HOÀNG YÊN LINH


  Đông Hà Năm Cũ...Với Ngày Xuân                                                


                  Đông-Hà tháng 2-1972.Buổi sáng cùng với những đứa bạn ngồi ở quán cà phê Văn-Tường nhìn ra bến xe,buổi sáng chia tay đầy nắng và gió.Buổi sáng vẫn còn phảng phất một chút không khí an bình của thời chiến...Tôi ra đi và vẫn nghĩ chỉ một năm sau sẽ trở về gặp lại người thân,bạn hữu...Và tôi không thể hình dung hơn 40 năm sau mái tóc đã ngã màu sương khói tôi vẫn chưa một lần trở lại. Và từ đó Đông-Hà còn lại trong ký ức tôi là thị trấn với con phố buồn hiu đi dăm phút đã về chốn cũ.Đông-Hà còn lại trong tôi đầy ắp kỷ niệm một thời tuổi trẻ.Và quảng đời thăng trầm nghiệt ngã,là những tháng năm trong trại tù cải tạo với nỗi ngậm ngùi cho số phận, là nỗi niềm cay đắng trên bước đường lang thang kiếm sống.Và tất cả trở về trong tôi như một thước phim dĩ vãng tràn đầy nhớ thương chua xót của một thời tin yêu, một thời đắng cay buồn thảm...

                    Những năm tháng chiến tranh, có những lúc đong đưa trên cánh võng ở một khu rừng nào đó, có những lúc đối mặt với cái chết rình rập tôi vẫn luôn dành trong ký ức một cố hương với bao hoài vọng tưởng tiếc...Vẫn hẹn với lòng mình rồi thế nào cũng có một ngày trở về tìm gặp người xưa,tìm lại cố xứ...Nhưng rồi tất cả đã tan biến theo thân phận người thua cuộc, sau bao cuộc bể dâu mà tình đời, tình người đầy dẫy những oan trái. Vẫn cố tự an ủi với lòng mình rằng người không phụ mình thì ra mình cũng sẽ phụ người vì định mệnh vốn dĩ đã an bài bao đắng cay, nghiệt ngã. Những tháng năm trên vùng sông nước mưu sinh chăn vịt thuê, một mình trên căn chòi vắng giữa đồng không mông quạnh, đêm đêm  nằm khoanh tay gối đầu nhìn xuyên qua mái lá trông những vì sao mà lòng bất chợt bình an lạ thường. Không oán hờn, không trách móc. Mới nghiệm ra rằng cuộc đời vốn dĩ sắc sắc không không...Hay một lần ngang qua phà Mỹ-Thuận gặp lại người bạn cũ đang kéo lê tấm thân tàn phế bán từng tờ vé số mới thấy lòng chùng xuống, nỗi đau không ầm ỉ nhưng tê buốt hóa ra cuộc đời bất hạnh đâu chỉ có riêng mình.

                      Khi viết những dòng chữ này,tháng năm còn lại của cuộc đời chẳng còn bao nhiêu nữa, tôi vẫn mãi là kẻ tha hương bất đắc dĩ, như một kẻ cô đơn lạc loài giữa rừng chiến khu kỷ niệm vẫn tự cố dối lòng mình bằng những giấc mơ không thật, bằng đêm đêm gối đầu lên chiếc gối êm đềm của trái mơ hạnh phúc. Không thành công thì cũng thành nhân, người xưa đã thường nói. Với riêng tôi dòng đời vốn không xuôi chảy thì tìm một chút bình yên qua những vần thơ. Thơ đối với tôi đôi lúc như những liều thuốc an thần giúp quên đi những nhọc nhằn,gian nan khốn khó, những đắng cay tủi nhục. Những bài thơ viết trong những ngày tháng chiến tranh bão lửa, những tháng năm tha phương buồn bã, những ngày cơ cực vì miếng cơm manh áo. Thơ để an ủi, để ngậm ngùi cho những ước mong bất toại, để tưởng tiếc những mối tình dẫu chung cuộc đã để lại trong đời những đớn đau...Biết đâu đó chẳng là hạnh phúc vì mấy ai cân lượng vơi đầy với những cuộc tình đã đi qua trong đời mình. Và làm cho lòng bình an xóa hết những hận thù lẫn đắng cay phiền muộn. Dẫu thế tôi không bao giờ là thi sĩ. Không, tôi chỉ là một kẻ yêu thơ, vui đùa với thơ và nghiệm ra rằng thơ trước sau với tôi là một người tình chung thủy.

                   Khi tôi viết những dòng hồi tưởng này tôi lại nhớ đến mấy câu thơ ngày cũ :
                                            Mai còn sống bọn ta về Đà-Nẵng
                                            Phố đông vui ta đập phá tan hoang
                                            Mai còn sống dẫu là thân què quặt
                                            Về cố hương tìm lại chút bình yên.
                                               ( Đà-Nẵng 1974 )
                   Vâng, một thời tuổi trẻ tin yêu và cuồng nhiệt để rồi cái giá ê chề phải trả cho cả một đời người. Dẫu vậy tôi vẫn không bao giờ nuối tiếc, tôi tự nhủ với lòng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được và không hổ thẹn với chính mình, không cảm thấy cắn rứt khi nhớ đến bằng hữu chiến trường...

                Ngày xuân trên miền đất cao nguyên ly rượu sóng sánh, khúc dân ca nhè nhẹ say đắm. Đôi mắt huyền hoặc, chiếc áo bà ba dịu dàng khiến lòng người tha phương bồn chồn xao xuyến. Và tôi lại thao thức nhớ về quê cũ. Đã hơn 40 năm rồi dòng đời qua đi trong lặng lẽ với bao nỗi niềm u uất. Tôi biết quê xưa giờ chỉ còn lại trong ký ức tôi mái chùa, bến nước dòng sông, những con đường nhỏ đầy dấu chân hò hẹn...Nhưng tình xưa, bạn bè cố nhân nay đã không còn nữa...

                     Vâng, hai tiếng cố hương ngắn ngủi nhưng đeo đẳng suốt cả cuộc đời tôi. Bỏ quê hương ra đi trong lửa đạn...Và tháng năm nhọc nhằn trĩu nặng nỗi cơm áo, cuộc sống tha phương đưa đẩy tôi trôi dạt đến miền Tây sông nước, ở đó tôi có được người bạn vong niên nay đã đi vào cõi vĩnh hằng. Ông Ba Saigon người đã giúp tôi làm thuê bốc vác ở bến cảng Gành Hào để kiếm sống,đêm đêm về làm thơ uống rượu, cái giọng khản đục của ông mỗi lần hài lòng một câu thơ nào của tôi : " Sáng mai tao dẫn chú mày ra chợ Bạc-Liêu uống rượu..."Nỗi xúc động khi về tìm lại người xưa:

                                             Tôi vể trăng nước còn đây
                                             Người xưa đã khuất chân mây cuối trời
                                             Bồi hồi bạn cố tri ơi
                                             Lá vàng rơi...lá vàng rơi...ngậm ngùi.

                           Những tháng năm lang thang ở Saigon còng lưng trên chiếc xích lô kiếm sống, đêm về thuê manh chiếu ngủ qua đêm ở xa cảng Miền Tây. Ở đó tôi đã được gặp nhạc sĩ Trúc Phương, cũng đêm đêm  về tá túc sau một ngày lang thang trên phố...Tình cảm dành cho nhau trong những ngày cơ cực để rồi nay kẻ còn người mất. Rồi những tháng năm ở miền Đông nắng lửa tá túc với người bạn già đốn củi đốt than. Những cơn sốt rừng dai dẳng, những bữa cơm trộn củ sắn rau rừng cái đói cứ chập chờn kể cả trong giấc ngủ...Những ngày lang thang với cái lý lịch màu đen bị đối xử tới tận cùng tủi cự...Rồi đến vùng cao nguyên nắng gió làm phu đập đá kiếm cơm vừa mưu sinh bằng nghề viết thuê cho những kẻ thừa mứa bạc tiền nhưng nghèo nàn chữ nghĩa, ngậm ngùi cho những đứa con tinh thần của mình chẳng bao giờ được mang tên tuổi chính mình. Cuộc sống vốn dĩ như những dòng sông con nước lúc đầy lúc vơi, bên lở bên bồi và thế thái nhân tình  như cảnh trời sáng nắng chiều mưa. Chính những tháng năm nhọc nhằn đó đã giúp tôi trưởng thành hơn, biết yêu thương khoan dung  hơn và cuộc sống dẫu thế nào chăng nữa vẫn cứ ngọt ngào hơn cái chết. Nhưng trên tất cả tôi vẫn khao khát ấp ủ một ngày về được sống,được nhìn lại dòng sông tắm mát thời thơ ấu,được nghe lại tiếng chuông chùa khoan thai dìu dặt, được đi lại trên những con đường xưa dẫu cố nhân đã ngàn trùng cách biệt.

                Vâng, cố hương - Nơi có tiếng hò từ thuở nằm nôi,có ngôi trường với nét chữ tập viết đầu đời,có áo ai bay trắng trời lộng gió...

                                  Đông-Hà ngoài đó bây giờ
                                  Có còn sông Hiếu đôi bờ... nhớ thương .
  Trở lại chuyên mục của : Hoàng Yên Linh