LÊ VĂN THIỆN
Chiếc Phao
Người đàn bà ngồi bệt dưới đất, quần áo tả tơi dầu tóc bù xù, trông chẳng ra sao cả. Toán lính bu xung quanh, chen nhau coi như có gì lạ lùng lắm. Người chỉ huy bảo :
- Bà đứng lên coi nào, cứ xề xệ xuống rồi phịu xác ra, gớm quá.
Như không nghe thấy, người đàn bà ngồi yên. Mấy người lính chỉ trỏ rồi nói thầm với nhau. Vài ba người giả đò đưa tay bịt mũi, cười. Người trưởng toán gắt :
- Đứng lên, lẹ coi. Ai đã ăn thịt sống đâu.
Một anh thở khì :
- Úi chà, bằng cỡ dì mợ tôi ở nhà rồi cá thịt nước non sao đặng mà sợ.
Bà già khó nhọc nhấc mình đứng dậy, tay vịn vào cây cột lớn giữa nhà. Ông trưởng toán chép miệng :
- Chắc cả năm nay không thèm tắm gội gì cả đây.
Nhiều tiếng cười nhỏ. Từ nơi người đàn bà phát ra một thứ mùi khó chịu, lạ. Thúi không ra thúi, hôi không ra hôi. Nó như vừa khen thét, vừa chua, gây gây. Một người trong đám đông hỏi :
- Ở đâu thiếu gạo thiếu mắm chớ thiếu nước sao ngoại ?
Bà già run rẩy, lập cập :
- Dạ bịnh quá, bịnh luôn đâu dám tắm quý ông.
Toán lính tản ra, vài người tới lục lạo mấy cuốn sách rách mướp bỏ vãi trên bàn. Vài người lùi về đứng dựa vào cột vào tưởng theo dõi câu chuyện.
- Con nhỏ tui kia cũng bịnh, bịnh vì té động thai. Nặng lắm, sợ nó chết.
Vẫn cái giọng run rẩy đó nói. Một lát bà già lại loay hoay tìm chỗ ngồi xuống. Hình như bà ta không còn hơi sức để đứng lâu. Cái bụng to lớn cứ ác hại bám chặt lấy cái thân hình tong teo. Một sự mất thăng bằng nhận thấy rõ ràng nơi thân hình đó. Lúc đứng lên người bà già như chông chênh, cái bụng cứ toan trí níu cho bà ta ngã sấp.
Trong nhà ngó trước ngó sau thật trống trải. Không còn vật gì ngoài chiếc giường ọp ẹp trong buồng, và cái bàn ba chân rưỡi ở gian giữa. Tấm màn treo chắn ngang cửa buồng ngắn cũn, đen mốc, chẳng còn nhận ra ngày trước nó màu gì và hình thù của những bông hoa. Người đàn bà trẻ nằm mẹp trên giường, xoay mặt vô vách. Hình thù chị ta cũng thảm não như bà già ở ngoài. Và cái bụng thì, chướng quá, cái bụng hai người đồ sộ như nhau. Trước sau không thấy một hột thóc, một hột muối, ai nuôi những cái bụng kia.
Người chỉ huy bảo bà già, nhỏ nhẹ :
- Hỏi bà nói thật nghe, chồng con bà giờ ở đâu. Lâu nay còn những ai lai vãng trong vùng này ?
Bà già cúi đầu, cái đầu tóc rối rắm vàng hoe thấy ghê.
- Bà nói di, đàng hoàng rồi chúng tôi sẽ cho ăn cơm.
Cái đầu tóc bẩn thỉu đó ngước cao :
- Hơn tháng rồi ăn rặt cỏ rau, đói cơm quá ông.
- Thì nói đi. Chồng con bả đâu ?
- Dạ làm gì có chồng con. Chết cả từ lâu.
Một tiếng xụyt :
- Láo, những cái bụng chang bang thế kia mà còn láo được. Bà già giật thót mình mấy cái, rồi đưa tay vuốt mặt, vuốt tóc.
- Dạ thật mà, bụng này chúng...
Người lính đứng đằng bàn tìm được một tấm ảnh cũ gấp bỏ giữa một cuốn sách. Anh ta đưa ra hỏi :
- Ai đây ?
- Thằng con tôi, chồng con nhỏ kia. Nó theo, theo trên đó từ trước, nay đã chết rồi.
Người thanh niên trong ảnh mặc đồ đen, mặt mũi trông hiền, nhưng cặp lông mày vểnh ngược dữ dằn. Người lính xoay ngược xoay xuôi tấm ảnh, săm soi ngắm nghía một hồi lâu.
- Thứ mặt này mà vác mã tấu đứng đường mình rủi gặp dám chết siếng lắm.
Ba già lẩm bẩm:
- Nó chết lâu rồi mà.
Chị đàn bà nằm trên giường cựa mình, rên khẽ.
Bước qua tháng thứ bảy con mình khá lớn, Hường chỉ phải dạy buổi sáng nên còn trọn buổi chiều được rỗi, thời gian rỗi rảnh này dành cho con và viết thư. "Con không nghịch, nó không quấy chọc máy mó chi cả, chỉ biết nằm im thin thít hàng ngày, ngoan lắm. Nhưng chắc nó khá bụ bẫm anh ạ. Cứ nặng trình trịch, và cáng náng lắm. Chiều ở nhà em thường phải nằm thôi, vì hoạt động mau thấy mệt. Hai mẹ con thủ thỉ với nhau, nhỏ thôi để người ngoài khỏi cười, và ngủ. Cha bảo đừng nên nằm nhiều. Nhưng chịu, không cách nào cưỡng được. Nhiều người có bầu thấy gọn gàng, nhỏ nhắn. Sao em lại lớn thế hỉ.. Nhiều lúc, nhất là khi vào trường em thấy mình thật chướng mắt, cứ lạch bà lạch bạch làm sao ấy. Khá một điều là lũ nhỏ bỗng ngoan lên. Có lẽ chúng thấy em phải nặng nề khổ sở nên chúng thương. Đứng giảng một tí là thở hơi ra anh ạ. Còn ngồi vào ghế thì cái bầu cơi lên muốn tông hộc bàn, cười quá. Thật có nhiều cái kỳ kỳ, ngượng ghê đi anh...Mấy bé gái ngồi dãy bàn đầu xinh xẻo dễ thương quả. Em muốn bé của chúng mình sau này cũng đáng yêu như vậy. "
Hường diễn tả rằng cái bụng lớn, bằng bằng ở đằng trước. Hường ưa ăn thịt và trái cây chua một tí. Vậy không biết sẽ sinh trai hay gái. Danh muốn có đứa con gái đầu lòng. Má đã có một bầy bảy thẳng cháu nội. Hường phải sinh con gái.
Ngày trước má đụng ba cũng trong một trường hợp từa tựa như giờ Danh với Hường. Vậy mà nay hình như má không mấy thông cảm cho hai đứa. Có lẽ bởi má dã có quá nhiều dâu con, cháu chắt.
Hồi đó ba lang bạt vô Nam và gặp má. Ba trẻ tuổi oai hùng, nhưng bên ngoại cũng không mấy vừa ý. Nhà ngoại giàu sang, danh giá. Còn ba chỉ được cái tuổi trẻ, bề gia thế gốc gác thì lù mù, ở tận đâu đâu. Nhưng ai cũng ngán cái uy quyền hét ra lửa mà ba có trong tay. Thời đó những kẻ nắm được địa vị cỡ ấy đã oai lắm, và quyền lực lớn gần như một ông trời con. Dựa vào quyền lực đó các ông trời con đã có thể đi cưới vợ, nếu thích, theo một lối lạ, tàn bạo. Thiên hạ thì sợ họ hơn sợ Tây. Họ có bổn phận che chở dân, che chở trong một vòng tay thép lửa - Chàng rể tới nhà ông nhạc tương lai với gươm súng và hộ vệ đầy đàng. Chàng thương lượng điều đình chớp nhoáng. Thường thì mọi việc đều tốt lành. Không ai dám cải. Bởi kinh nghiệm cho biết họ mà kỳ cượng thì ngày hôm sau lính trên huyện sẽ tràn xuống moi móc từ nóc nhà, từ mái ngỏ họ ra hàng thúng, hàng bọc truyền đơn giấy tờ có nội dung tuyên truyền phá rối trị an. Chừng đó thì có nước tan nát gia công. Thôi thì gả phức con gái đi, lấy ai thì nó cũng sinh cho mình những đứa cháu ngoại. Với lại có được ông con rể loại đầu tàu hỏa ấy cũng danh giá chán . Khắp tổng huyện còn khiếp nể, huống chi là trong xóm làng. Thầy quản, quan lớn hét là đùng đùng lửa khói và tai ương tỏa ra đằng sau. Nhưng hình như ba chưa phải dùng tới loại uy lực đó đe chồ ngoại, cưới má.
Ba đem má về nhà, bà con lối xóm chạy tới thăm và coi tấp nập. Lạ lắm, má lạ lắm. Má ở tận miền nào cách xa mấy trăm cây số, mà nhiều người trong làng thì suốt đời không hề bước ra khỏi cái miêu đầu thôn. Tiếng má nói hay ho, quý phái: "Gà độc thịch, dịch độc trứng". Ông bà nội quý trọng má. Má sướng suốt cuộc đời làm dâu. Má chưa phải khổ nên khó thông cảm cho người khác. Khi biết hai đứa trót có con với nhau, má nhíu mày : "Vội quá thế. Ngày trước má ba cưới nhau đàng hoàng mà còn thong thả để gần hai năm sau. Chúng mày chưa chi …" Má thường chấm hết câu nói giữa chừng. Rồi cưới hỏi chỉ có ba lo thôi. Đến nay Hường vẫn chưa biết mặt mẹ chồng. Hường phải sinh con gái, nên sinh con gái mới được.. Có phép, sẽ dẫn Hường về ra mắt má, với đứa cháu gái. Danh tin là má sẽ thích cháu gái lắm.
Hường gầy gò mảnh mai, ốm đau thường trực, nay còn phải đeo mang một cái bụng lớn như vậy tội nghiệp. Bảy tháng rồi, Hướng cố gắng thêm ít nữa, hai tháng nữa thôi. Rồi sẽ nhẹ nhàng, thảnh thơi, và sung sướng. Rồi má anh sẽ quý mến, sẽ thương con hai đứa, thương em. Nó, con bé, là sứ giả đó. Hường nưng chiều con thật nhiều mới được. Danh nghĩ miên man, và nghe một niềm vui sướng len thấm vào lòng.
Trước thềm không có ai, cả bọn ùa cả vào nhà coi thẩm vấn người đàn bà. Danh mỉm cười, vui một mình.
Làng xóm đìu hiu, buồn như một cảnh núi rừng cùng cốc. Đường ruộng xanh um, lúa chét nẩy nở trông xa cũng tươi tốt như lúa mạ mới gieo lần đầu. Chừng tiến vào thấy biết đó là những mầm cùi cụt, con cháu hoang không cha ông mà có. Cây cành mụ mẫm nhưng hột thì lép xấu mỏng mảnh. Người đàn bà nói từ đây về đến quận đi mất gần hai ngày dường. Đám dân làng bị kẹt cuối cùng đã ra đi từ hai tháng trước. Vùng này được phế bỏ. Đến đêm súng lớn từ dưới chốc chốc lại nổ lên từng tràng đạn mạnh. Lạ lùng kỳ diệu thay, qua bao nhiêu đêm rồi chẳng quả nào rớt nhằm nhà này.
Chị đàn bà trẻ lại cựa mình, rên. Ông trưởng toán nhắc nhở :
- Bà nói đi, nói rồi được ăn cơm.
Ông tới ngồi xích xuống bên cạnh bà già, lay chân bà ta, đổi giọng thầm thì :
- Vùng này chúng nó còn có một đại đội phải không. Toàn du kích ?
Bà già yếu ớt :
- Nẫu rút đâu hết từ ngày quý ông càn lên hồi tháng tám.
- Không còn mạng nào ?
- Dạ, không còn mạng nào.
Chọi nhẹ bụng bà ta, ông trưởng toán nói nhỏ như thở :
- Cái bụng này ?
Bà già lúng túng, lấp bấp điều gì trong miệng. Một người lính háy :
- Nói gian giảo, giấu quanh giấu quất. Phơi cho chết đói.
Không ai thèm bàn vào nữa. Chị đàn bà nằm trên giường cựa quậy. Bà già nhìn con dâu, rồi cúi xuống, nói, như nói với cái bụng của mình :
- Con nhỏ chắc chết. Qúy ông gia ơn cứu nó.
- …
-… Nó trèo lên dọi mái nhà, cái mái bị bể dột tứ tung. Tui nói đừng dọi chẳng quý trọng gì đâu. Làng nước còn bỏ sá chi một mái nhà. Nó cãi lời leo lên... thang gãy, nó rớt từ trên mái xuống. May nhờ mụ bà đỡ, không thì quẹo rồi. Từ trên mái nhà rớt xuống… quý ông nghĩ, cái bụng bảy tháng. Nó nằm miết đó, quý ông cứu nó.
Đoàn quân vào chiếm một thôn tiêu điều, nhà cửa hầu hết trống trơn, dân thì chín phần đi chỉ còn một - đi đâu, xuống thành hay vào rừng không rõ - thì gặp được năm ba gia đình của thành phần ít ỏi còn nán lại, ai cũng vui trong bụng. Vì ít ra có tiếng người, dù tiếng ông già bà lão hay con nít thì cũng đỡ lạnh, hơn là vào phải một xóm tha ma mộ địa. Những kẻ còn lại ấy xanh xao vàng vọt, mặt mày lơ láo như bỏ mất hồn phách nơi đâu. Sự có mặt của họ âm thầm, yếu đuối không khuấy động nổi, không làm sống lại được sinh khí dồi dào thuở xưa của một vùng rộng lớn. Các con đường làng hiền dịu xinh đẹp ngày đó giờ dã đánh mất sự vui trẻ ấm áp. Cây cỏ mọc liếm ra lối đi, lá khô tấp xuống trải lót che phủ mặt đất, che phủ những dấu chân trâu chi chít, những dấu chân ngày trước làm lồi lõm con đường, một vẻ lồi lõm thân yêu. Lũy tre già gập dầu xuôi tay nhìn xuống dãy giao thông hào lòng ngòng sâu lủi co mà người ta đã hấp tấp đào nên trong đêm tối hồi những tháng xao động trước đây, lâu nay vẫn ẩn nhẫn nằm yên dưới chân. Người, cây cỏ đất trời buồn thảm ủ dột quá. Không gian âm âm như trộn lẫn độ sáng giữa đêm và ngày. Quang cảnh như thế, dân tình như thế thấy khó mà có gì phản trắc, có gì làm nên phong ba. Cho nên đoàn quân vào lặng thinh, và yên chí. Đàn ông sồn sồn cùng trai tráng không còn, đàn bà thì mười người mười quấn khăn tang. Sao lại ông chồng nào cũng chết, ăn rập như khuôn vậy.
Ngày lui quân, lũ con nít và vài chị đàn bà ra tiễn, đứng đầu ngõ nhìn theo, tình thân có vẻ thắm thiết. Đoàn quân tới khoảng giữa đồng trống thì chợt có tiếng súng từ trong làng bắn ra, đuổi theo sau lưng, chan chát rít qua đầu. Thôi rồi, phải quay lại. Quay lại bằng vũ lực. Vào tóm một chị, đánh mấy cái lòi ra cây súng trường. Tóm một thằng bé, đánh nó, lòi ra một khẩu tiểu liên. Đánh thêm mấy cái biết là chồng chị đàn bà còn trong rừng. Và chồng những người xung quanh cũng vậy. Những vành khăn tang đáng bị đem ra băm vằm. Chị đàn bà cùng chú nhỏ khi này đều có ra ngõ dưa tiễn người đi, cũng bịn rịn thương cảm lắm… Gặp chừng đôi bận, bị chơi ngõ hậu tỉnh khô vài phen như thế mọi người sẽ lần lượt được trét tri hàn xì sỏi đá vào lòng. Bà già tiều tụy nhấc bụng không nổi này, ngó thiểu não yếu đuối. Chưa thương. Cái bụng đó có thể chịu nổi cho một báng súng tiểu liên tì lên mà bắn liên thanh.
Bà già kể lể lập cà lập cập. Toán lính thì trơ mặt ra dòm, và để những cái tai lơ đểnh đón nghe.
-… Họ xuống cả rồi, chẳng ai giúp mẹ con tui. Đây xuống đó lang bang một ngày giữa đồng giữa truông….
Người lính đứng dựa tường nạt :
- Ngậm họng ! Bà dối tài lắm, con bà lên núi chết từ lâu sao chị kia cái bụng...
- Dạ, đó là nó...
Một tiếng khịt trong mũi.
- Nó quái gì, cả bà nữa ! Hay đó là những tác phẩm tập thể chớ gì ? Khó nói. Phải không ?
Bà già len lén ngó kẻ vừa nói, rồi lại cúi xuống. Cúi xuống như để lại nhìn cái bụng lớn, nhìn cái tang chứng không thể giấu bớt được của mình. Bảy tháng rồi, cũng chỉ còn hai tháng nữa thôi. Hai tháng nữa. Chừng ấy Hường cũng sẽ trút gánh nặng, chúng mình sẽ có em bé đầu lòng, hy vọng là bé gái. Giọng nói từ ngoài thềm :
- Cứ cho bà ta ăn cơm. No nê, bình tĩnh rồi bà ta sẽ nói.
Ông trưởng toán đứng dậy, phủi quần, tới ghế ngồi. Một tốp rục rịch xách súng bỏ ra sau.
- Y tá Sơn chích cho con mẹ đằng giường mũi thuốc, kệ nó. Bụng bảy tháng rồi ít sao, mà bị thế kia.
Nghe qua, bà già chợt chồm lên, rồi quay về hướng trước thềm nơi phát ra tiếng nói, sụp xuống xá lấy xá để:
- Lạy quý ông, lạy quý ông cứu nó, cho thuốc nó. Hơn bảy tháng nay không một mũi kim không một giọt thuốc.
Bà ta loay hoay, cuống quít. Gương mặt dày sạm u tối chợt tỉnh ra, hớn hở, như kẻ rớt sông vừa vớ được cái phao . Đôi trẻ trong nhóm còn lại nhăn mặt, vài người quay lưng đi khó chịu. Nhưng ông trưởng toán đó bảo một người :
- Ừ, thì lấy cơm cho bà ta đi.
Sơn y tá xách túi thuốc vào. Chị đàn bà trên giường đã nằm im như ngủ./.