LÊ VĂN THIỆN

Chết Đường
Truyện ngắn
 
Ông Chín Tưởng có một thời làm lý trưởng – hồi còn Tây – nên dân làng Nho Khánh gọi là Xã Chín. Tuy sống giữa vùng quê cằn cỗi nhưng ông Tưởng có bốn chục mẫu ruộng, hơn năm chục con trâu, và là chức sắc, nên nhà Xã Chín được coi như một danh gia.
         
Năm đó vùng Nho Khánh bị hạn hán trầm trọng. Ông trời như một gã trai trẻ tinh nghịch. Chỉ cách một cánh đồng mà bên Nho Phước mưa nhiều lần, người ta nô nức trồng dưa, gieo đỗ, gieo mè. Bên này, suốt sáu tháng Nho Khánh nắng ròng, tới giữa tháng tám giếng trong làng vẫn khô trơ đáy, ruộng vẫn nẻ đất.
         
Một buổi chiều, làng Nho Khánh đón khách lạ: một người đàn ông trạc 40 tuổi, thợ đóng cối xay. Ông ta người miệt ngoài, ăn mặc theo lối quê mùa, quần áo vải ta đen bạc thếch, đầu chít khăn nâu, chân đi guốc mòn vẹt. Ông nói giọng lơ lớ, pha trộn giữa tiếng Bình Định và tiếng Quảng Ngãi. Lúc đầu nhiều người không nghe được, cứ há miệng nhìn ông ta nói, chẳng hiểu gì, bèn gọi là ông Trọ Trẹ. Tên này về sau mọi người vẫn dùng – như biệt danh thân mật – dù đã biết tên thực của ông là Của, thợ Của.
         
Thợ Của vui tính, thường nói đùa, hay chọc ghẹo con nít, thích kể chuyện tiếu lâm. Nhà ông Chín Tưởng rước ông trước tiên, đặt đóng hai cối xay… Một tối, trong lúc uống trà ngắm trăng với ông Chín, thợ Của nói:
“Khoảng bốn, năm hôm nữa, từ rằm tới mười bảy, trời sẽ mưa to.”
Ông Chín ngó mông ra đồng, rồi nhìn lên trời, lắc đầu:
“Có dấu hiệu gì đâu, như thường ngày, trăng tỏ, trời cao thế kia.”
Thợ Của cười:
“Ai cuộc gì tôi cũng cuộc.”
Ông Chín nghiêm giọng:
“Thiệt không? Nếu mưa tôi sẽ đãi ông bữa rượu nếp cháo gà, còn không mưa ông mất gì?”
“Làm sao mất. Nhưng… thôi được, nếu chưa mưa thì tôi đóng giúp ông một cối xay, không lấy tiền.”
 
Ông Chín ngoéo tay thợ Của, cười ha hả, gọi mấy người đứng gần đến làm chứng.
Hai hôm sau trời chuyển, nắng dịu, mây sà thấp. Xế chiều ngày rằm thì trời đổ mưa, như trút nước, như muốn gội sạch bụi bặm cho làng xóm, và cho ruộng đất uống bù một bữa no nê.
 
Chưa trình làng một cối xay nào nhưng ngay tức khắc ông Trọ Trẹ đã nổi tiếng, được xem như một thầy bói tài giỏi. Tuy nhiên thợ Của chỉ coi đó là chuyện đùa giỡn, ông nói: “Bà con đừng quá khen, thiệt ra lâu lâu tôi mới nói đúng vài việc. Nếu giỏi tôi đã sống bằng nghề bói toán, làm thầy, không làm thợ như thế này” … Một tối khác, cũng trong lúc khề khà uống trà, nói chuyện đời với chủ nhà, thợ Của nói:
“Vợ chồng tôi không con, không người nối dõi đã đành. Còn ông, ông có nhiều con trai nhưng sau này chỉ còn rặt cháu gái, cũng buồn đấy.”
“Ông nói sao?” – Ông Chín kinh ngạc, hỏi vặn.
“Ông không có cháu trai.”
Ông Chín đứng lên, cao giọng như phân chứng với mọi người:
“Này, thầy Của kính mến ơi,  xin thầy biết cho, hai thằng con lớn của tôi nay đã có con đầu lòng, và đều là con trai.”
 
Ông Trọ Trẹ ôn tồn:
“Thưa, tôi chỉ nói chuyện sau này… Tôi thấy ông có khoảng hai chục đứa cháu gái.”
Ông Chín nín lặng, có vẻ sợ.
“Tôi với ông còn có một điểm giống nhau nữa: lúc lìa đời không nằm trong nhà, lại ở ngoài đường, hay ngoài chợ, ngoài đồng, gọi chung là chết đường. Cách chết đó trời dành cho những kẻ bất hạnh… chúng ta, không ruột thịt bà con, mỗi người một phương, mà giống nhau nhiều thứ, kể cũng lạ.”
 
Rít một hơi thuốc, thợ Của tiếp:
“Cơ trời chẳng nên nói ra, biết vậy, nhưng tôi bất chấp, không sợ. Tôi đoản mệnh. Dù muốn hay không tôi cũng từ biệt cõi trần ô trược này vào độ tuổi trên dưới năm mươi. Nhưng ông thì vững, thọ lắm, phải khoảng tám mươi, chỉ nhìn hai tai ông cũng đủ biết.”
Ông Chín dẹp ngang bữa trà, ông không muốn nghe thứ chuyện xúi quẩy như thế.
 
*
Cách mạng về, ông Chín nằm trong thành phần địa chủ, ruộng đất bị sung công. Ông tiếc của, buồn rầu, gầy rạc. Tài sản của ông còn lại ít ỏi: mấy cái nhà cổ lỗ – mái lợp ngói âm dương, tường vách lở lói, nặng nề, tối tăm – vài đám ruộng nho nhỏ, và mấy con trâu… Rồi bà Chín Tưởng chết. Rồi bầy trâu hao hụt nhanh chóng, vì phải bán đi để chi tiêu, để thuốc thang chữa bệnh cho người này người kia. Đến năm ông Chín Tưởng 72 tuổi, không còn vác cuốc ra đồng được nữa thì tất cả của cải còn lại chỉ là mấy gian nhà cũ mốc và ba thửa ruộng nhỏ xíu. Ba người con trai ông cựu địa chủ thất vọng, chán nản, thở dài thườn thượt, dù họ đã ra riêng và đều giàu có. Chẳng ai muốn lãnh cái gia tài xập xệ này, không anh nào muốn thủ từ đường. Út Quán – người em út, trực tính, thô lỗ – nói thẳng tuột, không kiêng dè:
“Cái từ đường này đem quẳng ra ngã ba chó cũng chẳng thèm tha!”
 
Hai Cử – ông anh cả, người sâu hiểm, thực dụng, biết che giấu tính keo kiệt thật khéo – cười nửa miệng:
“Phận sao chịu vậy, giàu nghèo có số. Giờ đây chúng ta tính toán sao cho gọn ghẽ, để canh tác mấy khoảnh ruộng lấy tiền giỗ chạp, và nuôi ông già.”
Ba Đặng – ông giữa – gật gù:
“Nuôi ông già, một vấn đề trọng đại, bức thiết, một nhiệm vụ hàng đầu.”
 
Ba Đặng từng làm đội phó trong hợp tác xã nên hay dùng các từ quen thuộc của báo chí. Bản tính ông ranh ma, nhỏ mọn, nhưng thường khoác lớp áo thực thà, xởi lởi.
“Giỗ kỵ là một trách nhiệm không nhỏ” – Út Quán nói – “tôi đã tính kỹ, có tổng cộng mười hai cái giỗ lớn nhỏ.”
 
Mới đầu họ bàn, nên để một người ở từ đường và nuôi ông cụ, hai người kia gieo cấy mấy thửa ruộng và phụ trách cúng giỗ, mỗi ông lãnh sáu cái giỗ… Chuyện thoạt nhìn tưởng đơn giản, nhưng qua bảy lần họp bàn, mất toi ba buổi chiều bốn buổi tối vẫn chưa giải quyết xong. Không ai chịu nuôi cha. Cũng không ai muốn nhận lãnh nhiều cái giỗ. Họ đùn đẩy qua lại, so đo hơn thiệt, nói cạnh khóe, gài nhau, mỉa mai nhau. Và tới giai đoạn “cao trào” thì họ lớn tiếng mắng chửi nhau, chẳng kể tình nghĩa, tôn ti, anh em gì nữa… Đến lúc không khí trong nhà lắng dịu, mát lại, Ba Đặng nói:
“Chuyện nhà cũng như chuyện làng nước, phải lấy nguyên tắc dân chủ, công bằng làm chuẩn mực… Ông già ăn uống chẳng đáng kể, rõ rồi, nhưng còn bệnh hoạn? Cỡ tuổi đó thì siêng bệnh lắm! Lâu lâu ấm đầu một lần còn được, lỡ ra mỗi tháng ổng nằm ì hai mươi ngày thì sao, ai gánh, ai đảm bảo?”
 
Hai Cử cười nhạt:
“Nói khe khẽ chớ, chú Ba, kẻo thiên hạ lại bảo con nuôi cha mẹ mà tính tới lui, cân nhắc từng li.”
Ba Đặng cười ruồi:
“Cảm ơn anh, người con chí hiếu… Anh hiếu thảo lắm, nhưng tôi nhớ ít ra cũng đã bốn lần anh không nhận ông già!”
Út Quán nói nhẩn nha:
“Phía nào cũng có điểm bất tiện, bất thông. Theo tôi, chỗ đáng lưu ý của ông già là tánh tình. Ai cũng biết người già thường sanh tật. Các cụ đâu có khả ái như trẻ con… Còn phần việc lễ nghi, cúng kính cũng có lắm điều phiền toái. Không phải ta nấu nướng ra để ăn trong nhà. Bao nhiêu người tới dự, chật trong chật ngoài… xách miệng đi ăn thôi, nhưng khi về nhiều người còn ngoác mồm chê bai, chỉ trích.”
 
Nhưng dù sao họ cũng là anh em ruột, nên rốt cục họ đã hiểu nhau, tìm được một sự đồng tình. Về nhà cửa và ruộng, sẽ được bán đi, tiền chia đều cho ba người. Về cúng giỗ, họ giản lược, bỏ bớt các đám thứ yếu, bỏ đi sáu, còn giữ sáu; ba ông cùng nhận, mỗi người hai đám, ai cúng nấy ăn. Về phần người cha thì cũng chia đều, ai cũng được nuôi, theo kiểu xoay tròn. Tính cho cặn kẽ, cụ thể, mỗi người con sẽ nuôi cha nửa tháng, khởi đầu từ ông Hai Cử.
 
*
Trong những ngày sống giữa thái độ thờ ơ, lạnh nhạt của con cháu, những ngày trống rỗng, buồn bã nằm bẹp dí trên giường, ông Chín Tưởng thường nhớ tới người thợ đóng cối xay thời trước. Chắc ông Trọ Trẹ qua đời lâu rồi. Mấy mươi năm đã qua, vật đổi sao dời… Ông Chín Tưởng khâm phục thợ Của. Nhiều chuyện ông ấy tiên đoán về sau đã thành sự thật, đúng một cách quái lạ, đáng sợ. Hai đứa cháu trai của ông – con của Hai Cử, Ba Đặng – đều chết, một chết bệnh năm 9 tuổi, một chết do tai nạn xe cộ năm 10 tuổi. Giờ ông còn tất cả mười bảy đứa cháu gái. Việc đã qua đều đúng, vậy chuyện sắp tới chắc cũng không sai? Ông vẫn nhớ rõ cái chuyện chết đường. Nhưng ông chẳng sợ gì nữa. Chết trong nhà hay ở đâu không quan trọng. Từ lâu ông không còn muốn sống. Chết sớm khỏe thân. Hóa ra, lắm khi sống thọ chưa hẳn là may mắn. Ông thấy tủi cực trăm bề khi phải làm thân phận của kẻ ở đậu, ăn nhờ… Thợ Của thấy trước nhiều chuyện, nhưng không nói cho ông rõ những ngày cuối đời của ông là một chuỗi ngày dài chứa đầy xót xa, gian nan.
 
*
Việc nuôi dưỡng diễn ra êm đẹp trong một thời gian khá lâu. Tuy là những kẻ chuộng thực tế, sáng suốt, tính toán rành mạch chu đáo trong mọi công việc nhưng ba anh em đều thấy đây là chuyện thuộc về lãnh vực tình cảm, khác với bán buôn, không thể đo bằng thước, cần tế nhị, thận trọng.
 
“Mỗi nhà nuôi 15 ngày”, như câu thần chú. Họ rỉ tai vợ con: “Chúng ta sẽ nuôi ông già, luân phiên, mỗi phiên 15 ngày, nhớ lấy… nhưng phải kín tiếng, chớ để lộ ra ngoài, thiên hạ sẽ chê cười.” Họ thỏa thuận với nhau, mỗi nhà đều sắm sẵn giường chiếu, mùng mền, vài bộ quần áo, hộp thuốc lá, cái ấm, bình trà, cây đèn hột vịt… dành cho ông cụ. Không nhiều nhặn gì, chẳng tốn kém mấy, ai cũng thực hiện được ngay. Sau mỗi đợt, ông cụ được chuyển sang nhà khác, nhưng chính cụ cũng không biết. Đám con cháu tạo cho cụ có cảm giác rằng mình đi chơi, thăm con cái, nay đây mai đó, đổi không khí. Nhưng dần dà rồi cụ cũng nhận ra. Cụ kêu trời, đau đớn, chán đời, muốn chết.
 
Đến hơn hai năm bên ngoài mới biết. Người ta xầm xì, nhỏ to đồn đãi. Sơ hở bắt nguồn từ các bà vợ. Bà Hai Cử nói rổn rảng, hạch xách chồng:
“Nay đã mười chín ngày, sao không đưa ông già đi?”
“Thì từ từ, sao bà nói lớn vậy. Có gì đâu, ông cụ ăn uống bao lăm” – ông chồng nhỏ nhẹ.
“Đây không nói chuyện ăn… một khi đã phân chia thì phải theo đúng, ta không thua chúng nó… ta cũng có cái đầu như chúng.”
“Tội lắm. Chính vì có cái đầu nên ta biết nghĩ suy… Ngày trước ông cụ thương tôi nhất, tôi được cho lên tỉnh học, các chú nó chỉ học ở trường làng.”
“Biết rồi, nhưng người có học mà để bọn ngu dốt lấn lướt, qua mặt là khờ, nhục.”
“Nhục thì có sẵn đấy, cả ba đều nhục.”
“Tôi thấy, qua nhiều phiên gần đây, lần nào nhà này cũng nuôi mười tám, hai mươi ngày.”
 
Hai Cử rên lên:
“Đừng nói mấy ngày… bà ơi… đừng tính từng ngày!… Trước đây tôi u mê, lẽ ra ba anh em phải…”
Mấy nhà hàng xóm của Út Quán nghe bà Út hỏi chồng:
“Mãn phiên rồi, sao chưa chở ông già qua bên anh Hai?”
Út Quán đáp, lơ đãng:
“Mãn rồi à?”
“Nay đã mười chín ngày, biểu bọn trẻ chở ổng đi cho đúng.”
“Chở qua chở về không phải là đúng… bà biểu chúng nó đi.”
“Ông ấy là cha của ông!”
“Ổng là cha tôi, nhưng tôi chưa xứng đáng là con ổng!” – Út Quán thở dài: “Trời thương, mình làm ăn khá giả hơn cả, lẽ ra mình phải lãnh phần nuôi nấng cha mẹ… chia như thế này chướng mắt quá chừng.”
“Chướng làm sao?”
“Nó có cái gì trai trái, mang một vẻ ang ác… nó giông giống chuyện đời xưa… Lạ thực, sao hồi đó mình lại hăng hái nhảy vào làm cái vụ chia chác.”
 
Bà vợ rít lên:
“Này, ông đừng giở quẻ!”
“Đấy là điều tự nhiên thôi… xưa cha mẹ nuôi ta, nay ta phải phụng dưỡng các người.”
Bà vợ cười khì:
“Tôi qua tuổi học trò lâu rồi, ông khỏi phải dạy. Theo tôi hiểu, con là con đồng, ai cũng con, ăn đều chia đủ… Ta quyết không chịu thiệt, không ngu dại hơn bọn họ.”
 
*
Hôm ấy đến kỳ ông Chín Tưởng rời nhà Ba Đặng để sang nhà Út Quán. Ông già bệnh đã 20 ngày, không ăn cơm được, tới bữa chỉ húp lưng bát cháo, ba ngày gần đây thì không ăn gì. Đã ba ngày ông nằm bẹp trên giường. Nhưng lúc sáng tình cờ ông nghe bà Ba Đặng rầy la mấy đứa con:
“Sao chưa chở ông nội đi?”
“Nội bệnh, để mai cũng được, má à.”
 
Mẹ con họ nói nhỏ. Ông già nặng tai, nhưng có điểm kỳ lạ: khi có người nói khẽ, chậm thì ông nghe được.
“Mấy cái mai rồi. Nay đã hăm hai ngày, biết chưa?” – Bà mẹ đay nghiến.
“Chỉ sợ nội ngồi xe không được… Thôi để chiều mát con chở.”
“Không hẹn dây dưa nữa đấy, 22 ngày rồi.”
 
Bước đi không vững, nhưng ông Chín Tưởng cũng gắng sức leo lên ngồi sau xe gắn máy. Xe chạy được nửa đường, đứa cháu nghe ông kêu:
“Dừng lại, cho nội nghỉ một chút.”
“Sao vậy nội? Con chạy chậm đây. Nội ôm con cho chặt” – Đứa cháu ngoái lại nói.
“Để nội nghỉ một lát… chóng mặt quá.”
 
Con nhỏ vội ghé xe vào một cây me lớn bên đường. Nó đỡ ông xuống. Nhưng trong lúc loay hoay, luống cuống, nó làm ngã cả xe lẫn người. Khi đứng lên nó thấy ông cụ nằm thẳng đuổng như khúc gỗ, nhắm mắt, mặt trắng bệch.
“Trời ơi, nội ơi!”
Con bé thảng thốt, sợ hãi, cố đỡ cho ông ngồi dựa vào gốc me.
“Nội thấy trong người ra sao?”
Ông Chín Tưởng lắc đầu.
“Sao nội không nói trước, để bữa khác hẵng đi!”
Ông cụ không còn lắc đầu được nữa.
 
Đứa cháu đón một người qua đường, nhắn tin về nhà. Khi Ba Đặng ra đến nơi thì ông cụ đã hôn mê. Chỉ vài phút sau ông tắt thở. Ông chết thật nhanh, thật êm… Đứa cháu gái chở ông đi chuyến cuối cùng là người duy nhất khóc thương ông. Không rõ nó yêu mến ông thực lòng, hay nó hối hận vì đã làm ông ngã. Nó khóc suốt mấy ngày, sưng húp mắt. Đây có thể coi là một điều hạnh phúc của ông Chín Tưởng, dù sao lúc lìa trần ông cũng được một người tiếc thương ./.
  Trở lại chuyên mục của : Lê Văn Thiện