MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH


 
Tìm Lại
Chút Hương Non Xanh Mây Tía

*Điêu bất túc, cẩu vĩ tục!
 
Làm Thái thượng hoàng
Và Hương Vân đầu-đà
Khi đất nước đến hồi phát triển rực rỡ nhất, 1293, mới 35 tuổi, Trần Nhân Tông đã nhường ngôi, giao lại quyền bính cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Thật là một nghĩa cử cao cả và tốt đẹp, để lại bài học cho muôn đời sau: Dạy cho vua cho chúa, dạy cho những người lãnh đạo, kẻ đã quá tuổi phục vụ - đừng có tham quyền cố vị, công đã thành rồi mà thân không chịu thoái, cứ khư khư đeo bám cho đến bạc tóc, cho đến nấm mồ! Dường như Trần Nhân Tông miễn cưỡng lên làm vua, nhưng khi làm vua là nhận lãnh một trách nhiệm với sơn hà xã tắc; làm vua là để lãnh đạo hai cuộc chiến tranh vệ quốc bất đắc dĩ (thanh gươm ngắn chứ không phải thanh gươm dài), không có chỗ để nghỉ ngơi trong suốt 14 năm tại vị (từ năm 1279 đến năm 1293). Như thế, rõ ràng là ngai vàng, danh vọng, quyền lực, phú quý, ngũ dục... chẳng hề động tâm đức vua ấy, đức Kim Phật ấy. Rồi, khi làm Thái thượng hoàng thì đã thật sự nghỉ ngơi chưa? Có, có chút ít nghỉ ngơi và để tâm nhiều hơn về việc học Phật, tu Phật.
 
Sử kể rằng, ông thường ngao du đây đó, yêu mến, thỏa thích chốn sơn thủy thanh u. Đặc biệt là cảnh trong bài thơ Vũ Lâm tươi đẹp với hình ảnh phác thảo chắt lọc, tinh tế; với sắc màu lặng lẽ, với tiếng chuông thinh không xa vắng... Cái chỗ mà Lòng khe vắt ngược bóng cầu hoa. Ngấn nước, lung linh vệt nắng tà. Lặng lẽ nghìn non, rơi lá đỏ. Làn mây mơ mộng tiếng chuông xa...(28) Thật là kỳ lạ quá sức. Mới sau những trận ác chiến kinh hoàng, sau năm năm xây dựng đất nước, tâm của vị Thái thượng hoàng này lại cảm nhận được cái động cựa, cái sức sống thiên nhiên ngoại vật: Cái vệt nắng trên ngấn nước! Cái lặng lẽ nghìn non, rơi lá đỏ; lại còn làn mây ẩm, làn mây ướt, nó mơ nó mộng tiếng chuông xa! Thật là tinh tế hết chỗ nói! Thi pháp nghệ thuật ấy cũng khá hiện đại đấy chứ! Vài nhà nghiên cứu nói rằng, năm này - 1294, Thái thượng hoàng xuất gia ở Vũ Lâm. Thật ra, lúc này ngài mới tập sự xuất gia, tìm chỗ non thanh cảnh vắng để nghiên cứu thiền học mà thôi. Tại sao vậy? Tại vì cái chứng chỉ tập sự xuất gia nó nằm nơi bài thơ, nó giấu kín tâm sự ở đó! Chúng ta hãy xem nào! Chiếc cầu chạm vẽ nói lên thân thế hoàng gia của ngài. Cái thân thế ấy in ngược trên lòng khe như mộng, như ảo. Tuổi đã thu rồi, xế chiều rồi, chỉ còn vệt nắng cuối cùng lấp lánh nơi ngấn nước ngoài rìa bờ khe. Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ. Sao lại nghìn non? Đứng ở điểm nào mà thấy cả nghìn non? Đây là tâm thấy chứ không phải mắt thấy. Nghìn non là vận vật. Vạn vật đã âm thầm, lặng lẽ báo triệu sự vô thường, thu rồi, chiều rồi; “ngô đồng nhất diệp lạc” đã báo thu rồi - huống hồ cả nghìn non rơi lá đỏ? Còn chần chờ, lần lữa gì nữa? Gẫm lại việc nước còn đa đoan, bề bộn, nặng nề quá; chẳng khác gì đám mây kia, đẫm nước, ướt nước không nhẹ nhàng bốc cao lên được; chỉ có việc chấp nhận tại thế, nằm đây mà mơ mà mộng tiếng chuông chùa xa mà thôi! Chưa xuất gia được đâu! Như vậy, thơ chính là tiếng nói u tịch, kín đáo của lòng mình; tâm cảnh tương quan, duyên khởi - không có ở đâu rõ ràng hơn thế! Còn nữa, Thái thượng hoàng yêu mến Trần Đạo Tải nên sai bày dọn sơn hào hải vị đãi Tải, ngài ngồi bên, nói thơ... Sơn tăng giữ tịnh giới. Cùng ngồi, không cùng ăn(29). Nhà vua tự gọi mình là sơn tăng - có vẻ như câu nói giỡn chơi của một người vừa tập sự tu hành; nhưng cũng đã chứng tỏ một cốt cách nào đó của con người đã lựa chọn chí hướng xuất trần cho đời mình. Cũng trong năm này - 1294, ngài còn phải trở lại kinh đô để tiếp phái bộ của Trung Quốc; sau đó, thảo văn thư xin thỉnh Đại Tạng kinh với Nguyên Thành tổ. Thấy phương Bắc tạm yên, ngài cầm quân đi đánh Ai Lao(30).Việc chiến tranh là bất đắc dĩ nên lòng nhà vua đâu có vui, Lạnh lẽo đường xa mơ điện cũ. Rối ren sầu dấy thấm ly nồng...(31) Ngài lại còn sợ mai sau chuốc lấy lời chê như Hán Vũ đế là ông vua hiếu chiến; thế thì nam nhi ở trên đời lật đật, vội vã với việc chinh chiến là để mà làm gì?(32) Thế là đã rõ, nếu năm 1294 đã xuất gia rồi thì không thể cầm quân đi đánh giặc, không thể uống rượu và cũng không thể mơ cung điện cũ! Khi Ai Lao đã thuần phục, tháng 6 năm 1295, ngài trở về, sau đó xuất gia ở hành cung Vũ Lâm(33). Một số tư liệu khác thì nói đến năm 1299, Thái thượng hoàng mới xuất gia, sau đó vào Yên Tử, dựng Chi Đề tinh xá, thọ trì 12 pháp đầu-đà, tự gọi là Hương Vân đầu-đà!(34) Năm 1299 có lẽ đúng hơn năm 1295 - vì khi vị tỳ-khưu đã thọ trì 12 pháp đầu-đà thì họ nguyện giữ giới luật rất nghiêm túc, nếu không muốn nói là rất khắc khổ, rất thánh hạnh(35). Tuy nhiên, ở đây, ta hãy bỏ qua những tồn nghi về năm tháng xuất gia và thầy truyền giới(36) vì nhiều sử liệu mâu thuẫn, phức tạp khó xác định chính xác. Có lẽ xuất gia rồi, Hương Vân đầu-đà dường như để tâm toàn bộ cho việc học đạo, hành đạo và dạy đao - do mở pháp độ tăng, người học đến rất đông(37); chỉ một lần ngài về kinh đô để nghiêm khắc chỉ dạy Trần Anh Tông trong một lần ông vua trẻ này uống rượu say(38). Năm 1301, Hương Vân đầu-đà cất bước nam du - có lẽ là tam y nhất bát - rời Yên Tử đến Bố Chính(39), ngụ ở am Tri Kiến(40), sau đó lần lượt bộ hành sang đất Chiêm. Và có lẽ đây là sứ mệnh ngoại giao cuối cùng của ngài đối với đất nước: Tìm sự yên bình lâu dài cho biên giới phía Nam. Ngài đi, lần này, chẳng võng lọng, nghi trượng, chẳng áo mão cân đai, chẳng ngựa xe hầu đón - mà chỉ là một vị sư đầu trần chân đất, ngàn nhà một bát xin ăn, sá gì cô lẻ chiếc thân dặm ngàn(41), tại kinh đô của đất Phật(42) để tìm sự bang giao hiếu hòa bền vững. Và nhờ vậy, mấy năm sau, Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý để làm quà sính lễ cưới Huyền Trân công chúa.
Vậy là tạm giải mã xong cái nốt ruồi bên vai trái gánh vác sơn hà xã tắc và thanh gươm ngắn thần linh trao để lãnh đạo hai cuộc chiến tranh tự vệ. Còn màu da vàng ròng như Kim Phật và đóa sen vàng to như bánh xe mọc nơi lỗ rốn là sao nhỉ? Đây có lẽ là giai đoạn lên làm Thái thượng hoàng để nhiều thì giờ hơn cho việc tu tập - và đặc biệt từ sau năm 1299 - lúc ngài thọ trì 12 pháp đầu-đà, tự xưng là Hương Vân đầu-đà!

Về thơ
Có lẽ Trần Nhân Tông làm thơ không nhiều. Chỉ có 32 bài và ba đoạn phiến(43) tìm kiếm được thì quả là khiêm tốn. Đọc hết số thơ ấy, ta thấy rằng, nếu loại trừ 05 bài thơ xã giao, thù tạc; loại trừ thêm 03 bài Tây chinh, Khuê oán, Với Văn Túc Vương; bỏ luôn cả 03 bài có hơi hám Đế vương như Cây mai, Đêm 11 tháng 2, Ngày xuân thăm Chiêu Lăng; cũng bỏ luôn 01 bài kệ thị tịch (vì kệ, không phải thơ); cũng bỏ luôn 03 đoạn phiến - thì số còn lại mới chính thật là thơ, thơ có hồn thiền, hình tượng thiền, có tư tưởng thiền, súc tích, cô đọng. Tôi xúc cảm, tôi hứng thú loại này hơn. Người ta nói rằng thơ văn ngài là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ. Ở đấy cũng thể hiện sự hòa hợp khó chia tách giữa một ngòi bút vừa cung đình vừa bình dị, dân dã, có cả những kiến thức sách vở uyên bác với sự từng trải lịch lãm. Bình như vậy quả là tuyệt; là quá trân trọng một nhà thơ lớn, một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc! Tuy nhiên, có ai ngờ rằng, nhận xét ấy là nhận xét của người cỡi ngựa xem hoa, chưa hiểu gì về thơ Trần Nhân Tông cả; vô tình đã hạ thấp giá trị minh triết và giá trị thiền học ẩn tàng trong ngôn ngữ nghệ thuật và hình tượng nghệ thuật của tác giả. Trong 32 bài thơ và 3 đoạn phiến - không cần kể số đã loại trừ - không có chỗ nào là cảm quan triết học cả, có chăng là cảm quan thiền học. Dĩ nhiên, có triết học, nhưng triết học ấy đã bị lặn chìm, mất dấu; lý trí phân tích, suy luận cũng vắng mặt. Cảm quan thế sự ư? Cũng không thấy. Nó có thể có nỗi buồn (Đêm 11 tháng 2, Tây chinh), có thể thương xót người thiếu phụ (Khuê oán), có thể có những câu nói khách sáo, xã giao với sứ Tàu - nhưng nhất định không phải là chuyện được mất, hơn thua, thành bại, sang hèn, giàu nghèo... của thế sự, của người đời, việc đời! Lại nữa, ta phải hiểu rằng, sau khi cả ba phương Bắc, Tây, Nam gươm giáo lặng, Hương Vân đầu-đà trở lại Yên Tử với cảnh tiên, tâm Phật; đặc biệt khi tự xưng mình là Hương Vân đầu-đà rồi, sống đời một khất sĩ khổ hạnh rồi, thì dường như ngài không còn một chút dính mắc gì nơi trần thế nữa: Trói buộc gì đâu, tìm giải thoát? Không phàm, hà tất kiếm thần tiên? Vượn nhàn, ngựa mỏi, người thêm lão. Như cũ, am mây, một chõng thiền! Tiếp theo, Phải, trái, niệm rơi hoa buổi sớm. Lợi, danh lòng lạnh trận mưa đêm. Rụng hoa, tạnh hạt, non yên tĩnh. Còn tiễn xuân tàn, một tiếng chim!(44)Thấy chưa? Ý niệm về chuyện phải trái nó rơi theo hoa buổi sớm rơi. Cái tâm về lợi danh nó lạnh ngắt giống như trận mưa lạnh ngắt đêm rồi! Và ngay chính cái rơi, cái lạnh ấy cũng không còn nữa, nó rụng, nó tạnh hết rồi, chỉ còn non yên tĩnh mà thôi. Cái non yên tĩnh ấy, các bậc thức giả có nghe không, có một tiếng chim vừa hót lên, nó đang tiễn xuân đấy! Thật là tuyệt! Kín đáo, ý vị, thi vị, thiền vị đến thế là cùng! Hoặc: Chim hót khoan thai khóm liễu hoa. Bóng thềm nhà vẽ mây chiều qua. Việc đời, khách đến thôi không hỏi. Cùng tựa lan can ngắm biếc xa(45). Không những việc đời không buồn hỏi - mà cả trăm việc, ngàn việc cũng như thế: Muôn việc nước xuôi nước. Trăm năm lòng hỏi lòng(46). Người tu thiền chỉ nên quán việc đời, quán cảnh, quán muôn việc, quán pháp vô thường, vô ngã, trôi chảy, dịch hóa, dịch biến; quán tâm, nghe tâm, lắng nghe tâm, quán thế âm, tâm ngữ tâm mà thôi! Không có đâu hiển ngữ rạch ròi như hai câu thơ ấy - cho nên đừng nói cảm quan thế sự mà có tội! Người ta nói, sai một ly đi một dặm; nhưng ở đây chỉ một sợi tơ, sợi tóc là đã cách biệt muôn trùng! Còn lạc quan, yêu đời? Có thế chăng? Tôi đã đọc đi đọc lại hằng chục lần nhưng chẳng thấy chỗ nào là lạc quan, yêu đời cả. Lạc quan, yêu đời là tốt ư? Nó có tốt hơn nhìn đúng chân tướng của sự vật, của muôn pháp không? Phật ôi! Có lạc thì phải có bi, có yêu thì phải có ghét! Đức Đại sĩ của chúng ta sao lại còn phải khòm lưng, cúi đầu trong cái tròng nhị nguyên khốn khổ, tầm thường và tục lụy ấy? Xin thưa, thơ ngài chẳng lạc quan mà cũng chẳng bi quan, đa phần là nói thực, thấy thực, nghe thực, nghĩ thực - thực cảnh, thực tâm - nhưng cái thực cảnh, thực tâm ấy đã được chắt lọc qua cảm xúc tinh tế của nghệ thuật, của thiền tâm! Ta hãy nghe một vài. Khói thu, lạnh lẽo mái chùa xưa. Hiu quạnh, câu thuyền chuông vẳng đưa. Nước sáng, non yên, âu trắng lượn. Mây nhàn, gió lặng, đỏ cây thưa!(47) Chúng ta để ý, ngoài cái thấy thực, nghe thực, chúng còn: Nước sáng, non yên, gió lặng, mây nhàn... thì sẽ hiểu được cái tâm, cái trí và dụng ý của tác giả. Ở đây, thi sĩ đã sử dụng tu từ mà nhẹ nhàng, trong vắt dường như không cần phải dụng công tu từ: Sáng là tuệ; yên, lặng là định; nhàn là tâm! Thế đấy, thực là thơ thiền thì không cần sử dụng ngôn ngữ kinh điển khô khan hoặc khái niệm trừu tượng của lý trí vọng thức đa sự! Bài khác: Đèn soi nửa cửa, sách đầy giường. Khí lạnh sân thu rỏ giọt sương. Thức dậy, mơ hồ chày đập áo. Trên cành hoa mộc, ánh trăng vương(48). Hai câu đầu là thực, tả thực, một nét phác thảo chắt lọc cảnh. Câu ba là âm thanh ở xa vọng lại, đã đi vào tâm. Câu bốn, nhờ tuệ, nhờ định mà chụp bắt ngay được cái tinh tế của thực tại hiện tiền: Trên cành hoa mộc, ánh trăng vừa lên! Tác giả không cần nói đương xứ tức chân(49) như Đại Niệm Xứ, như Vipassanā mà vẫn chụp bắt được cái đang là, cái như thị! Có “tuyệt cú” không chứ! Thêm một bài nữa. Xóm trước, làng sau tựa khói lồng. Bóng chiều nửa có, nửa dường không. Đi trong tiếng sáo, trâu về hết. Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng(50). Đây cũng là bài thơ tả thực, ngắm cảnh mà tả thực. Thật khó mà biết được tác giả có gởi gắm, có gói ghém toàn bộ tư tưởng của bài kệ Hữu cú, vô cú(51) siêu tuyệt có, không, chẳng dính mắc có không trong câu 1, 2 hay chăng? Và nếu vậy thì nó là vọng âm thượng thừa tư tưởng ly cứ cú, tuyệt bách phi của Thiền tông để cắt đứt sắn bìm, cắt đứt tất cả huyền đàm hý luận của bọn thầy tu áo vá, đau não điên đầu; của bọn lập tông lập chỉ, đập ngói xoi rùa; của bọn tìm gươm khắc dấu mạn thuyền; của bọn chấp vào ngón tay mà quên mất mặt trăng; của bọn tra tra xét xét, phố chợ ồn ào...(52) để không còn cái xiềng xích nhị nguyên phân biệt bên này và bên kia, mê và giác, có và không, phiền não và bồ đề, sinh tử và niết-bàn...; và cũng có thể là tháo tung cả tám chữ (53) không còn nơi nào để bám víu nữa để tiêu diêu, để khoát hoạt, để thong dong tự tại... Nhưng để nói được ý tưởng đó, tác giả đã lồng ghép, hòa tan tư tưởng thiền với hình tượng nghệ thuật: Đi trong tiếng sáo, trâu về hết! Ngưu quy tận! Hình ảnh bức tranh cuối cùng trong mười bức tranh chăn trâu hiện ra trong tâm trí chúng ta: Trở lại cội nguồn, về với cội nguồn, vong ngã, vong pháp, thõng tay vào chợ hoặc trở về với thực tại hiện tiền “Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”cũng y như nhau, cùng một lập nghĩa!

Thế đó, thơ của ông vua thiền sư thi sĩ, đọc đâu tôi cũng thấy ý tưởng thiền được ẩn tàng, không lộ liễu. Ngoài ra, có nói đến lòng vị tha. Nhưng nói vị tha thì không chuẩn xác, phải nói là tâm bi mới đúng - đó là bài Trúc nô minh: Tâm không đùa ngạo tuyết. Đốt cứng, dãi dầu sương. Mượn ngươi làm nô bộc. Lại ngại ngược tính thường!(54). Thật là bi mẫn tinh tế hết chỗ nói. Quý vị biết sao không, trúc nô, thanh nô, trúc phu nhân là tên gọi một loại gối tựa hoặc gối kê tay đan bằng sậy hay bằng trúc(55). Nhà vua thi sĩ của chúng ta (Hương Vân đầu-đà thì không được phép) khi sử dụng chúng vào mùa hè, luôn kề cận ở bên mình, lại chợt nhớ tới các hàng nô bộc (thời Trần còn nô lệ) ở xung quanh. Trong hàng ngũ nô tì ấy vẫn có những phẩm cách cao quý, vẫn có những anh hùng như Dã Tượng, Yết Kiêu - và chính bọn họ lại giúp cho nước nhà khi hữu sự; là những người hứng chịu hòn tên, mũi đạn! Ngoài ý nghĩa đó ra, bài thơ còn là vọng âm của Phật ngôn: Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn!
 
Về phú
Thơ thì Hán nhưng phú thì hoàn toàn sử dụng tiếng Nôm cho ai cũng hiểu được, là một bản tuyên ngôn phong phú, dị giản về đời sống thiền và tông chỉ của phái Trúc Lâm Yên Tử mà ngài đã là Sơ tổ. Bài phú Cư trần lạc đạo (không kể Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca) là một tuyệt tác văn học và thiền học bằng văn Nôm sớm nhất ở nước ta. Nó có nhiều tiếng Việt cổ, nôm na, dân dã mà ngày nay đã mất hẳn. Có cấu trúc biền ngẫu, có âm vang, nhịp điệu, có cân bằng, niêm đối chỉnh chu. Có cách sử dụng danh từ, động từ tạo hiệu ứng, nhân hóa, ấn tượng mà ngày nay gọi là phép tu từ. Ngoài ra, chính ở bài phú nầy mới chứng tỏ kiến thức bác lãm, kinh lịch, chứng tỏ một sức học thâm uyên của tác giả. Trọn vẹn tư tưởng của bài phú này có thể tóm thâu là: Mọi việc trăm năm cõi thế, đời người, tử sinh không hỏi nữa; mọi ngõ ngách tư tưởng đã được tháo tung, mọi tham sân phiền não đã được giải quyết; và còn nhiều biên tế tư duy chập chờn đã được đèn tuệ soi tỏ; mọi thiền, mọi ngữ lục, mọi kinh điển đều đã bước qua; dứt tất thảy mối nghi, vằng vặc tâm, vằng vặc tuệ, vằng vặc giải thoát; và cuối cùng là để tâm hỷ xả, sống thung dung, an nhàn, tự tại giữa cuộc đời - đúng như tuyên ngôn trong Hội 01, mở đề: Mình ngồi thành thị. Nết dụng sơn lâm. Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính. Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. Và rồi, dường như đọng lai, tụ lại nơi 4 câu kết, như là câu tuyên ngôn cuối cùng: Ở đời vui đạo hãy tùy duyên. Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền. Của báu trong nhà, đừng kiếm nữa. Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền!(56) Thật ra cũng chỉ đơn giản như vậy thôi, hãy tùy duyên mà sống. Đạo tự nhiên như hơi thở, tự nhiên như đói thì ăn, khát thì uống. Ăn cơm chưa? Dạ rồi! Thì hãy uống nước đi! Hoặc, Đói ăn, khát uống, sờ ngay cửa! Nóng quạt, rét run, đá trúng sườn! Đạo là đó! Thiền là đó! Cũng là vọng âm của thiền Nguyên thủy Vipassanā: Ăn biết ăn, đi biết đi, ngồi biết ngồi... Và rốt ráo nhất của nó là Thấy như thực thấy, nghe như thực nghe...(57) Tinh yếu thiền giống nhau cả thảy. Cực Lạc, Tịnh Độ, Di Đà, Viên Giác, Kim Cương, Pháp Hoa, tính sáng, tính trong, tính giác, thực tại hiện tiền, bản lai diện mục, vô vị chân nhân, chân như, đàn không dây, câu không lưỡi, sáo không lỗ, khúc vô sinh, thái bình ca... gì gì đó đều có sẵn trong lòng mình, là viên minh châu còn nằm trong manh áo của thân tứ đại rách rưới này! Đừng hỏi gì về thiền nữa, thiền là đó, thiền là vô tâm, thiền là để tâm hư, tâm không, tâm rỗng rang không chấp trước vọng cầu - lúc đối cảnh, lúc giao tiếp với thiên nhiên, ngoại vật, pháp trần... Thế rồi, chỉ còn hai chữ vô tâm lấp lánh, phát sáng. Vô tâm này chắc hẳn không phải là vô tâm của Trần Thái Tông : Chớ bảo vô tâm là đạo vậy. Vô tâm còn cách một ngăn rào(58). Đúng vậy, vô tâm của Trần Thái Tông là ý niệm vô tâm, chấp vào vô tâm hoặc vô tâm ấy là không có tâm, không có niệm... Thế là trệ không, dính vào không, kẹt không! Còn vô tâm của Hương Vân đầu-đà là không tính(59), là duyên khởi nên không, nó ở ngoài không có, nó sinh ra không có; là không của bên kia hữu cú, vô cú, của giải thoát, của mênh mông hề phương ngoại phương! Nói khác, vô tâm của Trúc Lâm đại sĩ nó ôm trọn Tứ tuyệt tứ của Khổng, vô vi của Lão, vô tâm của Đạt Ma, vô niệm của Huệ Năng... Tức là ở trên phạm trù triết học; chính là tinh yếu, là cốt lõi, là minh triết của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử Điều Ngự Giác Hoàng Hương Vân đầu-đà!

Dẫn kết,
Người ta thường nói, thiền Trúc Lâm Yên tử là Thiền Việt Nam! Đây là dấu hiệu tốt, một ý thức độc lập, tự chủ muốn ly thoát cái bóng vĩ đại của đế quốc phương Bắc đã phủ trùm dân tộc ta thuộc mọi lãnh vực. Vua Trần Nhân Tông, Thái thượng hoàng và Hương Vân đầu-đà đã làm như vậy trong ba giai đoạn đời người của mình(60). Tuy nhiên, không có cái gọi là thiền Việt Nam! Yếu tính thiền, yếu chỉ thiền là kiến tánh, thấy rõ thực tánh, liễu ngộ thực tánh thì thiền Nguyên thủy, thiền Đông độ, hay Zen đều giống nhau(61). Nếu nói là thiền mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt thì nghe ổn hơn. Nhưng điều ấy cũng chưa nói được gì - vì rằng, Phật giáo đến quốc độ nào đều mang bản sắc văn hóa bản địa của dân tộc ấy; ví dụ, Trung Quốc kết hợp Phật với Khổng Mạnh và Lão Trang; và sau khi thiền Đông độ ra đời, sau Huệ Năng - thì thiền ấy trở thành thiền phù hợp với khẩu vị, bản sắc văn hóa Trung Quốc. Nhật Bản thì kết hợp với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng Thần đạo dân tộc - mà biến thành Zen; Tây Tạng kết hợp với đạo Bon, tín ngưỡng thờ ma quỷ, huyền thuật mà thành Mật tông! Ấy là sự thật trong lịch sử Phật giáo thế giới, không có gì là đặc thù, khu biệt và mới mẻ cả. Phải nói rằng, Trần Nhân Tông, sau khi tiếp thu trọn vẹn mọi nguồn, mọi tông phái thiền học đương thời, ngài vận dụng thêm tư tưởng nhập thế tích cực hơn để đáp ứng với tình thế đất nước - huy động toàn bộ nhân dân không kể đạo đời, tăng tục cùng đoàn kết chống ngoại xâm, xây dựng đất nước - thì khả dĩ hơn. Tôi nói khả dĩ hơn, vì thật ra, cái vận dụng nhập thế tích cực, đạo đời, tăng tục không có biên ranh thì đã có từ thời Lý Thánh Tông với thiền phái Thảo Đường; và gần nhất là các thiền sư cư sĩ như Ứng Thuận, như Tuệ Trung! Trần Nhân Tông chỉ là người tiếp lửa cho xu hướng Phật giáo nhập thế tích cực ấy! Chính điều quan trọng nhất, mấu chốt nhất, cốt tử nhất mà chưa ai đề cập là: Thiền nhập thế ấy, kết hợp phong phú, sinh động bởi một con người minh triết, một vị tỳ-khưu, một Hương Vân đầu-đà - mới trở nên một cái gì vĩ đại, là cái điểm mốc, là cái dấu ấn vàng son trong lịch sử dân tộc. Thiếu một trong hai sẽ trở nên vô hồn, chỉ là cái xác khô rỗng. Nó khập khễnh. Nói cách khác, khái quát và dung hợp trọn vẹn hơn: Thiền nhập thế ấy được thổi hồn sống, được tiếp truyền năng lượng tâm linh bởi một vị vua trẻ tuổi từng là một vị anh hùng lãnh đạo hai cuộc chiến tranh tự vệ oanh liệt; một nhà chính trị, quân sự kiên cương nhưng thầm lặng; một nhà ngoại giao cứng mềm tùy nghi nhẫn xả; một người xây dựng đất nước có chiến lược, có tầm nhìn xa, trông rộng; lại là một nhà văn hoá cầm đuốc dẫn đạo tiên phuông phục hồi, duy trì và phát huy ngôn ngữ Việt; một thiền sư sơ tổ Trúc Lâm đại sĩ tầm vóc lớn lao; một nhà tu khổ hạnh tam y nhất bát du phương, một nhà thơ trong sáng và tịnh định hồn thiền; một nghệ sĩ cốt cách mai hoa cam lộ lưu phương(62) mới chính thật là vô tiền, khoáng hậu! Trong lịch sử thế giới, ở đâu có sự tổng hợp, tương hòa, hỗn dung... kỳ diệu, tối đại thượng thừa như thế chứ? Không, không có! Và chưa hề có!
Nói tóm lại, dẫu tôi có nỗ lực giải mã một vài tứ thơ của Đại sĩ, ở đâu đó, cũng thản như đầu thượng trước đầu, cũng chỉ như tuyết thượng gia sương(63) mà thôi. Tôi đi tìm cái gì đó, một mùi thơm của đóa hoa minh triết 700 năm ư? Thiền sẽ nói, là kiếm tìm dấu chân trên cát, nắm bắt tượng mây giữa trời! Tất thảy đều vô vọng, bất lực như đang đối diện trước hố thẳm của ngôn từ! Cuộc đời này, trong lịch sử hoặc mọi cái đang xẩy ra, đang diễn ra trên thế giới, trong lòng trần gian - nó rối rắm, phức tạp lắm, tôi không hiểu, không biết gì đâu; tôi chỉ muốn nói đến con người, một nhân cách thấm đẫm nhân văn, nhân bản mà hồn thiền và minh triết Việt không còn biên giới. Đại sĩ là vậy. Con người Đại sĩ là vậy.
Chúng ta cũng thật xót xa mà nói rằng, thời này, mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm thì có được mấy người, hay là đã hòa kỳ quang mà đồng kỳ trần(64) cả rồi? Hay hễ đói thì cứ ăn tự nhiên, khát thì cứ uống tự nhiên như Trúc Lâm sơ tổ? Tuy nhiên, vi tiếu chút vậy thôi, nếu ai cũng đại nguyện bồ-tát ngũ trược ác thế thệ tiên nhập(65) cả thì tôi đâu có dám lạm bàn, tụt lưỡi đấy! Cái đó là cái nguyện của mỗi người. Ai cũng đang thò tay đi những quân cờ giữa trận đồ duyên khởi tại thế; nó đang tiếp diễn, liên tục, dịch hóa, không thể dừng lại được; dừng lại là vũ trụ vỡ thành bảy mảnh!
Tôi đi tìm lại chút hương nơi cõi non xanh mây tía ấy, nhưng tôi tìm trong thơ, theo cách thi giải riêng của mình! Và tôi biết, phương pháp thi giải thì dễ thơ thẩn, lẩn thẩn, chủ quan, cảm tính và mơ hồ sương khói lắm; không nghiêm túc, công phu, bác học như phương pháp sử luận đâu! Nhưng lạy Phật, hương thơm minh triết hơn 700 năm qua, tôi cảm nhận trong riêng tư, cô tịch, thầm lặng là nó vẫn còn đây; vẫn còn bát ngát, khinh phiêu, du viễn giữa trần gian, giữa muôn cùng cát bụi.
Và cuối cùng, bài thơ này thì tôi không thi giải được:“Thế số nhất tức mặc. Thời tình lưỡng hải ngân. Ma cung hồn quản thậm. Phật quốc bất thắng xuân”. Tôi không biết thế là gì? Số là gì? Lại càng không biết thời là gì? Lưỡng hải ngân là gì? Rõ là nơi những con chữ ấy còn ẩn tàng nhiều lớp nghĩa. Đúng hơn là còn bí hiểm. Xin các nhà nghiên cứu, các bậc thức giả, trí giả giải mã cho!
Tôi chỉ tạm dịch: Số đời hơi thở lặng. Tình đời đôi mắt trong. Ma cung vây chặt cả. Nước Phật xuân mênh mông!(66)
 
Chú thích:
(28) Họa kiều đảo ảnh trám khê hoành. Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh. Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc. Thấp vân như mộng viễn chung thanh.
(29) Sơn tăng trì tịnh giới. Đồng tọa bất đồng san.
(30) Theo Đại Việt Sử ký toàn thư.
(31) Thê lương hành sắc thiêm cung mộng. Liêu loạn nhàn sầu đáo tửu bôi - (Tây chinh đạo trung).
(32) Nam nhi cấp cấp nhược vi tai! (trong bài thơ trên).
(33) Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
(34) Theo Thánh đăng ngữ lục.
(35) Đầu-đà, âm của chữ Dhutaṅga - nghĩa là pháp tiêu hủy, tẩy rửa phiền não. Theo Nam Tông thì có 13 pháp, gọi là đầu-đà bậc thượng - chúng gồm có:
- Chỉ mặc y phấn tảo (vải dơ, bẩn thỉu người ta quăng bỏ nơi đống rác, nơi nghĩa địa (bó tử thi), lượm về, giặt sạch, tự may lấy). Nguyện suốt đời không mặc y tốt người ta dâng cúng.
- Chỉ mặc 3 tấm y (y lót trong, y mặc ngoài và y đắp), có tấm thứ tư phải xả bỏ.
- Chỉ giữ hạnh đi khất thực (xin ăn cao thượng), không nhận bất cứ ai mời thỉnh trai tăng.
- Chỉ tuần tự đi khất thực từng nhà một, không được lựa chọn nhà này mà bỏ nhà kia.
- Chỉ ngồi một chỗ mà thọ thực, một lần, đứng lên rồi là không được dùng bất kỳ thứ gì nữa.
- Chỉ thọ thực ở trong bát, một bát, không được dùng ngoài bát hay bát thứ hai.
- Không được dùng hậu thời (sau ngọ), khước từ tàn thực, khước từ mời mọc vật thực cúng dường sau đó.
- Hạnh trú ở rừng - không được cư ngụ trong làng, thị trấn...
- Ngụ dưới gốc cây, tàn cây - từ chối chỗ có che lợp hoặc liêu thất, tịnh xá.
- Ngụ giữa khoảng trống, chỗ không có mái che, không có cả tàn cây, bóng cây.
- Ngụ ở mộ địa, chỗ người ta chôn hay thiêu xác chết.
- Chỗ tăng chỉ định đâu thì ở đó, không kén chọn.
- Ngăn oai nghi nằm. Nguyện suốt đời chỉ đi, đứng, ngồi chứ không nằm.
Theo Đại thừa nghĩa chương thì có 12: Phấn tảo y, thường tam y, thường khất thực, ngọ trai thực, nhất tọa thực, tiết lượng thực, không nhàn xứ, trủng gian tọa, thụ hạ tọa, lộ địa tọa, tùy tọa, thường tọa bất ngọa.
(36) Thọ giới tỳ-khưu từ thời Khương Tăng Hội phải có Tam sư, thất chứng. Nếu theo Nam tông thì phải có tối thiểu 01 hòa thượng, 02 luật sư và 2 tỳ-khưu - tức 5 vị - mới đủ số Tăng hội, đại diện Tăng. Tuệ Trung là cư sĩ, có thể truyền tâm pháp, yếu chỉ thiền cho vua chứ không có chức năng làm thầy thế độ.
(37) Theo Thánh đăng ngữ lục.
(38) Theo Đại Việt Sử ký toàn thư.
(39) Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính là vùng đất thuộc Chiêm Thành mà Lý Thánh Tông đã có công sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, năm 1069 - tức tỉnh Quảng Bình là hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh của tỉnh Quảng Trị ngày nay.
(40) Trích dẫn theo Toàn tập Trần Nhân Tông của GS. Lê Mạnh Thát. Cái am mà có tên là Tri Kiến (và nhiều chùa khác nữa) đủ chứng tỏ thuở đó chánh pháp rất hưng thịnh tại đất Chiêm Thành cũ (Ý của người viết).
(40) Có lúc, ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía Nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành - (sđd, nt); còn câu thơ, chữ Hán: Nhất bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du... (đã quên xuất xứ).
(41) Trì bình khất thực là một trong 12 pháp đầu-đà. Đầu-đà là tàu âm của chữ Dhutaṅga - có nghĩa là những pháp tiêu hủy, tẩy trừ phiền não. Đây là pháp hành phổ thông của các xứ Phật giáo Nam phương như Tích Lan, Myanmar, Thái , Lào, Campuchia... Chính những nhà hành hương vĩ đại như Pháp Hiển, Huyền Tráng, Nghĩa Tịnh đều có ghé Champa (Chiêm Thành) để học thêm tiếng Phạn (không rõ Saṅskrit hay Pāḷi- vì ở đây nhiều thế kỷ trước đã phát triển mạnh mẽ Phật giáo Nam phương- nghĩa là không ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc.
(42) Theo Toàn tập Trần Nhân Tông của GS. Lê Mạnh Thát.
(43) Thơ văn Lý Trần II, tr. 452.
(44) Thùy phọc cánh tương cầu giải thoát. Bất phàm, hà tất mịch thần tiên. Viên nhàn, mã quyện, nhân ưng lão. Y cựu, vân trang nhất tháp thiền. Thị phi niệm trục, triêu hoa lạc. Danh lợi, tâm tùy dạ vũ hàn. Hoa tận, vũ tình, sơn tịch tịch. Nhất thanh đề điểu hựu xuân tan! (Sơn phòng mạn hứng)
(45) Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì. Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi. Khách lai bất vấn nhân gian sự. Cộng ỷ lan can khán thúy vi. (Xuân cảnh).
(46) Vạn sự thủy lưu thủy. Bách niên, tâm ngữ tâm...(Đăng Bảo đài sơn).
(47) Cổ tự thê lương thu ái ngại. Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ. Thủy minh, sơn tĩnh, bạch âu quá. Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ. (Lạng châu vãn cảnh).
(48) Bán song đăng ảnh mãn sàng thư. Lộ trích thu đình dạ khí hư. Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ. Mộc tê hoa thượng, nguyệt lai sơ (Nguyệt).
(49) Thiền tông cũng thường mượn câu này, để chỉ cái thực tại bản nguyên, trạng thái hiện hữu tự nhiên của các pháp; thiền Nguyên thủy (cả kinh tụng hằng ngày) có chữ đồng một nghĩa: Thực tại hiện tiền (Sandiṭṭhiko - xem Thiền Phật giáo - Nguyên thủy và Phát triển, tr. 139-140 của Viên Minh, NXB Tôn giáo, năm 2007.
(50) Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên. Bán vô, bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lý ngưu quy tận. Bạch lộ song song phi hạ điền (Thiên trường vãn vọng).
(51) Xem Thơ văn Lý Trần, Q.II, tr. 488.
(52) Như trên, Sđd.
(53) Là tám chữ: Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc. Đây là bài kệ lấy trong kinh Niết-bàn. Tuệ Trung mượn làm câu cử trong bài tụng cổ. Hương Vân đầu-đà mượn trong bài Hữu cú, vô cú. Tám chữ này, xưa nay đều dịch là: Sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui! Tuy nhiên, theo Lý Việt Dũng, bản dịch chữ Hán như vậy là không được chính xác. Kinh Niết-bàn của Dīgha Nikāya cũng có câu như trong Hán tạng: "Uppajjtvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho" phải được dịch là, sinh rồi diệt (có sanh ắt có diệt), tịch diệt (sự vắng lặng của các hành, sự không tịch của các hành) mới là vui ( cái vui của Niết-bàn, để khỏi hiểu lầm là một cái lạc phóng đại nào đó). Quả vậy, xưa nay đa phần hiểu lầm là để cái sinh diệt ấy diệt rồi mới có được cái lạc của Niết-bàn. Thật ra, ngay chính nơi thế giới sinh diệt mà thấy rõ thực tính - thì thực tính ấy đã là tịch diện hiện tiền rôi!(Xem thêm Tuệ Trung thượng sĩ dịch giải của tác giả, NXB Cà Mau, năm 2003, tr. 218). Có người lại còn hiểu lầm một cách tai hại, nguy hiểm chết người, hủy diệt cả giáo pháp Phật: Chết đi là vào Niết-bàn nơi cực lạc! (Phật giáo Việt Nam, NXB Mặt Đất, năm 1974, tr.200-của Nguyễn Đăng Thục).
(54) Ngạo tuyết tâm hư. Lăng sương tiết kính. Giả nhĩ vi nô. Khủng phi thiên tính (Trúc nô minh).
(55) Xem Thơ Văn Lý Trần II, tr. 485.
(56) Cư trần lạc đạo thả tùy duyên. Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
(57) Thấy như thực thấy (diṭṭhe diṭṭhamattaṃ bhavissati). Nghe như thực nghe (sute sutamattaṃ bhavissati) - xem thêm sách nơi ghi chú 54.
(58) Nguyên văn cả 4 câu: Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý. Bạch vân xuất tụ bản vô tâm. Mạc vị vô tâm vân thị đạo. Vô tâm do cách nhất trùng quan.
(59) Là Suñnatā: Không tính; là không có thực thể, ngã tính; vì duyên khởi nên các pháp là không, là vô ngã. Nó ly thoát tất cả mọi ý niệm không, phạm trù không do thế gian, con người dính mắc, hiểu lầm. Đại lược như: không của tư, không của ý niệm, không của thức, không của tưởng, không bên trong, không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, pháp giới không... Tất cả chúng đều sai lầm. Thật ra, không tính mới là thực tính của các pháp, không tính đồng nghĩa với pháp tánh như thị, như chân (Yathābhūtādhammatā)- cũng đồng nghĩa với thập như thị của kinh Pháp hoa.
(60) Xem thêm Toàn tập Trần Nhân Tông, Sđd.
(61) Kiến tánh là thấy rõ cái chân tánh, cái thực tánh( sabhāva) - xem thêm Thiền Phật giáo - Nguyên thủy và Phát triển của Viên Minh, NXB Tôn giáo, năm 2007.
(62) Cam lộ lưu phương - móc chảy mùi thơm ( Tảo mai)
(63) Nghĩa: Trên cái đầu, chồng thêm cái đầu - ý nói, ý niệm chồng thêm ý niệm thì che lấp cái chân thực. Câu sau, nghĩa: Thêm sương trên tuyết - tuyết đã che lấp mặt đất, che lấp cái thực địa mà còn phủ lên tuyết một lớp sương nữa. Cả hai câu đều cùng một thiền ý.
(64) Tư tưởng của Lão Tử. Đa phần các nhà nghiên cứu dịch là: Hòa với ánh sáng, cùng với bụi bặm. Có người giải thích thêm: Đem cái ánh sáng của mình mà chiếu soi, hóa độ cõi bụi bặm, xua tan bụi bặm. Riêng Lý Việt Dũng thì nói với đại ý rằng: Hòa kỳ quang là che bớt ánh sáng, bỏ cái lý trí thông minh sắc bén, tách bạch đi. Đồng kỳ trần là trọn vẹn với từng bước đi, từng hơi thở... mà mỗi mỗi tự tính đều viên mãn chứ không lăng xăng hướng ngoại cầu huyền. Đấy mới chính là Huyền Đồng của Lão. (Xem thêm Tuệ Trung thượng sĩ dẫn giải ngữ lục của tác giả, NXB Cà Mau, 2003, tr. 514.
(65) Lời nguyện của ngài Ānanda trong kinh chú Lăng Nghiêm. Nghĩa: Thệ nguyện là người đầu tiên đi vào cõi đời 5 trược ác uế - Trược là nhơ uế, cặn đục. 5 trược là: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược.
(66) Đề cổ châu hương thôn tự.
---------
Trích từ tập tiểu luận TIẾNG HÚ TRÊN ĐỈNH CÔ PHONG - MĐTTA

  Trở lại chuyên mục của : M.ĐTriều Tâm Ảnh