KHA TIỆM LY


ĂN TẾT VỚI MA
Truyện Truyền Kỳ
 
1. Bỏ nghiệp kiếm cung
 
Thời Minh Hy Tông (1605 - 1627), Hàm Phong, người Nhữ Nam, vốn dòng cung kiếm. Mười sáu tuổi đã làu thông thập bát ban. Một buổi đang luyện võ bỗng nghe từ biên cương phụ thân là Hàm tiên phuông cùng bào huynh đều tử trận, Hàm khóc rống lên rồi vứt mạnh bảo đao xuống đất mà rằng:
 
- Cái thứ vô dụng nầy còn đụng đến làm gì?
 
Hàm phu nhân cả giận, bảo:
 
- Tổ tiên ngươi mấy đời nhờ binh nghiệp mà rạng rỡ tông môn. “Đoạt Hồn Đao” nhà ta đã làm quân thù khiếp sợ. Nay ngươi đã không luyện cho tới nơi tới chốn để trả thù nhà, đền ơn nước, mà còn tỏ ý khinh thường. Tội bất hiếu ngươi có gánh nổi hay không?
 
Hàm thưa:
 
- “Làm cho quân thù khiếp sợ”, cớ sao phải bỏ mạng sa trường? Cho dù chiếm được nghìn vuông đất thì cũng phải đổi bằng hàng vạn cốt khô, có chi mà đáng tự hào? Xưa Khoái Triệt là kẻ trói gà không chặt, chỉ dùng ba tấc lưỡi giúp Vũ Tín Quân chiếm được liên thành mà chiến mã vẫn thảnh thơi nhai cỏ; Lịch Sinh là kẻ thư sinh bạch diện, chỉ hao một chút nước bọt mà giúp vua Hán chiếm gọn bảy mươi hai thành, ba quân không đổ một giọt máu tươi! Còn Hán Tín vai đầy thao lược, bụng ắp kinh luân; trong tay giữ muôn vạn hùng binh mà lại bị chết bởi kế mọn của một mụ đàn bà! Đàng nào đáng phục?
 
Thấy mẹ không vui, Hàm bèn quỳ xuống, đầu chạm đất, thưa rằng:
 
- Mẫu thân bớt giận, chẳng qua con cũng chỉ vì Hàm tộc mà thôi! Hàm tộc nhà ta từ cao tổ đến nay, bốn đời đều thân phơi chiến địa, da ngựa bọc thây, mà cuối cùng có được những gì? Có chăng là những sắc phong màu mè “Tận Trung Báo Quốc” “Thạch Trụ Giang sơn”! Những thứ đó không đổi được vàng ròng thiên dật của những thái giám kề cận mình rồng, cũng không sánh bằng ruộng đất nghìn vuông của những cẩu quan hút máu moi tim đám dân cùng khổ! Khi thanh bình thì chúng dùng miệng lưỡi cú diều hãm hại trung lương; thời binh lửa lại co cổ rút đầu trước tên thù, đạn giặc! Mới hay kim khôi không bằng mũ cánh chuồn, trường bào luôn hơn áo giáp!
 
Hàm phu nhân im lặng mà nước mắt rơi rơi.
 
Năm Sùng Trinh thứ 3 (1630), mấy tỉnh phương nam bị dịch, Hoàng Hà đê vỡ, nhà vua vì tham lam, u tối, không chịu xuất kho cứu giúp, nên nông dân, dịch tốt uất hận, nổi dậy chống lại triều đình, đời sống nhân dân vốn điêu đứng lại càng bi thảm! Người chết đầy đường, cọng cỏ không có mà ăn, có nơi phải giành nhau đào xác người mới chôn mà lấy tim gan lót dạ; tệ hơn nữa là đổi con làm thịt! Tình người còn thua dã thú!
 
Trước nạn đó, Hàm bèn cõng mẹ về đất Lý, dựng chòi dưới chân Lý Sơn, ban ngày săn bắn, đổi gạo nuôi mẹ, ban đêm quyết tâm mài miệt sách đèn.
 
2. Khách không mời.
 
Một tối đang sắc thuốc cho mẹ, Hàm bỗng nghe giọng nói như oanh từ cửa:
 
- Vừa nghe bá mẫu quí thể bất an nên tiện thiếp sang vấn an đây!
 
Hàm quay lại, vô cùng kinh ngạc khi thấy một kiều nữ áo lụa thướt tha mà chàng chưa từng gặp bao giờ. Bất chấp vẻ sững sờ của Hàm, kiều nữ vội đến bên Hàm phu nhân đang nằm thiêm thiếp, đưa tay bắt mạch, đoạn mở thang thuốc của Hàm còn lại, bốc lên xem, nhăn mày bảo Hàm:
 
- Uống thuốc nầy chỉ tổ bệnh thêm! Thầy thuốc bây giờ một là bọn thiếu tài, hai là lũ lương tâm bị chó tha đi mất!
 
Đoạn lấy trong tay áo một lọ thuốc màu xanh đưa cho Hàm, bảo:
 
- Hãy hòa vào nước cho bá mẫu uống sẽ khỏi ngay thôi!
 
Hàm cố giữ giọng ôn hòa:
 
- Làm sao ta tin được thuốc nàng đưa là thứ quỷ quái gì khi ta chưa biết nàng từ đâu đến?
 
- Hàm gia là ân nhân cứu mạng cả nhà thiếp, chả lẽ thiếp lại hãm hại ân nhân của mình sao?
 
Hàm nhất định không nghe, kiều nữ chỉ vào thang thuốc, dỗi hờn:
 
- Chàng chỉ biết luyện gươm, không biết gì về nghề thuốc, nếu có giải thích thì cũng bằng thừa! Đại để nếu uống thuốc nầy chẳng khác nào người tháo dạ mà lại cho uống bã đậu vậy!
 
Hàm quay đi, kiều nữ cắn môi:
 
- Nếu sau khi uống một khắc mà bá mẫu bị run người thì phải tự lo đấy!
 
Lại lấy trong tay áo một lọ thuốc màu vàng định đưa cho Hàm, nhưng rồi giận dỗi bỏ vào:
 
- Với kẻ ương ngạnh nầy thì có nói cũng vô ích thôi!
 
Đoạn bước nhanh ra cửa. Hàm thoáng ân hận, nhưng bóng hồng đã mất dạng.
 
Quả như lời kiều nữ, sau khi uống thuốc một chốc thì Hàm phu nhân run lên bần bật như kẻ ngồi trên đống băng, mồm lại láp dáp như kẻ mê cuồng. Hàm ôm mẹ khóc rống, thì kiều nữ từ cửa bước vào, giọng bề trên:
 
- Ta đã bảo mà không nghe!
 
Hàm vừa mừng vừa ngạc nhiên. Kiều nữ lại bảo:
 
- Là thầy thuốc, ta há vì một chút giận hờn kẻ vô tâm mà nỡ để cho con bịnh đau đớn hay sao?
 
Với thao tác thuần thục, kiều nữ nhanh tay châm vào các huyệt Hiệp cốc, Nhân trung, Trung quản, Thương dương, Dũng tuyền... đoạn lấy một chút thuốc trong lọ màu vàng lúc nãy, pha với nước cho phu nhân dùng. Thuốc vừa khỏi cổ, phu nhân thở “khì” một cái, thần sắc dần dần trở lại hồng hào. Kiều nữ bảo Hàm:
 
- Ngươi chớ lo nữa! Phu nhân đã hồi phục tám phần.
 
Hàm thi lễ:
 
- Đã trót mạo phạm, xin nàng chớ chấp. Ân đức nầy...
 
- Thiếp đã nói, Hàm gia mới là ân nhân của cả nhà thiếp, thì chút công mọn như hòn đất làm sao bù với ngọn Thái Sơn? - Đoạn, nhìn ra ngoài, tiếp:
 
- Trời ba mươi tối đen như mực, mà giờ nầy chỉ mới đầu canh. Chàng lại tiếc cho thiếp một chỗ ngả lưng sao?
 
Hàm bồi rối ra mặt, ấm úng chẳng ra lời. Kiều nữ than:
 
- Cái thân bơ vơ nầy có chết cũng vừa, ngặt vì làm mồi cho miệng sói rừng thật không đáng chút nào!
 
Rồi dợm bước. Hàm vội nói:
 
- Ta chỉ sợ mái tranh chật chội và giường chiếu đơn sơ không đáng tiếp nàng!
 
Kiều nữ mỉm cười:
 
- Người ta nói: “Bàn ăn mà có thêm đôi đũa thì cơm canh không phải nấu thêm”. Cái giường nầy, hai người nằm cũng còn rộng chán!
 
Bèn kéo Hàm cùng nằm. Phất tay áo làm tắt ngọn lửa của chiếc đèn đến hồi tàn lụn.
 
Đêm tối đồng lõa với hành động của hai người, nhưng lại tố giác tiếng cựa mình của chiếc giường và những tiếng rên khe khẽ tưởng chừng như của người bệnh, trong khi Hàm phu nhân đã an giấc tự lúc nào!
 
Đầu canh năm nàng choàng dậy, thư thả điểm trang. Bấy giờ Hàm mới có dịp và có tâm trí ngắm nàng tường tận: Đó là một nữ nhi tuổi chừng đôi chín, mắt phụng mày ngài, má môi như điểm phấn tô son, tóc mây tha thướt, diện mạo cực kỳ xinh đẹp, cốt cách phi phàm. Nữ nhân liếc Hàm, tủm tỉm cười:
 
- Tưởng đâu tránh được sói rừng, nào dè gặp con sói nhà nầy càng kinh khiếp hơn!
 
Đoạn đưa cho Hàm hoàn thuốc:
 
- Khi bá mẫu thức giấc, chàng cho người dùng “Định Thần Hoàn” nầy thì mọi việc không còn lo nữa!
 
Hàm ngồi phắt dậy:
 
- Nàng đi thật sao?
 
Lại cười, miệng đẹp như hoa:
 
- Giờ nầy sói rừng vào hang. Ở lại cho sói nhà nhai xương à?
 
Hàm nắm tay nàng:
 
- Ta không cam tâm khi chưa biết danh gia, quý tánh của nàng!
 
Lai tủm tỉm cười:
 
- Có duyên thì ngàn dặm cũng gặp nhau!
 
Rồi biến nhanh ra cửa, mất hút trong màn sương
 
Đêm sau, Hàm ngồi đọc sách mà cứ bồn chồn, lòng bứt rứt không yên, mặt u xào như lá úa, thì kiều nữ đến! Hàm vui ra mặt. Nàng lấy trong túi gấm nào rượu, nào thịt, bày biện đầy mâm:
 
- Hôm nay thiếp muốn cùng chàng say một bữa!
 
Rồi rượu rót tràn. Hai người trò chuyện nói cười ròn rã nghe chiều tương đắc lắm. Rượu châm vào, má đào càng chín:
 
- Thiếp họ Hồ, mẹ gọi thiếp là Thục Hà. Thục là tinh khiết, hiền lành; hà là sen đó. Nhà bên đông Ly Sơn.
 
Hàm vốn biết phụ thân dù là hạng võ biền nhưng lại rất nhân từ, trong đời đã cưu mang, cứu mạng không biết bao người. Dù vậy, vẫn hỏi nàng:
 
- Chuyện thế nào, nàng có thể kể cho ta nghe chăng?
 
- Bây giờ thì chẳng giấu chàng chi nữa. Thiếp là chồn đây! Trước kia, khi mẹ dẫn chị em thiếp du chơi, bỗng đại bàng từ lưng trời lao xuống, nếu không nhờ Hàm tiên phuông cho nó một mũi tên, thì mẹ con thiếp đã phí đi ngàn năm tu luyện!
 
Thấy Hàm vẫn điềm nhiên, bèn hỏi:
 
- Chẳng sợ à?
 
- Thuở nhỏ ta thường đọc truyện của Bồ tiên sinh, lòng hằng mong được duyên kì ngộ. Con người dù chẳng có móng dài nanh nhọn, nhưng tâm địa độc ác khó lường! Ta chỉ thấy người giết chồn chứ chưa thấy chồn xé thịt người bao giờ, cớ chi phải sợ? Hơn nữa... - rồi cười, tiếp: gặp con chồn xinh đẹp tài giỏi như thế nầy là phước duyên nghìn năm khó gặp, thì chỉ sợ nó biến mất mà thôi!
 
Rồi ôm ghì lấy nàng. Thục Hà điểm vào trán Hàm:
 
- Rõ là khéo ăn khéo nói!
 
Đoạn hỏi sang việc khác:
 
- Cớ sao chàng bỏ gươm theo bút?
 
Hàm nói rõ ý mình. Thục Hà nhìn chàng đăm đăm:
 
- Chớ cho rằng thanh gươm luôn gây điều ác nghiệt mà ngọn bút không hề tạo nỗi oan khiên! Lỡ một đường gươm chỉ giết chết một người, nhưng lỡ ngọn bút sẽ làm khổ đau trăm họ. Ngọn bút vẽ vời tư tưởng; nghiên son truyền đạt ý tình. Ý tình chân chính sẽ đem cho lê dân nghìn năm no ấm, nhưng tư tưởng ngông cuồng sẽ di hại muôn đời cuộc sống quần sinh! Rửa sạch máu trên lưỡi gươm là chuyện dễ dàng, nhưng xóa đớn đau trong lòng nhân loại phải chẳng là chuyện một ngày một buổi! Chàng nên cân nhắc!
 
Lại hỏi:
 
- Từ khi quăng gươm, việc múa bút thế nào?
 
Hàm còn ấm ớ, thì Thục Hà bèn đến bên án thư, giở giở xem xem, rồi nhăn mặt mà rằng:
 
- Văn chương thi phú như vầy mà muốn vượt Vũ Môn sao?
 
Rồi nghiêm mặt bảo Hàm:
 
- Từ nay, thiếp sẽ ở lại để chàng có thời gian sớm chiều đọc sách, và chàng cũng nên từ bỏ việc săn bắt để khỏi phạm nghiệp sát sanh. Chuyện cơm áo gạo tiền, chăm sóc bá mẫu... đã có thiếp! Chàng chớ bận tâm.
 
3. Đền đáp ân sâu.
 
Thục Hà vốn giỏi thi thư, làu thông dịch số, lại có tài bốc thuốc. Mới nửa năm mà cứu sống không biết bao con bịnh thập tử nhứt sanh. Lại thường giúp đỡ cho những người nghèo khó, neo đơn. Y đức rền vang khắp huyện, người đến xem mạch chật nhà. Với Hàm và phu nhân, Thục Hà một mực tôn kính, sáng nước chiều cơm vô cùng chu đáo. Với Hàm, ngoài tình phu phụ, Thục Hà còn là người thầy nghiêm khắc. Nhờ vậy mà việc học của Hàm ngày càng tấn tới, kinh điển làu thông, sách mua không kịp. Cuối đông năm Ất Mẹo, Hàm ôm vợ, nghẹn ngào:
 
- Mẹ ta nhờ nàng mà thân thể kiện khang, ngày ngày an lạc. Ân đức nầy bao giờ mới trả được đây?
 
- Chàng chớ nói những lời khó nghe như vậy! Thiếp chỉ làm bổn phận của người vợ, kẻ dâu con. Hơn nữa, thiếp thọ ơn Hàm gia như núi, thì những lời của chàng, thiếp nói mới phải lẽ hơn.
 
Mùa xuân năm sau (Bính Thìn), Hàm có ý muốn lai kinh ứng thí. Thục Hà không vui:
 
- Với bản lĩnh của chàng bây giờ thì bảng hổ danh đề chẳng khó khăn chi, nhưng thời buổi nầy, nếu chỉ cậy vào thực tài thì khó lòng toại chí. Chi bằng...
 
Hàm nhăn mày:
 
- Dù thế nào ta cũng phải gồng thân cá chép để vượt Vũ Môn, tung cánh chim hồng để bay cao chín tầng mây thẳm. Trước là đền ơn mưa móc, sau là giúp cho bá tánh hoan lạc âu ca. Không những Hàm môn rạng rỡ, mà nàng cũng được đường đường mệnh phụ phu nhân.
 
Thục Hà thở dài:
 
- Hiền tài thời Nghiêu Thuấn khác chi bảo ngọc, dù trong bóng tối cũng ngời ánh hào quang; ngược lại vào thời Kiệt Trụ khác chi bò heo trước lưỡi dao đồ tể! Lời vàng ngọc không giúp được gì cho trăm họ, lại làm điếc tai nhức óc hôn quân! Ngày nay, hoàng đế thì tham dâm vô độ, trong triều thì củi mục làm quan! Thái Giám Ngụy Trung Hiền chuyên quyền, lập đội sát thủ Đông Xưởng để tiêu diệt trung thần. Khắp nơi sơn dã, Lý Tự Thành thừa cơ cướp bóc. Phía bắc thì Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã vượt biên cương. Lê dân khốn khổ trăm bề. Chức quan phải đổi bằng vàng. Bảng hổ phải cậy vào quyền thế. Quan tham tranh nhau vơ vét của công, của tư. Bậc trí giả nhìn quốc gia đại loạn nhưng cũng phải đành bó gối khoanh tay. Dù Thái Sơn cũng không vá được gầm trời, thì viên sỏi nhỏ làm sao lấp bằng biển cả? Làm người dân thời loạn, sinh mạng như gởi trước vực sâu, huống chi là chốn quan trường, nanh hùm nọc rắn giờ phút chực chờ? Chàng nên cân nhắc!
 
Những lời chí tình đó không thay đổi được ý định của Hàm. Thục Hà đành chuẩn bị hành trang cho chồng. Ngày Hàm lên đường nhằm tiết Thu Phân, cây rừng buông từng chiếc lá vàng thê lương đưa tiễn.
 
Đến mùa thu sau, Đạo quân của “Sấm Tặc” Lý Tự Thành thế mạnh, uy hiếp Bắc Kinh mà Hàm vẫn bặt vô âm tín. Thục Hà ngồi đứng không yên, lòng thương chồng làm  mai gầy liễu rũ. Bỗng một buổi gia nhân hơ hải báo:
 
- Công tử đã về!
 
Thục Hà bỏ cả hài thêu, vội chạy ra, thấy Hàm oằn oại trên vai một đại sư đang bước vào đại sảnh. Mọi người còn ngơ ngác, đại sư quẹt mồ hôi trên trán, bảo:
 
- A Di Đà Phật! Bần tăng đi ngang qua U Lâm, chợt thấy công tử đang thiêm thiếp bên đường bèn mang về cho đại thí chủ.
 
- Từ đó đến đây hàng trăm dặm đường. Thật vất vả cho đại sư!
 
- Công tử bị suy kiệt nặng, may mà gặp bần tăng kịp thời cho uống linh phù. Bây giờ mọi việc tạm yên, việc còn lại là phần của đại thí chủ.
 
4. Ăn Tết với ma
 
Hàm kể:
 
- “Khi đến U Lâm trời đã xế chiều, Hàm cố vượt thêm năm  dặm để đến U thôn. Mặt trời vùng núi xuống nhanh, mây đen từ đâu kéo về làm không gian càng thêm u tối. Chướng khí lạnh buốt tận xương. Ngựa, người vừa đói vừa sợ, bỗng nhác thấy ven rừng thấp thoáng mấy gian lều cỏ, lòng khấp khởi mừng...
 
Đến nơi thì ra đó là những túp lều hoang. Đang nhóm lửa, bỗng thấy ngoài xa có ánh đèn đi tới, Lòng vừa mừng, vừa lo sợ. Vội dập lửa, nấp vào một chỗ. Ánh đèn càng gần, mờ ảo một bóng hồng. Càng gần hơn, Hàm cả mừng, dù dưới ánh sáng chấp chóa chàng cũng nhận được rõ ràng kiều nữ chính là Thục Hà. Hàm ôm chầm lấy vợ:
 
- Sao hiền thê lại gian khổ thế nầy?
 
Thục Hà làm mặt giận:
 
- Chàng đi xa ngàn dặm lại bảo thiếp an lòng được sao?
 
Nói rồi lấy rượu thịt từ trong tay nải, bày trên bàn, cùng ăn uống no say.
 
- Sao giọng nàng là lạ như thế?
 
- Gió lạnh đường xa, không cảm mạo mới lạ!
 
Đêm đó ân ái nồng nàn.
 
Hàm đột ngột hỏi:
 
- Sao da thịt nàng lại lạnh thế nầy?
 
- Tắm mình trong sương, gội mình trong tuyết, dù than hồng cũng phải lạnh ngắt mà thôi!
 
Có vợ bên mình, vừa an tâm, vừa mệt mỏi, Hàm ngủ mê man.
 
Tiếng cú kêu sương và khí lạnh núi rừng làm chàng tỉnh giấc. Ngồi dậy choàng chăn cho vợ, chợt kinh hoàng thét lên:
 
- Nàng là ai? Hiền thê ta đâu?
 
Nằm bên chàng là một thiếu nữ xa lạ, Mớ tóc tuyền che hớ hênh hai gò bồng đảo trắng ngần nhấp nhô theo hơi thở. Kiều nữ cười hiền hòa:
 
- Chàng nằm mơ đó chăng? Thiếp không phải là vợ chàng thì ai vào đây chứ? Nhìn kỹ xem nào?
 
Hàm dụi mắt, định thần nhìn lại, rõ ràng là Thục Hà! Lòng vẫn nghi ngờ, Hàm bèn kéo mạnh kiều nữ qua thế nằm xấp, đảo mắt nhanh trên lưng nàng, rồi nắm chặt tay nàng giận dữ:
 
- Nàng không phải vợ ta!
 
Bây giờ trước mặt Hàm “Thục Hà” lại là một xuân nữ cực kì xinh đẹp. Mặt hoa ủ dột, hai hàng mi chơm chớp cố giữ lại giọt buồn. Hàm gay gắt:
 
- Nếu chẳng là loại gái lẳng lơ, thì cũng là yêu ma để hãm hại người! Ta vốn dòng vũ tướng, chớ dại dột giở trò!
 
Hai dòng lệ lăn tròn lên má, kiều nữ giọng buồn buồn:
 
- Chàng có bị ma hại bao giờ chưa mà lại hung hăng như vậy?
 
 Chàng hãy nhìn lại xem trong “thế giới người” của chàng, có mấy ai bị chết vì ma? Chinh chiến liên miên, xương khô như núi bên bờ Vô Định; thiên tai chồng chất, Hoàng Hà đê vỡ mà cửa kho vẫn khóa kín như bưng, không cho hạt thóc lọt ra ngoài, khiến triệu sinh linh chẳng một cọng cỏ mà ăn, để cho  xác chết ngập đường. Đó là do ma hại đó sao?
 
Hàm nhìn nàng trân trối...
 
Như hiểu được phần nào ý nghĩ của Hàm, kiều nữ lau mắt, tủm tỉm cười:
 
- Nhìn xem con ma có răng nanh hút máu không à? Hãy về mà nhìn lũ tham quan, xem bọn cường hào ác bá! Miệng mồm chúng thế nào mà dân tình phải lấy lá rừng làm áo, lấy cỏ làm cơm? Trước kia thiếp cũng bị người hại nên giờ mới thành ma! Khi thành ma, thiếp đã phải ân hận vì đã phải làm người!
 
Nghe cũng có lý, mà âm thanh lại ngọt ngào êm ái, lòng Hàm cũng dịu đôi phần. Kiều nữ tiếp:
 
- Khi còn tại thế, dù nhan sắc nầy chẳng dám sánh với mẫu đơn, nhưng với phù dung, hải đường thì chúng phải nhường một bước! Hoa xinh trong thời loạn lạc, khác nào hiền tài trước bạo chúa, hôn quân! Khác chi đàn khảy tai trâu, hay ngọc quăng mặt chó? Muốn sinh tồn thì phải chịu mưa dập gió vùi, hay hùa theo chúng mà phải đạp chà khí tiết sĩ phu. Thiếp muốn bảo vệ băng trinh nên tự kết liễu đời mình; còn chàng thì chọn hướng nào?
 
Một chút cảm mến trong lòng, Hàm ngần ngừ một hồi rồi buông một câu ngớ ngẩn:
 
- Vậy cớ sao nàng lại đến cùng ta?
 
- Tháng năm nằm trong vùng âm u tối, nên thịt da không được ấm áp như bao người được hưởng ánh dương quang - nàng  liếc Hàm rồi tiếp -  Âm đã suy, tàn thu càng suy kiệt, thiếp muốn “mượn” chút dương khí mà bù đắp đó thôi! Nhưng đã thề với lòng, thà thân nầy tan thành tro bụi chứ không thể gởi thân cho kẻ thất phu!
 
- Nhưng ta không thể phản bội vợ mình.”
 
Hàm kín đáo nhìn vợ, Thục Hà che tay áo giấu nụ cười sung sướng, nhưng giả bộ lớn tiếng:
 
- Láo phét! Rồi sao nữa?
 
Hàm tiếp:
 
- Rồi nàng ấy cười ngất, “Thế đầu hôm ai làm gì mà như ăn tươi nuốt sống thiếp vậy? Lần đầu nếm mùi chăn gối, chàng làm thiếp sợ điếng hồn...  
 
Thục Hà cắn chặt răng, nhìn Hàm, chàng tiếp:
 
- Ta sợ nàng nói thêm những lời khó nghe, vội cướp lời: “Xem nàng cũng là bậc thư hương, sao dạn mồm dạn miệng như vậy?”
 
Kiều nữ mai mỉa:
 
- Giống ma bọn thiếp, trong bụng nghĩ sao thì lời nói ra như vậy; chứ không phải giống người của chàng mồm một đàng, bụng một nẻo. Bên nào đáng khinh, bên nào đáng trọng? Tỉ tỉ ở nhà chẳng phải cũng mượn cớ “sói rừng” mà kéo chàng lên giường đó sao?
 
Đại sư quay mặt sang bên, Thục Hà thẹn chín người, quát:
 
- Thôi đủ rồi! Chuyện như vậy mà không biết giấu vào bụng à?
 
Bỗng máu hoạn thư nổi dậy:
 
- Rồi cũng vì mê mẩn tâm thần mà chẳng chịu lai kinh, lại chẳng biết đường về?
 
- Không phải vậy! Ta muốn lai kinh để kịp kỳ thi, nhưng nàng lại bảo kinh kỳ có biến, quân “Sấm Tặc” làm chủ mọi nơi. Nếu đi, khác nào nộp mình cho... sói!
 
Thục Hà lấy tay áo che mặt, cố nén cười, lầm bầm : “ Sói, sói! Tức chết được mà!” Rồi dọn bộ mặt nghiêm trang, giọng như quát:
 
- Sao không trở lại nhà, mà cứ ở lì nơi ấy suốt năm trời. Không biết mọi người nóng lòng trông đợi hay sao?
 
- Muốn có được đâu! Thì ra những túp lều hoang ấy không như ta tưởng, mà nó nằm giữa đại ngàn. Biết phương hướng nào mà trở lại?
 
Mọi người lặng yên, Hàm tiếp:
 
- Đến một hôm nàng ấy ủ dột mà rằng: “ Ý trời đã định thì lòng người chớ khá cưỡng cầu! Thiếp chẳng qua là cơn gió núi mượn lá rừng dạo khúc tình si. Rồi sẽ như hạt sương lạnh lùng phải vỡ tan khi vầng dương ló dạng. Thiếp chỉ là nơi phủi áo bụi đường; mà tỉ tỉ mới chính là nơi gởi đời vĩnh cửu. Hãy uống với thiếp một lần, mong ngàn sau chàng vẫn nhớ
 
Hàm e dè nhìn vợ:
 
- Rồi rượu thịt bày đầy, ta uống đến mê man, chỉ loáng thoáng nghe bên tai: “Có duyên, sẽ gặp. Rồi ta không nhớ gì nữa!
 
Thục Hà và đại sư nhìn nhau. Hồi lâu đại sư bảo:
 
- A Di Đà Phật! Mỗi người đều có một nghiệp duyên, dù trốn lên núi cao, hay nấp dưới vực sâu cũng không tránh khỏi. Gieo nghiệp thiện tất hưởng quả lành; gieo nghiệp dữ phải thọ tai ương. Công tử đây và con ma đó tất phải có nợ duyên từ kiếp trước. Dù sao, công tử cũng đã về rồi, đại thí chủ cũng nên độ lượng!
 


  Trở lại chuyên mục của : Kha Tiệm Ly