HOÀNG THỊ BÍCH HÀ
 
Thơ Dzạ Lữ Kiều rất thực, rất đời
và cũng rất ngọt ngào, lãng mạn!

( Phần 1)



Chân dung 
Dzạ Lữ Kiều
 

Hè năm nay, anh tặng tôi một số tập thơ đã xuất bản và những tập thơ chỉ in để dành tặng bạn bè và bạn đọc tri âm. Rất vui khi được anh gửi gắm những đứa con tinh thần của mình, tôi bắt đầu nghiền ngẫm thơ anh như đi vào “thế giới chữ nghĩa” của anh, là lần theo những cảm xúc của anh để tìm hiểu về một hồn thơ đậm chất đời và chất hào sảng, phong sương của lính.
Khi anh có thơ đăng trên báo chí thì tôi còn oe oe khóc trong nôi. Có lẽ cùng thời với anh đã có nhiều cây viết đồng hành cùng với những vui buồn trong đời thơ anh. Tôi chỉ là kẻ hậu sinh, xin ghi lại những những nhận định của mình theo góc nhìn của một người đọc yêu mến văn chương, cũng là tấm lòng của hậu bối đối với bậc đàn anh trong giới cầm bút. Đó cũng là lòng trân trọng biết ơn của người đi sau đối với người đi trước với những lao động nghệ thuật đáng quý. Bởi người viết cũng như người thư ký của thời đại, thông qua tiếng lòng của họ, ít nhiều người đọc sẽ hiểu được những vui buồn của phận người gắn với những vui buồn nhân thế, của thời đại mà họ đã sống và trải nghiệm.

1. Vài nét về tiểu sử văn học của Dzạ Lữ Kiều
Nhà thơ Dzạ Lữ Kiều tên thật là Trần Xuân Thái. Anh sinh năm Quý Mùi tại Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh học hành và trưởng thành tại Huế. Dzạ Lữ Kiều bước vào văn giới cùng thời gian anh bước vào đời lính. Tuổi trẻ của anh cũng như bao thanh niên cùng thời lên thác xuống ghềnh, hành quân, áo trận…sau 1975, anh rời quân ngũ và đi vùng kinh mới, những bộn bề cơm áo với những khó khăn chung của đất nước thời hậu chiến …Những trải nghiệm đó là chất liệu làm nên thi ca đẫm chất đời và chất lính của Dzạ Lữ Kiều.
Hiện tại anh sống và viết tại Buôn Mê Thuột, gia đình êm ấm với người vợ hiền chung thủy và những đứa con ngoan.
Những sáng tác trước 1975: Thơ đăng các báo: Văn, Thời Nay, Chọn Lọc, Thứ Tư Tuần San, Thẫm Mỹ, Chánh Đạo, Tia Sáng… bằng những bút danh khác như: Dzạ Trầm Thảo, Hương Văn.
Sau 1975: Tiếp tục cộng tác với các báo trung ương và địa phương:
Các tác phẩm đã xuất bản:
- Giọt Huế Mưa, Nxb Hội nhà văn 2007
- Giọt Mắt Đắng, Nxb Văn Nghệ 2009
- Giọt Sương Khuya, Nxb Hội nhà văn quý III /2012
- Giọt Nắng Phai, Nxb Hội nhà văn, quý IV/2015
- Giọt Tình Quê, Nxb Thuận Hóa 2019
Thơ, truyện ngắn in riêng dành tặng người thân và bạn đọc tri âm:
- Lời Gió Chướng, 2022
-Tạ Từ Phượng Vỹ
- Tập truyện ngắn: Bến Đời
-Tuyển tập thơ: Những Bước Chân Thầm
Góp mặt trong hơn 15 tác phẩm với các tác giả thơ Việt Nam đương đại, có nhiều bài thơ đã phổ nhạc và cũng đã gặt hái được một số giải thưởng đáng ghi nhận (xem bìa 3 tập thơ Những Giọt Sương Khuya, Nxb Hội nhà văn quý III/2012)
Tôi đã được đọc trên bốn trăm bài thơ của anh trong các tập thơ nói trên. Cho thấy tiếng lòng của thi nhân với cuộc đời, với tình yêu. Đó là những dòng cảm xúc chân thành thông qua câu chữ để anh gửi gắm nỗi niềm được diễn đạt bằng ngôn từ bình dị mang âm hưởng xứ Huế, giàu sắc thái tình cảm. Những vần thơ tha thiết tình người, tình đời và rất đỗi chân thành. Ngọt ngào, lãng mạn trong tình yêu, đầy tình nghĩa với người thân, bạn hữu. Khắc khoải ưu tư với nỗi buồn nhân thế và cũng nhiều chiêm nghiệm qua thăng trầm dâu bể của đời người. Được thể hiện phong phú bằng nhiều thể loại thơ như: lục bát truyền thống, thơ tự do, thơ ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, thể loại thơ văn xuôi… Ở thể thơ nào anh cũng tỏ ra rành trong cách gieo vần lập tứ và có chiều sâu trí tuệ. Bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn. Hầu hết các sáng tác của anh được bắt nguồn từ cảm hứng trữ tình, đôi khi có cả cảm hứng tự sự, khi tách bạch, khi đan xen thật hài hòa cân đối khiến thơ anh neo lại trong lòng bạn đọc với những ấn tượng đẹp.

2. Thơ Dzạ Lữ Kiều là là nỗi lòng nhớ nhung khắc khoải của người con xa Huế.
Đó là những vần thơ chất chứa tình yêu, là tấm chân tình anh dành riêng cho Huế. Bởi Huế đối với anh là cả những ân tình sâu nặng đầy da diết nhớ mong đã in sâu vào tâm khảm, là những ký ức ngọt ngào. Những địa danh, danh lam thắng cảnh của Huế như sông Hương, cầu Trường Tiền, Vĩ Dạ, Chùa Từ Đàm, dốc Nam Giao, Đại Nội luôn hiện diện trong thơ anh. Ở đó đầy ắp cả khung trời kỷ niệm.
“Ta theo em về bến đò xưa
Một thời đầy ắp tuổi mộng mơ”
(Bến xưa-Giọt tình phai)
Dù có đi chân trời góc bể, tâm tư anh vẫn luôn nghĩ về Huế, tâm hồn anh vẫn Huế vương mang:
“Ta…
Rời xa Huế
Rồi em
Câu thơ ở lại
ủ mềm lối xưa
gặp em
Một buổi chiều mưa
Bàn tay bịn rịn bên bờ Hương Giang”
(Chào M- Giọt nắng phai)
Có thể nói Huế là nguồn cảm xúc không bao giờ vơi cạn trong hồn thơ Dzạ Lữ Kiều. Những vần thơ nặng lòng với Huế chiếm phần lớn trong các sáng tác của anh. Đúng như niềm tâm sự thao thiết của anh gửi vào thơ:
“Ôi Huế bao mùa ta xa nhớ
Làm sao nói hết những ân tình”
(Nhớ- Giọt nắng phai)
Nỗi nhớ Huế trong anh luôn trỗi dậy bật ra thành cảm xúc và tràn cả vào thơ rồi lan sang bạn đọc.
“Bỗng dưng ta nhớ Huế lạ lùng
Nhớ mái trường xưa nhẹ bước chân
Nhớ tà áo trắng chiều tan học
Nhớ mái tóc thề theo gió vươn”
( Nỗi nhớ-Giọt nắng phai)
Anh lập nghiệp ở vùng đất cao nguyên, có thể nói gia đình anh đã bén rễ ở đây. Anh cũng đã quen với đại ngàn nắng gió. Vùng đất nơi đây cho quả ngọt trái sai để cho những cuộc đời tha hương như anh giờ có thể gọi là “no cơm ấm cật”. Anh cũng đã yêu vùng đất mới này với những đặc điểm rất riêng: hoa cà phê bạt ngàn và âm vang tiếng cồng chiêng ngân dài trong gió. Nhưng có lẽ Huế vẫn là cõi nhớ trong anh không gì thay thế!
Huế của anh gắn với những kỷ niệm thật ngọt ngào và lãng mạn. Huế vẫn là giấc mơ đẹp ngày về:
“Ước được ngày về… thăm Cố Đô
Dìu em gái Huế nón bài thơ
Qua cầu e ấp tà áo tím
Cà phê Thành Nội mãi ngóng chờ”
(Cà phê nhớ- Giọt nắng phai)
Huế trong anh là nhịp đập trái tim, là hơi thở, là lẽ sống. Tim thì phải luôn gõ nhịp để duy trì sự sống thì theo anh sống là để nhớ thương Huế không nguôi:
“Một đời ta thương Huế
Như nhịp đập trái tim”
(Huế thương- Giọt sương khuya)
"Ân tình Huế đã bao năm dồn nén
Xa thật rồi! Nhưng đọng mãi trong tim”
(Lưu tình- Giọt sương khuya)
Quê hương Huế gắn liền với những kỷ niệm của một thuở đầu đời. Ở đó thấp thoáng hình bóng giai nhân từng làm rung động con tim thời trai trẻ của Dzạ Lữ Kiều, năm tháng trôi đi trong lớp bụi thời gian nhưng vẫn trở thành những kỷ niệm khó phai.
“Niềm thân ái dấu hoài rất có thể
Khung trời xưa mấy ai dễ kiếm tìm
Từ muôn kiếp ta gắn liền duyên nợ
Thì dễ gì năm tháng đã quên tên”
(Đoản khúc yêu- Giọt nắng phai)
Thuở tan trường một thời chung bước, nụ cười, ánh mắt của người xưa tưởng chừng ngủ yên trong tâm khảm trên bước đường dạn dày sương gió. Nhưng mỗi lần trở lại Huế thì những kỷ niệm lại ùa về với những hình ảnh thân quen: nét buồn trên mi, tà áo dài, ánh mắt đó lại vấn vương khi đặt chân lên những lối đi quen.
“Về quê nhặt nụ Huế buồn
Từ em đánh rớt cuối đường ngày xưa
Thuở còn những buổi đón đưa
Sân trường Đồng Khánh ai chờ đợi ai?”
(Huế và em - Giọt nắng phai)
Tình yêu dành cho Huế chất chứa trong lòng anh. Tôi có cảm giác là với anh thì những cảm xúc dồn nén chỉ chờ có dịp là tuôn trào lên câu chữ để thành thơ. Bởi Huế là quê hương xứ sở, nơi đó có người thân, bạn bè tri âm. Đặc biệt ở đó có mối tình trong trắng thơ ngây của tuổi học trò, không dễ gì quên.
“Một thời mộng ước song đôi
Dìu em đi giữa khung trời Huế thương
Áo dài soi bóng dòng Hương
Đường vô Thành Nội nắng vương tóc thề”
(Một mình dưới trăng- Giọt sương khuya)
Những kỷ niệm thuở nào nằm yên trong ký ức chợt thức dậy khi có tứ thơ đẹp để anh có những câu thơ đầy rung cảm, lưu lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc:
“Đưa em về…còn mưa bay
Ngồi sau xe ấm vòng tay
Mượn bờ môi chạm nhẹ
Mới hay tình đã đong đầy”
(Đưa em về …đêm mưa- Giọt nắng phai)
-“Ta một đời lãng tử
Từng sợi tóc vờn bay
Nhưng trong tim yêu Huế
Thao thiết đến từng ngày”
(Màu tím tôi yêu- giọt nắng phai)
Mối tình đầu bao giờ cũng vậy, rất ngọt ngào nhưng cũng lắm đắng cay, không phải cứ tình yêu nào cũng đơm hoa kết trái. Những mối tình thời son trẻ thường dang dở không thành:
“Thời gian trầu đã bén vôi
Cau tôi chưa trổ nụ phơi nắng hè
Thế rồi em bỏ sông quê
Bến tình tôi đứng bên đê ngóng chiều”
(Kỷ niệm xa rồi- Giọt tình quê)
Anh dùng những động từ như: vói, nhặt, ép, hong, treo... rất cụ thể bên cạnh những danh từ trìu tượng kết hợp một cách khéo léo với những thi liệu: cánh phượng hồng, lưu bút, nỗi nhớ làm cho câu thơ giàu hình ảnh và có giá trị biểu đạt cao.
“Vói tay nhặt
Cánh phượng hồng
Ép vào lưu bút
Để hong cuộc tình
Em chừ qua ngõ lợi danh
Ta treo nỗi nhớ
lên cành phượng khô”
(Khúc tình cuối hạ- Giọt tình quê)
Đi qua những cuộc tình không vẹn, trong dâu bể đời người. Anh có nhiều trải nghiệm, hay nói cách khác là vốn sống. Có ai đó nói rằng “hãy sống rồi mới viết”. Nghiệm lại thấy đúng, những kinh nghiệm sống, những trải nghiệm trên đường đời cùng với năng khiếu thiên bẩm để thi nhân có những bài thơ hay, câu thơ hay đầy chiêm nghiệm và có tính triết luận nhẹ nhàng:
“Tình yêu như bóng qua cầu
Nào ai giữ được bền lâu cho mình”
(Tình ảo- Giọt nắng phai)
Vâng! Khi chúng ta ý thức được điều đó thì sẽ sớm lấy lại thăng bằng mỗi khi gặp trắc trở sóng gió trên đường đời. Đến và đi, mọi việc tùy duyên thôi! Nỗi buồn xin gửi vào thơ cho nhẹ lòng mà đứng lên, bước tiếp.
“Sông đời nước biếc trôi mau
Sông tình ai biết ngày sau mà lường
Em theo lộng tía tha phương
Tôi đứng bên đường nhìn ánh chiều phai”
(Nhìn cánh phượng rơi- Giọt tình quê)
Anh có những câu thơ thật buồn mà đẹp:
“Tre buồn oằn bóng nước xao
Tưởng chừng kỷ niệm quất vào tim tôi
Khi em bỏ lại cuộc chơi
Về chân trời tím ru lời hắt hiu”
(Về lối Hạ- Văn xá, Thừa Thiên Huế)
-“Em chừ trốn mãi nơi đâu
Để ta tìm kiếm gầy hao mắt tình
Phải chi em đứng một mình
Để ta thấy được bóng hình ngày xưa”
(Tháng tư về- Lời gió chướng)
Anh cũng hé lộ cho chúng ta biết một lý do để cuộc tình khộng trọn là:
“Tôi vào quân ngũ em biền biệt xa
Đêm chiến tuyến - ánh sao xa
Để rồi nỗi nhớ nhạt nhòa từng đêm
Đường hành quân cứ liên miên”
(Chuyện tình bên sông- Giọt sương khuya)
Đặc biệt hơn hết anh dành những câu thơ đầy ân tình sâu nặng cho đấng sinh thành của một người con chí hiếu. Anh thấu hiểu những hi sinh thầm lặng, những vất vả lo toan, của cha mẹ tảo tần nuôi dưỡng con cái nên người, nhất là trong thế cuộc tao loạn, vất vả biết chừng nào của song thân. Và anh tự trách mình nơi xa xôi chưa đáp đền ân nghĩa.
“Đời cha gian khổ nhiều rồi
Con chưa báo đáp được lời nghĩa ân
Thân cha nào kể ngọt bùi
Bao nhiêu nước mắt nuốt trôi vào lòng
Miếng cơm khi đói nhường con
Cũ rừng thiếu bữa bào mòn xác thân
Vẫn mong con vững đôi chân
Bước trên gian khó những lần ngã đau”
- “Lời cha vời vợi Thái Sơn
Nuôi con không kể nỗi buồn gian lao
Mặc trời mưa nắng dãi dầu
Gót chân nứt nẻ, đồng sâu cấy cày”
(Ơn cha- Giọt nắng phai)
Những vần thơ dành cho mẹ cũng thật cảm động:
“Chiều đông mưa rả rích buồn
Nhớ sao cái thuở tan trường tuổi thơ
Mạ lóng ngóng chiếc áo mưa
Chờ con ra lớp- giờ trưa đón về”
(Tuổi thơ& Mẹ- Lời Gió Chướng)
Giờ đây mẹ đã phất tay rũ áo về trời nhưng hình bóng mẹ vẫn in đậm trong tim thi nhân với những kỷ niệm đầy ắp tình mẫu tử:
“Mẹ giờ ở cõi u minh
Con nào hiểu được ân tình sẻ chia
Chỉ còn đây mảnh trăng khuya
Là hình bóng mẹ hiện về ru con”
(Vầng trăng mẹ- Giọt nắng phai)
Huế vẫn đây mà người thân đấu tá? Hình bóng mẹ hiền không còn chờ con bên hiên nhà nữa! Mẹ đã về miền viên miễn! Cảm giác đơn côi của đứa con không còn mẹ (dù ở độ tuổi nào) thì mất mẹ là một nỗi mất mát lớn không gì bù đắp nỗi. Dẫu biết đời là vô thường nhưng quê hương đây rồi mà mẹ ở đâu? Mẹ không còn thì sự hụt hẩng đến vô cùng, đặc biệt đêm về quạnh vắng, trở mình thức giấc cũng nghe như tiếng kinh thành khóc nức nở. Đó là tiếng lòng thi nhân trong tiếng nấc nghẹ ngào khi nghĩ về mẹ:
“Đêm trở gối nghe kinh thành nức nở
Tưởng tim mình tan vỡ giữa cô đơn
Nhớ sao ngày mẹ hao gầy
Nhường cơm sẻ áo cho bầy con thơ”
(Giọt Huế mưa- Lời gió chướng)
Với người bạn trăm năm anh có những vần thơ đầy ân nghĩa thủy chung: (Thơ đề tặng hiền thê Diệu Linh)
Ngày gặp em…áo tím
Từ thuở còn thơ ngây
Ta yêu em từ đó
Theo ngày tháng nồng say
Nghiệp duyên dài bến đỗ
Dòng Hương biếc vơi đầy”
(Tôi yêu màu tím- Giọt nắng phai)
Nhờ có người vợ hiền chung thủy để tâm hồn anh neo đậu, khi dấn thân trong gió bụi trường chinh và thỏa chí tang bồng hồ thỉ. Và để thả hồn theo con chữ của đời nghệ sĩ mà duyên nghiệp viết lách đã vướng vào anh.
“Phải chăng chút nghĩa đá vàng
Giúp tôi giữ được tiếng đàn ngày xưa
Trăm năm ân nghĩa có thừa
Dìu tôi đi giữa nắng mưa cuộc đời”
(Lạc bến- Giọt sương khuya)
Người lỡ “mắc duyên vào bút mực”(từ dùng của Nguyễn Bính) nhất là người sáng tạo thi ca thường có tâm hồn lãng mạn. Đôi khi thả hồn bay bổng lên tận chín tầng mây, nô đùa cùng các tiên giới hoặc giai nhân trong đời thực (dù chỉ trong thơ). Nên rất cần sự cảm thông và thấu hiểu, sẻ chia của người bạn đời chung thủy. Viết lách âu cũng là nghiệp dĩ văn chương. Nếu tâm hồn không lãng mạn thì không thể sáng tạo được văn chương. “Em” biết điều đó phải không? Nên xin em chớ hờn ghen! Anh có những câu thơ tài hoa mà tôi rất tâm đắc:
“Em trách tôi con tim thường vụng dại
Ngăn chứa nhiều chỉ làm khổ thân thôi
Khi đã biết nợ duyên tình phải trả
Em hãy là bồ tát của lòng tôi”
(Trước bình - Giọt tình quê)
Với tri kỷ anh cũng có những câu thơ hay:
“Mượn em chiếc bóng Paris
Với dòng Seine biếc làm di chứng buồn
Riêng ta chất Huế còn vương
Tỉnh say vẫn giữ con đường “Đế Kinh”
(Uống rượu với bóng- Giọt nắng phai)
Với bạn bè:
- “Trong tôi anh vẫn là người bạn chung thủy
Với nàng thơ dù nghiệp chướng phong ba
Anh vẫn ước giá con đường đầy hoa mỹ
Thì anh- tôi nước mắt đâu có nhòa”
(Bến đò- Giọt nắng phai)
Những lúc rảnh rỗi bạn bè lại bên nhau với tách cà phê chia sẻ vui buồn trong cuộc sống:
-“Mưa chiều ra phố uống cà phê
Hạt đậu tóc phai hạt mi nhòe
Bạn bè mấy đứa còn sót lại
Ngẫm chuyện đời mưa nắng cùng nghe”
(Cà phê nhớ- Giọt nắng phai)
Người lính không quân ấy, trên bước đường lữ thứ mỗi lần nghe tiếng mưa rơi cũng chạnh nhớ quê nhà:
“Nào hay lạc mãi mùa xuân
Trôi theo vận nước xa dần dòng Hương
Ta chừ lang bạt tha phương
Vẫn nghe xa xót đêm buồn Huế mưa”
(Giọt Huế mưa- Lời gió chướng)
… ( Còn tiếp)


  Trở lại chuyên mục của : Hoàng Thị Bích Hà