NGÃ DU TỬ


THẦY GIÁO LÀNG
 
Tôi còn nhớ như in buổi học đầu tiên của thời thơ ấu, tôi chắc rằng ít có người nào không nhớ cái buổi học đầu đời khó quên ấy và cái trường học mà thầy giáo đầu tiên cho tôi kiến thức đó, lại là ngôi trường kỳ lạ, có lẽ, thời đại nầy không thể tìm đâu ra nổi - Nó rất đặc biệt. Trường là mái che nối tiếp với nhà của thầy nên thấp, tuy vậy nó mãi ấm áp với bọn chúng tôi suốt thuở ấu thơ. Bây giờ ngồi viết lại bài nầy tôi còn thấy hương vị ngọt ngào ấy cứ len lén vào từng thớ thịt da, mà thầy có dạy gì là cao xa chỉ dạy tập viết, tập đồ và kể cho chúng tôi nghe những chuyện tập thói quen tốt, tập đánh răng súc miệng, tôi nhớ mãi bài hát thầy dạy chúng tôi: - “Nào ta cùng chải răng,răng, răng. Lau mặt mũi tay chân, chân, chân và ta sẽ chải đầu, đầu, đầu… Lễ phép với ông bà, cha mẹ, anh chị, đi thưa về trình và những gương hiếu thảo dễ nhớ, dễ nghe”…Mãi đến giờ vẫn còn nghe vang vọng.
Bàn ghế lại đơn sơ nhưng lạ lùng, bàn và ghế được làm toàn bằng thân tre, chân là đoạn thẳng của cây tre được đóng xuống đất, mặt bàn là hai đoạn thẳng song song dài hơn, liên kết với mặt bàn là những chốt tre tròn, ghế ngồi cũng như vậy nhưng thấp hơn, quả là đặc biệt phải không các bạn? Nếu ai không từng ở nông thôn thì chưa chắc hình dung nổi và nếu những ai thiếu óc tưởng tượng có lẽ cho tôi cường điệu. Không, đó là ngôi trường đầu đời của bọn chúng tôi tại làng Hiệp phổ nam, xã Nghĩa Hưng, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày tôi bước chân đến trường đầu tiên cũng là ngày khai giảng của trường tiểu học Nghĩa Hưng, mẹ tôi là giáo viên của trường tiểu học đó, nên mẹ tôi dắt tôi vào trường bà dạy, chính điều nầy đã thôi thúc tôi đi học.
Tôi được chứng kiến lễ tựu trường trước khi tôi vào lớp một. Sau tiếng trống vào lớp tất cả học sinh đều chỉnh tề, duy chỉ có các bạn học lớp một là luộm thuộm nhất vì đây là lần đầu các bạn đến ngôi trường nầy, thậm chí có bạn còn khóc cứ mãi nhìn mẹ mà chẳng chú ý lời của cô giáo, mẹ tôi vất vả lắm mới xếp được bốn hàng học sinh ngay ngắn vì mẹ tôi năm đó dạy lớp một. Lúc ấy tôi cũng bảnh lắm y như là học sinh thực thụ vậy (Có điều tôi mới ở cấp vở lòng chỉ vì mẹ là cô giáo nên được đứng ké trong hàng ngũ lớp một lát nữa lại phải rời trường tiểu học thôi để đến trường thầy Tuyến, tôi cũng quần soọc xanh dây treo, áo trắng ngắn tay, trên vai cũng cặp nhựa vàng như ai.
Ông Hiệu Trưởng đạo mạo mà uy nghiêm, ông không cao lớn quá mà oai phong lắm.
Buổi chào cờ được thực hiện khi tiếng hô vang lên:  “Nghiêm, chào cờ, chào” của thầy phụ trách, lá cờ tổ quốc được hai học sinh có thành tích trong năm qua kéo lên trước gió tới đỉnh cột. Và tiếng hô: “Quốc ca”, lập tức đồng loạt các thầy cô trò hát: ‘Nầy công dân ơi, Quốc gia
đến ngày giải phóng, đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống’… Xong.
Cả trường yên lặng hướng về thầy Hiệu Trưởng để nghe thầy nói chuyện đầu niên khóa với các thầy cô và học sinh khi bài quốc ca kết thúc.
Sau đó các em tuần tự vào lớp của mình, sân trường tiểu học lại vắng ngắt đến trang nghiêm lạ thường.
Sau khi dặn dò học sinh, mẹ tôi chép trên bảng đen thời khóa biểu học tập của lớp, các bạn cắm cúi chép vào vở, mẹ tôi gửi lớp cho cô giáo gần phòng, bà vội vàng dẫn tôi đi đến trường thầy Tuyến .
Hôm trước khi thỏa thuận cho tôi học, mẹ tôi đã nói với thầy rồi nên hôm nay tôi tới trường là thầy đón tôi ngay, thầy vồn vã và vui vẻ lắm, tuy nhiên cái cảm giác ở trường tiểu học còn lẩn quẩn trong tâm trí tôi nên khi thầy dắt tôi vào chổ ngồi rồi tôi cũng chẳng nhớ mẹ tôi về khi nào (Có lẽ bà vội vàng vì lớp một của bà, cho đến bây giờ tôi cũng chẳng nhớ nổi).
Bắt đầu từ đây, tôi trở thành học sinh của trường thầy Tuyến, cái làm cho tôi chú ý không
phải trường lớp quá đặc biệt nầy mà là thầy Tuyến, thầy không có gì tính chất của ông giáo như bạn nhà giáo của mẹ tôi, ai nấy cũng lịch sự áo quần thẳng nếp, giày đinh láng bóng lúc nào áo cũng trong quần, thỉnh thoảng lễ lộc gì là có cả cà vạt hay cả vecton nữa như buổi lễ Khai giảng vừa rồi.
Cái so sánh đầu tiên trong ý thức ngây ngô của tôi là như vậy, có thể nói thầy là một người dân dã thường thường trông ốm yếu, trên bàn thầy ngồi cũng đơn giản như con người thầy vậy, mặt bàn bằng gỗ được đặt lên bốn chân tre, bên trên là vài tập vở của các bạn, các anh, tất cả những tập vở đều cuốn cả góc trông tội nghiệp làm sao, thầy dạy hết các lớp: Có người lớp ba, lớp hai, lớp một và cả vỡ lòng như tôi.
 
Buổi đầu tiên ấy, thầy xuống tận bàn tôi, lấy vở phóng ba chữ cái và thầy bắt đầu chỉ tôi học a, b, c và lấy tập khác thầy sổ nghiêng, sổ đứng bảo tôi đồ (Tôi đã được học và đồ ở nhà rồi, nên chốc lát là xong ngay). Gần trưa thầy kiểm tra lại thấy xong cả, đẹp nữa, thầy khen tôi hết mực.
Chiến tranh ác liệt ở quê nhà, cả gia đình tôi ra phố, từ đó tôi không học với thầy nữa, thật sự tôi chỉ học được vở lòng vỏn vẹn ba tháng, chỉ ba tháng gắn bó với mái trường đặc biệt thuở bắt đầu cắp sách đến trường thế nhưng lòng cứ vẫn nhớ, bởi lẽ khi ra phố, tôi chẳng học vỡ lòng nữa vì tất cả được dạy ở nhà, lòng thuở ấy cứ băn khoăn mãi. Mỗi sáng, mỗi chiều thấy các anh chị đến và ra về trường lòng cứ nôn nao, khổ nổi nhà mới tôi ở phố Quảng Ngãi lại đối diện với trường Nam Tiểu học, nên hình ảnh học trò đi học và ra về ấy cứ lặp đi lặp lại, tôi chỉ mong ngày nào đó tôi cũng sẽ đi học như các anh chị bấy giờ.
 
                                                                        **
Sau năm 1975, nước nhà hết chiến tranh, đất nước được thống nhất, gia đình tôi lại hồi hương về quê quán, lệnh chính quyền mới như vậy.
Năm 1978 tôi lại được hân hạnh gặp thầy lúc bấy giờ tôi đã tốt nghiệp phổ thông được mấy niên khóa rồi, tôi chào thầy, làm sao thầy nhận ra tôi, bây giờ là một câu thanh niên cường tráng, mười mấy năm rồi còn gì.
Thầy hỏi: - Em là ai ?
Tôi phải giới thiệu với thầy để thầy nhớ lại vì biết bao nhiêu thế hệ học trò bé con ấy đến rồi đi và thời gian đã làm thay đổi nhiều thứ kể cả con người.

-Em là Dũng đây, con cô giáo Vang dạy trường Nghĩa Hưng, hồi nhỏ học vở lòng thầy nè.
-Ờ… thầy nhớ em rồi, lúc nhỏ, em nhỏ lắm, nhưng giờ cũng khá đấy chứ, thầy mừng đến nổi thầy xúc động mắt rưng rưng.
Thầy vẫn như xưa có khác chăng là thầy già và ốm hơn thôi, nhiều sợi tóc bạc được gội trắng  bới thời gian, vẫn chiếc áo bạc bình dị ấy, vẫn tầm thường  vậy nhưng lòng tôi lại ngậm ngùi vì sự đạm bạc, kham  khổ càng nhiều hơn với gia đình thầy, mặc dù bây giờ cả nước bắt đầu đói khổ vì tình trạng lập hợp tác xã nông nghiệp không hiệu quả tại khắp các tỉnh thành nam Việt Nam.
Thầy huyên thuyên hết chuyện nọ đến chuyện kia lâu quá lại đứng ngoài đường tôi bèn mời thầy vào quán ven đường gần đấy để tiếp tục chuyện trò, lòng tôi chân thành vậy nhưng đâu ngờ có lẽ chẳng quen với quán xá nên thầy một mực từ chối và vội vả chia tay tôi.
- Khi nào em rảnh ghé thầy chơi, thầy phải đi đây
- Ô, thầy, sao vậy thầy…
- Khi khác em nhé, thầy phải đi thăm ruộng, xin lỗi em
- Dạ…
Thầy đi rồi tôi mới thấy tiếc vì gặp thầy ít quá thời gian chưa nói được gì thêm, lòng lại hẹn khi nào sẽ ghé thăm thầy và thầm trách tại sao mình lại mời nước thầy.
Chẳng lẽ cả đời thầy chưa bao giờ vào quán nước, cũng có thể điều đó xảy ra, càng nghĩ tôi càng thấy tội nghiệp thầy, cả đời chỉ biết làm lụng, chăm nom các trẻ và những cánh chim non bay khỏi tổ ‘Trường thầy Tuyến’ rồi chẳng biết những con kia thế nào, liệu có cánh chim nào bay cao vùng trời rộng, rồi ngày nào đó khi công thành danh toại có lại quay về thăm thầy, thầy đâu cần phải đa tạ vì thầy đã vốn quen giản dị lại sống đạm bạc thế, chỉ là báo cho thầy biết rằng một trong những cánh chim non xưa ấy có đứa đã hiển đạt để thầy mừng đấy mà vì ít nhiều cũng có bàn tay, khối óc thầy chăm nom, vun quắn thuở ban sơ, không biết có ai còn nhớ, lòng tôi lại suy nghĩ vẩn vơ…
Và tôi nghĩ rằng đến lúc nào đó thành danh là sẽ quay về làng thăm thầy và phải mời thầy cho bằng được “vào quán nước” để đền bù cái việc hôm nay trong thâm tâm tôi cứ ray rức chuyện ấy hoài.
 
                                                                       * *
Thời gian cứ trôi đi, trôi đi lạnh lùng chẳng chờ đợi ai cả.
Tôi vào Sài Gòn để định nghiệp cứ hoài bôn ba, lênh đênh xứ người, phải thẳng thắn nói rằng ở Việt Nam nầy không nơi nào sống sướng và thoải mái bằng thành phố này từ thượng vàng hạ cám cái gì cũng có, điều đặc biệt là chẳng ai cần để ý đến ai, chỉ có điều là có tiền hay không và tôi cũng nỗ lực trong sức lực của mình, nhưng cuộc đời không giản đơn như bạn tưởng, không phải nỗ lực là được, đồng tiền cứ chơi trốn kiếm với tôi hoài, tôi thì bở hơi tai nhưng không kiếm ra nhiều nổi cứ lần lửa hẹn tới, hẹn lui một ngày về quê hương đàng hoàng.
 
Mãi đến năm 2000 tôi mới có dịp đưa vợ con về thăm quê, như vậy là hai mươi năm sau tôi mới có dịp về quê đàng hoàng, trời ơi, ngày xưa nghe người ta tập kết 21 năm sao nghe mà dài vậy, thế mà giờ nầy mà mình đã xa quê đến gần phần tư thế kỷ!
Một buổi chiều, mùa xuân năm đó, tôi ghé thăm nhà thầy, cảnh nhà cũng vậy, thời gian làm thay đổi tất cả nhưng với nhà thầy Tuyến thì chẳng có gì thay đổi lớn, có điều trông vắng vẻ hơn, điêu tàn hơn, sao những ngày qua Tết lại như vậy, tôi tần ngần khá lâu trước ngõ nhà của thầy, con chó nhỏ không sủa vì có người lạ, hay là nó hiểu rằng chắc người học trò cũ của chủ nó đến thăm thầy cũ thuở rất nhỏ.
Một phụ nữ khoảng gần sáu mươi, chắc là cô vợ của thầy, nhưng sao tôi thấy già quá, lam lũ quá, có lẽ đời sống quá cơ cực nên vậy chăng?…
- Cậu hỏi ai?
- Thưa cô…Cô có phải vợ thầy Tuyến?
Cô có vẻ thiệt thà hơi khúm núm:
- Dạ!
- Cô à. Em là học trò cũ của thầy hồi học vở lòng mà, em đến để thăm thầy, chắc cô chẳng nhận ra em đâu, em là con cô giáo Vang dạy trường Nghĩa Hưng cũ trong Phú Phâu.
- Trời đất, nghe nói em ở Sài Gòn.
- Dạ, thầy có nhà không cô?
Cô hơi lung túng, mắt buồn buồn nhìn xuống đôi chân trần chắc từng trãi trên đồng cao ruộng cạn, cô trả lời:
- Ông ấy mất rồi.
Tôi bàng hoàng, ngơ ngác, thì ra đã trễ rồi!. Vốn dĩ cuộc đời là vô thường, có đó rồi mất đó.
Vừa nói cô vừa đi vào mở cửa nhà trên, trước bàn thờ gia tiên có một bàn thờ khá mới mẻ, trên bàn thờ cũng tuyềnh toàng nải chuối cau vừa ửng vàng, hộp bánh tây nội địa loại rẻ tiền, bài vị viết nguyệch ngoạc nét của người ít học và tấm thẻ căn cước (Thẻ thời trước).
Chẳng lẽ, kết cuộc của một ông giáo làng lại như thế nầy sao?
Ngay cả một chứng minh nhân dân cũng không có.
Tôi tạm trú ở Sài Gòn - đất người chưa có chứng minh nhân dân đã đành, dẫu sao cũng có ‘chứng minh nhân dân tạm thời’ hình màu chỉ có điều là mọi quy chế không được như người có hộ khẩu chính thức, chỉ là công dân hạng hai, tạm trú mà thôi.
Khi con tôi thi vào lớp mừời phải đậu cao hơn học sinh có hộ khẩu là 2,5 điểm so với điểm chuẩn của nhà trường đề ra, cũng may là cháu đậu được, cái qui ước lạ lùng ấy cho đến bây giờ vẫn tồn tại, mà tôi là dân tạm trú xứ người, ừ thôi được đi, còn thầy dân bản xứ từ đời nào đến giờ, phải chi ông làm gì, suốt đời làm nông và thêm nghề gõ đầu trẻ chính hiệu, biết bao nhiêu thế hệ học trò đã là cán bộ ít nhất trong cái xã, cái huyện nầy, thế mà tại sao vậy?
Tôi không thể nào hiểu nổi! Miên man với ý nghĩ, có tiếng cô bước vào với bình tích nước trên tay, tôi mới quay về thực tại.
- Em uống nước đi.
- Dạ, Cô cho em thắp nén nhang để hương hồn thầy hiển linh biết có người học trò ngày xưa, thời còn rất nhỏ, học vỡ lòng về thăm thầy, mong được mời thầy vào quán uống nước để chuyện trò, nhưng ước mơ nhỏ nhoi ấy cũng chẳng thể nào thực hiện được vì thầy đã là thiên cổ rồi, phải chi nếu có tiền những năm trước về thăm thì quý hóa biết bao.
Lòng tôi lại dấy lên sự chua xót, chua xót cho cả hai: - Tôi và thầy.
Tôi trân trọng đặt tờ giấy bạc lớn nhất trong ví tôi:
- Đây là chút lòng của em, mong cô nhận cho mua nhang thắp cho thầy để ấm áp…
- Cảm ơn em có lòng, mắt cô lưng tròng, cô định nói gì nữa nhưng lại… nghẹn ngào.
Ngoài trời nắng đã bớt gay gắt, cơn gió xuân ngọt ngào thổi lại làm mát lòng người xa xứ thật lâu trở về quê nhà sau nhiều năm hụp lặn ở xứ người, những bông mai đầu góc sân còn cố gắng vương lại để báo rằng mùa xuân còn đâu đó trong khuôn viên căn nhà thầy, nếu không có cây mai góc nhà thì chẳng thể nào thấy xuân hiển hiện nơi đây măc dù mới 14 tháng giêng.
Nghèo như thế là cùng. Mắt tôi cũng nhòa lệ.
Tôi chào cô ra về, con đường như dài và hẹp lại như đời vợ của ông giáo làng.
 
Sài Gòn (2001)
 


  Trở lại chuyên mục của : Ngã Du Tử