trang viết phản ánh sâu sắc bộ mặt của xã hội thời kỳ 1939-1945. Xã hội Việt Nam sau những năm dài nô lệ như dồn tụ lại những thảm họa đen tối nhất vào những năm tháng này. Chiến tranh thế giới thứ hai lan tràn đến xứ thuộc địa nghèo khổ, đã bị vơ vét đến kiệt sức từ hàng trăm năm nay. Nông thôn xơ xác như bị tàn phá sau một cơn bão lớn. Người dân thành thị điêu đứng trước nạn thất nghiệp, chợ đen. Đời sống tinh thần của xã hội như một vũng bùn tù đọng, đầy rẫy những tư tưởng nô dịch. Cơ thể xã hội đang lên cơn sốt để chờ ngày lột xác. 
Nhà văn Nam Cao xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, lại ở một vùng quê bị bọn cường hào ác bá chia bè kéo cánh, đục khoét bóc lột người dân. Nam Cao am hiểu thấm thía số phận của những người nông dân nghèo khổ. Lúc Nam Cao bước vào con đường văn học cũng là lúc xã hội Việt Nam chao đảo, ngột ngạt và bế tắc. Các giai cấp bị phân hóa dữ dội. Đời sống của người nông dân bị đe dọa hơn bao giờ hết. Ông cũng thấm thía sâu sắc cuộc sống của tầng lớp tiểu tư sản. Bản thân nhà văn đã từng là “ giáo khổ trường tư”. Nhà văn nghèo bất đắc chí “phải bán dần sự sống cho mình khỏi chết đói”. Con người Nam Cao có những nét ẩn: về bên ngoài nhạt nhẽo khó gần nhưng bên trong rất mãnh liệt. Tính cách này giúp ta hiểu được tính cánh nhân vật trong văn chương. Anh trí thức thường băn khoăn, nhăn nhó, vất vả. Nam Cao sống rất giàu tình thương. Tình thương của Nam Cao là tình thương của người trong cuộc, của kẻ cùng kiếp. Kiếp của Nam cao là kiếp của Dần, của Hộ, của Lão Hạc, của Điền…tác phẩm của Nam Cao giàu tính chân thực trong tự thú và triết lý. Truyện Nam cao mang sắc màu trầm tư suy tưởng trong cảm hứng sáng tạo cũng như trong nghệ thuật phô diễn. Phong cách truyện như thế được cắt nghĩa với nhiều lý do chính ở trong sâu xa. Tính cách của Nam Cao có nhiều nét đối lập. Nam Cao có tài nhưng vất vả. 
Những trang viết của ông bộc lộ rõ một cách nhìn đời sâu sắc, thấm thía và chua xót. Từ những nét bao quát chung đến những cảnh đời cụ thể .Nam Cao đã phác họa nhiều bức tranh đậm nét chất chứa biết bao yêu thương căm giận, xót xa. Sự kết hợp chặt chẽ giữa tinh thần phê phán mặt trái xã hội với lòng yêu thương những người nghèo khổ, giữa xu hướng miêu tả cuộc sống khách quan với tính chất tự biểu hiện giữa dòng kể và mạch vận động tâm lý, là những đặc điểm khá phổ biến trong tác phẩm Nam Cao. Điểm xuất phát của Nam Cao là cuộc đời cụ thể. Từ một làng quê nơi chôn rau cắt rốn Nam Cao đã ghi chép chắt chiu tư liệu, đào sâu vào những mảng sống để khái quát lên bức tranh về nông thôn Việt nam thời kỳ thế giới đại chiến. Làng quê Việt Nam trong tác phẩm của Nam Cao không còn vẻ yên tĩnh lâu đời mà đang bị xáo trộn dữ dội. Bọn quan lại tay sai ra sức áp bức bóc lột, trộm cướp hoành hành khắp nơi. Các tệ nan xã hội đầy rẫy khắp nơi. Nạn đói đe dọa thường xuyên. Nam Cao đã khắc họa được nhiều bức tranh chân thực. Tác giả không thi vị cuộc sống ở nông thôn mà lấy sự thực làm tiêu chuẩn và chân lý sáng tác nghệ thuật. Nam Cao khá nhạy cảm ghi nhận những diễn biến ngày một xấu đi của cuộc sống. Tuy nhiên trên những trang viết của tác giả thì cảm hứng xót xa chua chát về cuộc đời không khỏi có lúc gây ấn tượng nặng nề bi đát. 
Từ cuộc đời riêng của một thầy giáo nghèo, một nhà văn vất vả vật lộn với nghề nghiệp, Nam Cao đã suy nghĩ, chiêm nghiệm để nêu lên những vấn đề chung của tầng lớp tiểu tư sản trí thức nghèo. Trong văn xuôi cũng rất hiếm có những trường hợp mà những chất liệu quen thuộc lại có khả năng trở thành đề tài và vấn đề chung trong nhiều sáng tác rộng rãi. Và nhà văn say mê khai thác trong suốt cuộc đời mình. Nam Cao đã luôn có ý thức khách quan hóa những cái riêng để qua từng tâm lý, từng sự việc tìm được đường dây liên lạc với cuộc đời chung. Những trang viết về nông thôn bộc lộ chủ yếu là những hoàn cảnh và tính cách chân thực điển hình. Sự thật phủ phàng đó cũng là đóng góp mới của Nam Cao qua chủ đề nông thôn. Bên cạnh những chủ đề quen thuộc về số phận cực khổ của người nông dân đưới chế độ thực dân phong kiến. Nam Cao đặt một vấn đề mới: tình trạng cùng cực làm biến chất, biến dạng nhiều người nông dân. Người cùng dân trong giai đoạn này đã bị đẩy quá “bước đường cùng” của cuộc sống con người. Bên cạnh anh Pha, chị Dậu…, các điển hình quen thuộc về người nông dân. Nam Cao đóng góp thêm một chân dung mới: Chí Phèo. Khi “ Tắt đèn” của Ngô tất Tố và “ Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ra đời, ít ai nghĩ rằng thân phận người nông dân lại có một nỗi khổ nào hơn nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha nhưng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao thì người ta liền nhận ra rằng: đây mới là hiện thân đầy đủ của những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người nông dân cùng ở một nước thuộc địa bị chà đạp, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán chó , bán con và bán sữa…nhưng chị còn được gọi là người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo, cả linh hồn mình đi, trở thành con quỹ của làng Vũ Đại “ Chí Phèo là cột mốc cuối cùng đi tới các số phận” ( Hà Minh Đức). 
III/ NỖI ĐAU CỦA CHÍ PHÈO 
Với hình tượng Chí Phèo đã đưa giá trị của tác phẩm cùng tên trở thành một kiệt tác trong nền văn xuôi đương thời. Tác phẩm “ Chí Phèo” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn lớn Nam Cao. Chí Phèo không phải là một hiện tượng đơn độc cá biệt mà mang ý nghĩa tiêu biểu cho một lớp người, một tình trạng xã hội.Trên dốc trượt của cuộc đời xuống đáy xã hội và bị rơi vào vũng bùn tội lỗi mà Chí Phèo là người trôi xa nhất. Nỗi khổ của Chí Phèo đau nhất là nỗi khỗ bị tước quyền làm người. 
Chí Phèo sinh ra không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, không tấc đất cắm dùi. Cả đời Chí không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở. Thị ra đời trong một cái “ lò gạch cũ” bỏ hoang. Trong chiếc váy đụp. Tuổi thơ của Thị “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ” đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu…Đó là cuộc đời khốn khổ của một kẻ “ cùng hơn cả dân cùng” ở nông thôn thời bấy giờ. Nhưng nỗi khổ ghê gớm của Chí Phèo được ngòi bút của Nam Cao tập trung thể hiện không phải ở những vấn đề đó mà là vấn đề bị cự tuyệt quyền làm người. Người nông dân “cùng hơn cả dân cùng ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình mà anh đã bị xã hội cướp đi bộ mặt cùng linh hồn để trở thành một con thú dữ và bị xã hội loài người chối bỏ. 
Là con người lẽ ra được lao động,được mơ ước , được quyền yêu thương, được sống giữa cộng đồng của anh trong làng Vũ Đại. Nỗi đau này mang tính điển hình, tính phổ biến. Rền vang tiếng nức nở của con người không được quyền làm người. Nam Cao đã thể hiện nỗi đau đó bằng nghệ thuật . Mở đầu tác phẩm là miêu tả tiếng chửi của Chí Phèo: “ Hắn vừa đi vừa chửi…bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”,”hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi có trường độ và cường độ, tiếng chửi rất triệt để, ngoa ngoắt và độc địa làm sao! Từ tiếng chửi ta bắt gặp nỗi căm uất, sự vật vã tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại mà không thể được . Chí Phèo thật cô đơn. Nỗi cô đơn này càng triệt để bao nhiêu, càng đau bấy nhiêu.Trong cơn say đến mất cả lý trí, con người khốn khổ ấy vẫn cảm nhận được “ nông nỗi” của thân phận mình. Đó là nỗi cô đơn khủng khiếp của một con người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không được coi là người. Hắn thèm được người ta chửi. Vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp đối thoại. Chửi lại hắn tức là còn thừa nhận hắn là người. Nhưng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ “im lặng đáng sợ”. Và Chí Phèo vẫn chỉ có một mình trong sa mạc cô đơn. Dẫu rằng anh đang đứng ở trên đời, giữa làng Vũ Đại. Nam Cao thật tuyệt vời khái quát tâm trạng cô đơn tột đỉnh của Chí Phèo qua tiếng chửi. Tất cả đã trở nên thù hằn, đối nghịch với Chí Phèo. 
Thực ra đâu phải Chí Phèo vốn là kẻ lưu manh nát rượu. Khi còn trai trẻ anh canh điền nhà Bá Kiến ấy đã “ ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Tức là mơ ước cuộc sống hạnh phúc bình dị bằng lao động. Khi ấy tuy còn rất trẻ nhưng anh vẫn phân biệt được tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa. Bị gọi lên bóp chân cho cái bà ba “ quỷ quái”, anh chỉ “thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất lương thiện, trong trắng ấy của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào cáo già vì ghen tuông vu vơ đã cho giải Chí lên huyện rồi sau đó phải ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện vô tội để sau đó thả ra một Chí Phèo hung ác lưu manh. Tức là đã biến một người lao động lương thiện thành một con thú dữ. Trở về làng Vũ Đại có bọn cường hào độc ác ăn thịt người không tanh đó,Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Trong cái xã hội tàn bạo ấy càng hiền lành, nhịn nhục thì được thì càng bị đạp dúi xuống không ngóc đầu lên được. hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn luôn say. Và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chính xã hội ấy đã vằm nát bộ mặt người,cướp đi linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người, là “ con quỷ của làng Vũ Đại”. Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa. Ai cũng tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua. 
Chí Phèo tiêu biểu cho tầng lớp nông dân bị tha hóa về mặt nhân cách. Nhưng sự tha hóa đó không phải là bẩm sinh mà là nó được phát sinh trong quá trình vận động và phát triển của nhân vật giữa xã hội thối nát, vô nhân đạo. Từ một người hiền lành chất phác trở thành một kẻ liều lĩnh và ôm ấp trong lòng một mối hận thù không gì xóa được. Nếu lấy thời điểm Chí ra tù làm mốc thì có thể nói. Chí đã ba lần đi gặp kẻ thù- Bá Kiến:
Lần thứ nhất là lúc Chí vừa ở tù về. “ Hắn về hôm trước,hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu và trong cơn say khướt, đã xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi. Đó là lối hành động của một tên lưu manh.Nhưng hoàn toàn không ngẩu nhiên vô thức của một kẻ say rượu, mà đã có trong tiềm thức của Chí Phèo. Cộng thêm những năm tháng tù đày. Mối thù ấy càng được hun đúc nuôi dưỡng sâu sắc và cô đậm hơn. Bao năm ngồi tù Chí đã có dịp nghiền ngẫm cân nhắc trước khi đi đến hành động đúng đắn. cho nên hơn bao giờ hết, vừa rời khỏi nhà tù là Chí đã sôi sục một ý thức trả thù. Sự căm thù kẻ đã gây ra tội lỗi và đẩy mình vào con đường đau khổ đã dẫn đường Chí đến nhà cụ Bá dù là đang trong cơn say khướt. Hành vi của Chí hoàn toàn liều lĩnh và mang tính bột phát. Hơn nữa dù gì trong sâu xa bản chất của Chí cũng chỉ là một nông dân thật thà đến mức gần như ngây thơ cho nên sự thất bại của Chí trong lần đối đầu đầu tiên là một chuyện rất hiển nhiên. Làm sao qua được kẻ khôn róc đời như Bá Kiến. Bá Kiến là kẻ tinh ma xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế nên đối phó với Chí chẳng lấy gì là khó khăn. Chỉ thoáng nhìn qua là Bá Kiến đã hiểu được ý đồ của đối phương. Nên Chí mới thất bại ê chề, cay đắng trước những lời vuốt ve ngon ngọt, cộng thêm vài đồng bạc đã làm lóa mắt Chí. Từ một vị trí là người đi hỏi tội kẻ thù, chỉ thoắt cái, ván cờ đã lật ngược: kẻ có tội lại ung dung như một kẻ ra ơn còn người hỏi tội lại thành tay sai phục dịch cho kẻ thù mà không hay biết. 
Lần thứ hai: cũng trong cái dáng điệu say mềm Chí ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến gặp hắn để xin được đi ở tù. Thật là một chuyện ngược đời. Thuở nay chưa thấy ai làm một chuyện phi lý đến mức như vậy, chắc chỉ có Chí Phèo.. Tuy là nghịch lý đấy nhưng lại phản ánh đúng thực tại của Chí. Không có cơm ăn, áo mặc, một mảnh đất căm dùi cũng không. Cảnh ngộ bi đát của Chí cũng phần nào phản ánh đúng hiện trạng xã hội lúc bấy giờ . Đó là những người lầm đường lạc lối trót sa chân vào vũng bùn của tội lỗi thì không sao rút chân ra được. Chí bị tù đến khi được trả về cuộc sống đời thường thì lại không tìm được kế sinh nhai. Hay nói đúng hơn là không được tiếp nhận và vì thế là tiếp tục bị đẩy vào bước đường cùng. Hãy lắng nghe Chí nói với Bá Kiến: ‘ bẩm quả đi ở tù sướng quá đi! Ở tù còn có cơm ăn, bây giờ về làng, về nước một thước đất cắm dùi không có…” Sự thật như thế ư? Nhà tù là chốn dung thân ư? Trên câu chữ thì ta không thể nghĩ khác được. Nhưng nếu nghĩ sâu xa một chút, ta mới thấy ngỡ ngàng và đau xót. Nhà tù nuôi con người ư? Không, bảo nó nuôi dưỡng những con người bị tha hóa, những con quỹ như Chí Phèo thì đúng hơn. Nếu như ý nghĩa của nhà tù là để cảnh tỉnh, cải tạo con người, trả con người về với cuộc sống hoàn lương thì nhà tù ở đây lại thực hiện ngược lại. Nó biến những con người lương thiện trở thành loại người lưu manh, khốn nạn. Cũng như lần trước Chí lại thất bại trước cái khôn róc đời của cụ Bá. Chí bị gạt mà không hề nhận ra. Âm mưu của Bá Kiến mới thâm độc làm sao. “dùng độc trị độc”, dùng Chí Phèo để trị đội Tảo. cả Chí và đội Tảo đều là kẻ thù của hắn, nên vả chăng có xảy ra xô xát, ai được ai mất cụ Bá nhà ta đều có lợi, vừa thỏa mãn được ý định trả thù, vừa không phải mang tiếng là kẻ thù nhỏ nhen đê tiện. 
Lần thứ ba: cũng là lần chót Chí đến gặp Bá Kiến. Cũng với dáng dấp của một thằng say rượu nhưng lần này Chí mang trong mình một tâm trạng, một ý định khác hẳn với những lần trước. Bởi vì Chí Phèo sau khi bị Thị Nở cự tuyệt tình cảm của mình, Chí hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Chí chỉ ước ao trở lại làm anh dân cày bình thường với mối tình Thị Nở- Một người đàn bà không thể có người khác xấu hơn. Vậy mà không được. Cuộc đời hoàn lương của Chí bị xã hội quay lưng. Cánh cổng cuộc đời khép lại trước mặt Chí, đã chặn đứng đường trở về của Chí, đã cự tuyệt quyền làm người của một con người. Cuộc đời tàn nhẫn chối bỏ Chí. Vĩnh viễn Chí không tìm thấy hạnh phúc ở cuộc đời này. Bản chất người vừa phục thiện trỗi dậy lại bị đè bẹp không thương tiếc. có thể nói đây là những giờ phút tỉnh táo nhất trong quảng đời say khướt của Chí. Những phút mà ý thức phản kháng trỗi dậy. Đi gần hết cuộc đời, cho đến lúc này Chí mới phát hiện, mới nhận ra chân lý cuộc sống. Dù là muộn màng nhưng với Chí sự khám phá ấy quý giá biết bao. Và Chí quyết giữ chặt lấy nó không để nó tuột khỏi tầm tay dù là phải trả mọt giá rất đắt. Chí như vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài. Một sự chuyển biến rất lớn đang diễn ra trong tâm hồn của Chí. Ấy là sự trỗi dậy của tính người, tính lương thiện. Chí đã nhận ra chân tướng kẻ thù. Kẻ ấy là Bá Kiến chứ không ai khác, cho nên lẽ ra phải đến nhà Thị Nở thì tiềm thức sâu xa đã dẫn Chí đến nhà Bá Kiến “ Một tính cách thật độc đáo, vừa là một gã mất trí, một công cụ trong tay bọn thống trị, vừa là người nô lệ thức tỉnh.Một đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khát quát sâu sắc, vượt ra ngoài tầm khôn ngoan lọc lỏi của Bá Kiến: “ Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?”. “Một nhân vật như thế chỉ có thể là của Nam Cao”( Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh-Chân dung văn học). 
Trong lần đối đầu sau cuối này, Chí hoàn toàn lột xác. Sự thay đổi đột ngột và nhanh chóng đến mức Bá Kiến không ngờ được. Chính vì không nắm bắt được đối phương, lại “ chủ quan khinh địch” nên Bá Kiến đã thất bại thảm hại. Hắn đã phải trả một giá rất đắt cho hành vi tội lỗi của chính hắn. Với dáng dấp hiên ngang ngạo nghễ, Chí chỉ tay vào mặt Bá Kiến mà ra lời dõng dạc: “ Tao muốn làm người lượng thiện”. Tư thế ấy ta chưa từng bắt gặp ở Chí. Trước đây hắn chỉ biết cúi đầu lế phép “ một điều bẩm cụ, hai điều lạy cụ”. Đó là sự chuyển biến và sự khẳng định mình của Chí. Ngôn ngữ của Chí càng lúc càng đậm màu sắc triết lý: “ Ai cho tao lương thiện? tao không thể là người lương thiện”. Lời cuối cùng được thốt lên với tất cả niềm cay đắng xót xa. Chí đã bị đẩy đến bước đường cùng. Cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở cho Chí thì đã bị đóng sầm lại. Chí đau đớn tuyệt vọng. Không còn lối thoát, không còn cách nào khác là kết án kẻ thù, giết chết Bá Kiến. sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa, vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. anh không thể sống kiểu lưu manh, không thể sống như thú vật nữa. Bởi vì lòng thương người của Thị Nở, chỉ một chút thôi đã đủ kéo Chí trở về cuộc sống làm người. “ Anh đã bâng khuâng mơ hồ buồn”. Anh đã nghe được âm thanh của cuộc đời: bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi chợ về …Những âm thanh bình thường quen thuộc ấy bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Cuộc gặp gỡ Thị Nở lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm mịt mù của anh. Anh bỗng nhận ra tất cả tình trạng bi đát của số phận mình. Anh bỗng thấy “ Thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Tức là anh vô cùng khao khát được mọi người nhận anh trở lại “vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của Thị Nở mở đường trở lại làm người. Nhưng con đường đó vừa được hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô của Thị Nở không cho phép cháu bà” đi lấy một thằng (…) chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ” . Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Tất cả quen coi anh là “quỹ dữ”mất rồi. Hôm nay linh hồn anh trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch đau đớn khi hiểu ra rằng xã hội đã cự tuyệt mình. Vậy thì anh phải chết! Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa đời phũ phàng đóng chặt trước mặt anh. Chí Phèo chết quằn quại trên vũng máu tươi của mình, chết trong niềm uất hận và đau thương lớn lao. Vì niềm khao khát mãnh liệt, thiêng liêng của anh là được sống làm người không thực hiện được. Chí Phèo khổ quá, cô đơn quá! Khi chết mọi người chỉ đứng nhìn, kể cả người vợ đã từng chung sống năm ngày cùng chỉ đứng nhìn mà thôi. Tình người đâu? Làm thế nào để con người sống được cuộc sống con người, trong cái xã hội ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy. Qua hình tượng Chí Phèo ngòi bút nhân đạo Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Đó là một vấn đề có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa triết học có tầm vóc lớn lao được đặt ra bằng một tài năng xuất sắc bậc thầy khiến cho “ Chí Phèo”Thuộc vào một trong những tác phẩm hay nhất, có giá trị nhất của văn học thế kỷ này. 
Tác phẩm “Chí Phèo” đã để lại trong lòng người bao trăn trở, bao suy tư ray rứt. Truyện đã phác họa thành công bức tranh về đời sống ở nông thôn Việt Nam thời kỳ 1930-1945. Nó đã trình bày sự mâu thuẫn và xung đột gay gắt giữa bọn cường hào ác bá và những người nông dân nghèo hèn rách rưới bị đẩy vào con đường tội lỗi mà tiêu biểu là NỖI ĐAU CỦA CHÍ PHÈO. Những mâu thuẫn nội tại ấy đã cho thấy sự xấu xa thối nát của xã hội đương thời. Hơn bao giờ hết, bức tranh nông thôn Việt Nam hiện ra mới xơ xác tiêu điều làm sao! Nó đầy rẫy những bọn người hèn hạ đốn mạt ( Bá Kiến. Bà Ba , đội Tảo…) Cũng như những tệ nạn xã hội: rượu chè, cờ bạc , trộm cướp…có thời cơ phát triển. Một xã hội không chỉ có sự bần cùng hóa mà còn có cả sự lưu manh hóa. Về điểm này tác giả xây dựng rất thành công chân dung của một người nông dân mới: Chí Phèo. Hình ảnh Chí trở thành một điển hình văn học. Một kiểu mẫu của loại người bị tha hóa về mặt nhân cách, vừa sống động vừa độc đáo mới mẻ. Cũng qua đó bật lên tiếng lòng nhân đạo cao cả. Một sự cảm thông, một thái độ trân trọng sâu sắc đối với số phận của người nông dân cùng bị xã hội chà đạp, ruồng rẫy, chối bỏ thậm chí tước bỏ cả quyền làm người. Những kẻ mà xã hội cho là cực kỳ xấu xa ấy, dưới con mắt yêu thương của tác giả vẫn còn một chút gì là tình người. Tình người và sự phản kháng muốn chống lại xã hội, muốn bứt ra khỏi cái xã hội vô nhân đạo, không có một chút tình người. Toát lên từ tác phẩm là niềm khát khao hạnh phúc, khát khao quyền làm người. Đặc biệt là tiếng kêu trước lúc giãy chết của Chí Phèo. Đó là tiếng kêu cứu của một con người. Một số phận bị vùi dập “Ai cho tao lương thiện? Tao muốn làm người lương thiện”. Tiếng kêu mới đau đớn và tha thiết làm sao! Nó cứ xoáy vào lòng người. Nó làm ta băn khoăn, ray rứt không nguôi. Nó kêu gọi hay nói đúng hơn là nó đặt ra một vấn đề cấp thiết. Một vấn đề chung không của riêng ai: ấy là “ số phận con người”. Nó kêu gọi tình người, kêu gọi sự quan tâm đến những kẻ bất hạnh. Kêu cứu vấn đề nhân phẩm con người đang trên đường bị hủy hoại. Nó đặt ra nhiệm vụ nóng bỏng của thời đại là hãy cứu lấy nhân phẩm, hãy bảo vệ quyền làm người của một con người. 
Tác phẩm có giá trị tố cáo xã hôi vô nhân đạo. Con người không thể nào sống nổi với nó. Cùng quẫn, bế tắc cảnh ao tù nước đọng. Chí Phèo này chết đi, có Chí Phèo con ra đời thay thế. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm miêu tả Thị Nở “ Thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, vắng người qua lại”. Phải chăng tác giả kín đáo báo hiệu một Chí Phèo con sắp sửa ra đời. Có người cho rằng đó là kết thúc bi quan. Tại sao không nghĩ rằng, Nam Cao đang kêu gọi chúng ta hãy cứu lấy những đứa con của Chí Phèo. Hãy đập nát lò gạch cũ để con người sống với nhau trong sáng hơn, cao đẹp hơn!
Viết về nỗi đau đó thật vô cùng ý nghĩa cho cả hôm qua, hôm nay và mai sau, tùy cấp độ khác nhau nhưng nỗi đau vẫn còn. Tác phẩm của Nam cao vì thế vẫn còn rất mới và mãi mãi trường tồn với thời gian. 
IV. VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT CỦA NAM CAO 
Tác phẩm của Nam Cao ghi lại những chuyện đời thường nhưng sao lại có sức gắn đến thế với cả cuộc đời rộng lớn. Cái tiếng thì thầm của tác phẩm lại có sức ám ảnh đến đối với nhiều lớp người trong hành trình cuộc đời. Giữa bao thăng trầm của lịch sử, truyện của Nam Cao là một đối tượng đầy hấp dẫn mà mỗi lúc nghĩ đến là gợi cả một bức tranh đời. Cả một tiểu vũ trụ nhân gian với bao màu sắc vừa hài hòa vừa tương phản. 
Nhà văn Nam Cao tuy không phải là nhà văn đầu tiên của dòng văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930-1945. Đã có biết bao cây bút nổi danh. Nhưng Nam Cao đã vươn tới đỉnh cao bởi vì Nam Cao có một phong cách riêng, không lẫn với ai được. Nếu không có Nam Cao thì trong lịch sử văn học sẽ trống đi một chỗ trong việc phản ánh đất nước. Tâm hồn con người sẽ thiếu đi một cây bút xuất sắc trong nền văn học dân tộc. 
Tuyên ngôn nghệ thuật của cụ là: “ Văn chương chỉ dung nạp được những ai biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có…” Nam Cao không dừng lại ở những hiện tượng bề mặt. Ông cố gắng đi sâu vào một bản chất của một sự vật và bày tỏ thái độ đồng cảm xót thương đối với những tâm hồn lao khổ. Tấm lòng yêu thương nhân đạo và sự hiểu biết sâu sắc về con người, đời sống ở thôn quê đã giúp Nam Cao xây dựng hình tượng người nông dân sinh động. Từ một làng quê heo hút của mình, nhà văn đã mở ra cả một thực trạng nông thôn đang thời kỳ lột xác. 
Nam Cao có được một thi pháp rất độc đáo. Tác phẩm Nam Cao bộc lộ một kiểu tư duy mới. Tư duy phần tính đặc biệt thể hiện xuất sắc kiểu tâm lý nhân vật lưỡng khả- một lại tâm lý dang dở giữa tỉnh- say, khóc- cười..ý thức và vô thức. Sức hấp dẫn ở sự phân tích nhân vật sắc sảo. Nam Cao chú ý đến nội tâm hơn là ngoại hình nhân vật. (trừ những trường hợp có dụng ý đặc biệt thuộc về những chi tiết nghệ thuật). Dường như mọi đặc sắc nghệ thuật của Nam cao đều gắn với sở trường ấy: vấn đề đói miếng ăn và nhân phẩm con người. Vấn đề tưởng như cũ nhưng rất mới như vấn đề “ sống mòn”, vấn đề tha hóa cho đến nay vẫn còn rất mới. Vấn đề đói ăn , thiếu mặc chưa khổ bằng vấn đề bị tha hóa nhân phẩm con người. 
Nam Cao là người thực sự viết bài ai điếu tiễn đưa người nông dân vào cõi chết. Và chỉ có Chí Phèo mới là người trôi xa nhất trong dốc trượt của cuộc đời – là “cột mốc cuối cùng đi tới của các số phận”. Ngòi bút của Nam Cao như nhỏ từng giọt nước mắt theo số phận Chí Phèo. Nam Cao đã tìm được lối viết rất riêng. Khuôn mặt nhân vật của Nam Cao rất xấu: những Chí Phèo, Thị Nở, Trạch Văn Đoành… hình thức đó phải chăng là báo hiệu sự tha hóa,bóp méo về tâm hồn của họ (xét về mối tương đồng) mà cũng có thể dụng ý của nhà văn là ở cái xã hội ấy phải sản sinh ra những con người ấy. Nhưng xét về mối tương phản có lẽ  nhà văn muốn nhắc chúng ta hãy nhìn cho kỹ kẻo lầm. Thị Nở xấu xí vậy nhưng vẫn còn chút thương người. Còn Bá Kiến không xấu về hình thức nhưng lại độc ác giã man vô cùng. Ở Chí Phèo anh vẫn có điểm sáng. Anh ước mơ được trở lại cuộc sống con người lương thiện… 
Anh đã giải quyết một cách thông mình cho đường đi không thể nào khác của số phận mình khi bị cuộc đời chối bỏ. Lối đặt tên nhân vật của Nam Cao lại cũng khác người. Nam Cao rất hiện thực và nhân đạo. Ở Nam Cao cái làm nên nghệ thuật là cái bình thường hàng ngày. Như vậy có thể nói mỗi chi tiết trong tác phẩm vừa là đơn thể vừa là chỉnh thể. Mỗi giọt nước mắt được Nam Cao miêu tả cũng chính là giọt nước mắt ấy đồng thời là cả biển cả khổ đau. 
Nam Cao xứng đáng là nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam. 
V-KẾT LUẬN 
Nam Cao ra đi để lại cho đời sau, những thế hệ người đọc một số lượng tác phẩm không nhiều nhưng đạt đến đỉnh cao của dòng văn học hiện thực phê phán. Đọc “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố,” Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, chúng ta từng bắt gặp những con người bị dồn đẩy đến chân tường và cũng đã chứng kiến không ít những số phận éo le.Nhưng đến Nam Cao cảnh nghèo đã thấm thía qua từng trang sách. Và người đọc cứ day dứt không nguôi về bi kịch của con người bị đẩy đến tận đáy cùng xã hội. Không có một nỗi khổ nào hơn nỗi khổ của Chí Phèo khi bị tước cả quyền làm người, quyền được lao động, quyền được mơ ước yêu thương. Do bị áp bức đè nén quá nặng nề, cờ bạc rượu chè cùng quẫn, đói ăn thiếu mặc, liều lĩnh. Chí Phèo là một kiểu nạn nhân đau khổ mà số phận của anh là một lời tố cáo mạnh mẽ, một tiếng kêu đau thương. Chí Phèo là sản Phẩm của một hoàn cảnh xã hội bế tắc. Con người bị tước đoạt hết mọi quyền sống tối thiểu nhất và bị xô đẩy vào vòng tội lỗi. Những truyện ngắn viết về người nông dân biến chất đã miêu tả quá trình suy sụp của họ trên cái dốc đời mà Chí Phèo là người trôi xa nhất nên cuối cùng rơi vào đáy tội lỗi. Nhưng điều đáng quý là anh đã mong muốn trở về con đường lương thiện. 
Con đường hoàn lương không thực hiện được vì bị kẻ thù chặn đứng lại, nhưng chính trên chặng đường ngắn ngủi này, bộc lộ bao xót xa đau đớn của nhân vật muốn khẳng định lại những ước mong chân chính được làm người. Do đó giá trị nhân đạo của vấn đề càng sâu sắc. 
Nam Cao là một nhà văn tài hoa, giàu lòng nhân ái. Chỉ tiếc rằng cụ ra đi quá sớm nhưng sự nghiệp văn chương ngắn ngủi đó đã để lại cho chúng ta một “Chí Phèo” và những truyện ngắn khác vẫn còn mãi với thời gian. 
Thành phố Huế Tháng 7/1995
Hoàng Thị Bích Hà 
 


  Trở lại chuyên mục của : Hoàng Thị Bích Hà