NGUYỄN KHẮC PHƯỚC


Bình thơ:
ĐI VỀ Trong Thơ VÕ VĂN HOA
                      
   Thầy cô giáo huyện Hải Lăng không chỉ biết anh Võ Văn Hoa là một trong những cán bộ lãnh đạo ngành giáo dục của huyện với chức danh phó Trưởng phòng Giáo dục-Đào tạo mà còn biết anh là một nhà báo-nhà thơ nổi tiếng; bài viết của anh thường xuyên có mặt trên các tờ báo tỉnh nhà, tỉnh Thừa Thiên Huế và các tờ báo khác khắp nước. Anh đã đoạt nhiều giải thưởng cao về văn học và báo chí. Ngoài các tác phẩm in chung với các tác giả khác, anh có riêng cho mình ba tập thơ, một tài sản không nhỏ so với nhiều cây bút miền Trung khác.
   Thơ của anh được nhiều người hâm mộ tìm đọc, được các tạp chí trân trọng và được các nhà phê bình đánh giá rất cao. Anh Mai Văn Hoan, báo Thừa Thiên Huế, viết: “Thơ Võ Văn Hoa nhẹ nhàng đôn hậu như hoa Dã thảo-loại hoa mà anh yêu thích”. Anh Phùng Ngọc Diễn (Hà Nội) nhận xét: “Ở Võ Văn Hoa, tôi đã thấy anh trải dài kí ức của vài chục năm lăn lộn với nghề, với người…”  Anh Trương Đức Minh Tứ, báo Quảng Trị, cho rằng thơ Võ Văn Hoa “không điệu đàng, đánh bóng câu chữ; không triết lý rối rắm, đánh đố bạn đọc”; thơ anh “cứ hồn nhiên tuôn chảy, lắng câu trong lòng bạn đọc với một chữ tình: tình yêu gia đình, bạn hữu đồng nghiệp; tình yêu quê hương đất nước…”  Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu bình luận: “Thơ Võ Văn Hoa có cảnh thực, tình thực; và đã có được câu thơ mang được vẻ đẹp, chất men say của ý nghĩ, cảm xúc…”   
   Võ Văn Hoa làm thơ không phải để đoạt giải mặc dù anh đã đoạt nhiều giải cao; không phải chỉ dành cho các nhà báo, nhà thơ, nhà phê bình chuyên nghiệp đọc, mặc dù họ đã đọc và trân trọng, mà còn dành cho những bạn đọc bình thường như bạn và tôi, những thầy cô giáo được anh yêu thương, dìu dắt, những người bạn đồng hương ở tỉnh nhà hoặc ở mọi miền tổ quốc. Tôi thuộc nhóm bạn đọc sau cùng. Mặc cho những nhà phê bình chuyên nghiệp với những đánh giá nghiêm túc, những người đọc bình thường như bạn và tôi, chưa hoàn toàn đui mù với thi ca, khi đọc thơ Võ văn Hoa, hình như ai cũng tìm thấy bóng dáng mình, kỷ niệm của mình, hình ảnh của bạn bè thân thương, làng quê trìu mến của mình trong thơ anh. Một tập thơ của bất cứ thi sĩ nào cũng là một hạt kim cương đa diện, lấp lánh nhiều màu sắc. Tùy vào vị trí mắt nhìn, mỗi người chỉ thấy được một góc cạnh, thường đã lọc qua lăng kính của tâm hồn mình, nên đôi khi có những khám phá, thậm chí trái chiều, mà tác giả không ngờ đến. Trước mắt tôi, thơ Võ văn Hoa dày đặc những chuyến đi và về, trước và sau xe anh là những chiếc giỏ, không phải chở đầy hoa phượng, mà chất đầy bộn bề những cảm xúc, những tấm lòng, để đêm về trên tri âm các (căn gác trên lầu dành riêng để tiếp bạn bè), anh trải ra trang giấy thành thơ.
   Với chức năng và trọng trách của một cán bộ lãnh đạo giáo dục huyện, anh Võ Văn Hoa thường xuyên có những chuyến đi vì nhiều mục đích khác nhau mà nghề nghiệp đòi hỏi: đi học tập, tham quan; đi hội thảo, họp hành, giao lưu khắp mọi miền Tổ quốc. Nhưng có lẽ những chuyến đi quan trọng nhất của anh là những chuyến đi về nguồn để tỏ lòng nhớ ơn chiến sĩ đã hy sinh cho tổ quốc, để tỏ lòng ngưỡng mộ những vị anh hùng đã đưa đất nước vựơt qua bão giông. Anh lần theo dấu chân của những binh đoàn vượt Trường Sơn.“…đi dọc Trường Sơn,/ Tìm lại dấu son những ngày khói lửa/ Đồng đội em ngả xuống nơi nào ?” (Có một nơi nào.)
   Không phải chỉ một lần: “Mấy lần lên Krông Klang/ Lên với Sa Trầm con đường huyền thoại/ Đêm đại ngàn Trường Sơn dốc thoải/ Còn dấu chân của những binh đoàn!” (Lên Krông Klang.)
   Trường Sơn không chỉ là núi rừng mà nơi đất thiêng, nơi yên nghỉ của bao chiến sĩ: “Ba về Trường Sơn nơi các anh yên nghỉ/Mây trắng bay bảng lảng bồ đề thiêng.” (Gửi con gái ngoài Gio Linh.)
   Sau những chuyến đi về nguồn mà anh dành ưu tiên, anh bắt đầu những chuyến đi thăm huyện nhà .
  “Tôi đưa em về huyện trũng Hải Lăng/ Qua Hải Tân, Hải Hòa, qua Ô Lâu trong xanh…/ Tôi sẽ đưa em về La vang, về trằm Trà Lộc…/ Ăn cháo bột Diên Sanh / Về biển trời bao la Mỹ Thủy trong lành…/  Tôi sẽ đưa em lên vùng đồi Hải Lâm, Hải Lệ/ Bạt ngàn rừng xanh/ Ngược dòng Thác Ma, qua Vực kè , Tân Lý…”
   Trên huyện nhà Hải Lăng không có nơi nào mà anh chưa đến, một việc tưởng giản đơn nhưng ít ai làm được. Bài thơ đã giới thiệu được hầu hết địa danh và phong cảnh hữu tình của huyện nhà. Anh yêu mến và nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên quê mình, đặc biệt không khí trong lành, đời sống thanh bình, con người giàu nhân nghĩa, tình cảm nồng nàn.
   Tôi nhớ mang máng trong một truyện ngắn nước ngoài, chủ nhân ngôi nhà sau khi đọc bài quảng cáo rao bán ngôi nhà trong đó người môi giới đã mô tả căn nhà có nhiều vẻ đẹp mà bấy lâu nay họ không nhận ra. Thế rồi sau khi cân nhắc, chủ nhân ngôi nhà quyết định không bán nhà mình nữa và ở lại đó mãi mãi.
   Người dân huyện Hải Lăng có lẽ cũng như thế . Sau khi đọc thơ Võ Văn Hoa, họ sẽ không ngờ quê mình đẹp thế và chắc chắn sẽ yêu quê mình nhiều hơn. Qua dòng Ô Lâu, anh không quên giai thoại chuyện tình Cây Đa Bến Cộ và bất chợt thốt lên những vần thơ mà tôi cho là có giai điệu mượt mà nhất, duyên dáng nhất, mênh mang nhất.
  “Dòng sông Ô Lâu - dòng sông đi về đâu?/ Em đưa tôi chiều tà xế bóng/ Để lòng ai xao động!/ Để lòng ai bâng khuâng!…/ Dòng sông Ô Lâu – không còn em – tôi đi về đâu?”
   Nhà thơ Hoài Quang Phương khi đọc thơ Võ Văn Hoa đã hình dung một bức tranh có “đôi cánh thơ bay trong bầu trời thất tình với sự phản chiếu của dòng Ô Lâu cô đơn trên nền trời vô định”. Hình ảnh đó giúp ta cảm nhận được “tình yêu của thi nhân ảo huyền, xót xa mà vẫn nuôi hy vọng.”
   Chính giai điệu có sẵn trong bài thơ đã lôi cuốn Phan Thạch Hùng chọn bài thơ này để phổ nhạc, tôi tin chắc là thế. Những chuyến đi về của anh Võ Văn Hoa không phải đi chơi mà vì nhiệm vụ công tác, thế nhưng trong thơ anh không hề được nhắc đến công việc, có lẽ bởi vì trong công việc, mọi thứ phải rõ ràng rành mạch, đâu ra đấy. Trong thơ anh chúng ta chỉ thấy anh gặp những người hết sức dễ thương. Đầu tiên anh gặp là những cô giáo giàu lòng yêu trẻ. Cô giáo ở đây không phóng xe Spaces đến trường mà lội bùn đến lớp như một nông dân:
  “Về Càng mới thấy càng khổ nhọc ?/ Lội bùn cô giáo đến trường xa/ Yêu thương con trẻ đâu còn nhọc/ Những mầm, chồi, nụ biến thành hoa” (Về Càng.)
   Mặc dù phải chịu đựng khó khăn nhưng không phải không có những giờ dạy tốt: “Giờ học hôm nay, học sinh ngoan hơn/ Đã lớn lên từ lời em giảng/ Môn sinh vật tưởng chừng khô lắm/ Qua lòng em nghe hạt lên mầm” (Bông hoa đỏ.)
   Thứ đến anh được những người bạn nghèo nhưng vô cùng hiếu khách mừng rỡ tiếp đón.“Lâu lắm anh mới về thăm Càng/ Trong mùa nước nổi vượt đò sang/ Bạn đem chai rượu ra mừng đón/ Mồi sẵn chung quanh diệc với ngàn…” (Về Càng.)
   Không phải chỉ được bạn bè tiếp đón mà bà con nông dân cũng sẵn sàng thết đãi anh bằng những món dân dã.
  “Người dân làng Rào/ Chân chất thật thà , bến quê neo đậu/ Lươn, ốc , chuột đồng … thơm mùi xào nấu/ Thết khách miền xa” (Làng Rào.)
   Bà con ai cũng mến anh, ngay cả chú bé chăn trâu, cứ thấy chú về là vui: “Lâu chú mới về thăm làng/ Gặp cháu nghêu ngao gõ sừng/ Tan học, chăn trâu giúp mẹ/ Chú về vui đến sau lưng” (Đứa bé chăn trâu đồng làng.)
   Nơi anh đến là quê nhà, người anh gặp là bạn bè, đồng nghiệp, bà con, không ai xa lạ, do đó hạnh phúc của họ cũng chính là hạnh phúc của anh.
“Con đi trên hai bờ kênh êm/ Nắng dạt dào nở hoa sóng nước…/ Nước đã về rồi – bao nỗi hân hoan…/ Con muốn bơi giữa dòng đời đẹp thế!/ Báo tin vui – Ngày-nước-đến muôn làng.” (Nước đã về trên cánh đồng Triệu Hải, mẹ ơi!)
   Vất vả của họ cũng là vất vả của anh: “Gánh cá chiều chạy từ biển lên/Đòn gánh cong đời mẹ/ Người phu già khuân miền dâu bể/ Điếu thuốc lào phả khói hoàng hôn” (Chợ Hôm.)
     Đi và về đôi khi không khác nhau là mấy, nhưng thường thường, đi có nghĩa là đến nơi mình chưa đến bao giờ, còn về là trở lại nơi mình đã từng ở, do đó người ta thường nói về quê, không ai nói đi quê.
   Quê Võ Văn Hoa cách nhà anh không xa lắm nhưng vì bận công tác, anh cũng không về được thường xuyên. Mỗi lần về quê đối với anh là trở lại với những kỷ niệm của thời niên thiếu, những mối tình học trò vụng dại.
  “Bi chừ ta bỏ cuộc chơi/ Ngàn năm thương nhớ về nơi chốn này/ Một thời ta đã mê say/ Gió xuôi trảng cát cầm tay ru tình.” (Gió về miền xuôi.)
   Nói đến trảng cát người ta biết ngay là truông cát Cu Hoan, ngày xưa, bên kia rú chắn cát là những cồn cát, nơi trẻ con thường leo lên chơi, người trước cầm tay người sau, la ó cười vang, vui hết chỗ nói. Và một lần tình cờ anh được cầm tay một người con gái nào đó, và chỉ thế thôi, mà vẫn để lại nỗi niềm thương nhớ “ngàn năm”.Thế nhưng rồi người bạn gái thời niên thiếu ấy chẳng biết theo chồng về đâu, chỉ có con bướm vàng ngày nào vẫn nhởn nhơ bay lượn như cố tình trêu người.
  “Về quê cải đã ra ngồng/ Có con bướm trắng lượn vồng khoai non/ Nhỡ ai tính chuyện vuông tròn/Tháng giêng hoa cải vẫn còn ra hoa.” ( Cải đã ra ngồng.)
   Đi về nói trên theo nghĩa thông thường, tức là phải chuyển dịch từ nơi này đến nơi khác. Tuy nhiên, đôi khi người ta chỉ cần ngồi một chỗ mà cũng có thể đi về. Đó là về với nội tâm để chiêm nghiệm cuộc đời.
   “Nửa đêm dậy điểm trà/ Điếu đóm cùng lá hoa/ Nhận ra mình lão thực/ Trong những mùa xuân qua.” Và:
  “Nhận ra đời muôn mặt/ Dâu bể cuộc tương phùng.”
   Nhận ra không phải để chán chường, mà: “Ta thấy mình vui vậy/ Cuộc đời dài có mấy/ ‘Tri túc’ bốn mùa xuân” (Độc thoại ở tri âm các)
    Như Minh Tứ đã viết: Võ Văn Hoa “không thích triết lý rối rắm,”  Có lẽ anh không mấy thích ngồi “độc thoại” , mà thích đối thoại, thích giao tiếp, thích những chuyến đi về để gặp gỡ, giao lưu, trò chuyện. Sống có ý nghĩa là sống cùng, sống với, bởi vì sống thui thủi một mình thì chẳng ai biết mình đang sống.
    Đi về với Võ Văn Hoa như một nghiệp dĩ, một định mệnh, một cách để làm thăng hoa cuộc sống. Đi về vì công việc không thôi thì lâu cũng nhàm chán, nặng nề. Đi về với giỏ xe chất đầy những tứ thơ mới nảy thơm như những nụ hồng mới nhú là những chuyến đi về nhẹ nhàng như mây; những chuyến đi về trong hạnh phúc không phải chỉ cho mình mà cho biết bao người xung quanh. Nếu vì một lý do nào đó mà anh không thể đi được thì lòng anh nóng như lửa đốt, trăn trở như hổ nhớ rừng.
  “Cơn mưa đầu mùa xối xã ngoài hiên/ Có một người trong tim bão nổi/ Tôi đi ngược phía chiều gió thổi/ Cõi lòng ơi! Sao dứt thuở đi về!” (Bão.)
    Đi về, gặp gỡ, giao lưu, xẻ chia, với anh là cuộc sống, là thơ. Không đi về, không có thơ. Thế nên đừng “dại” mà khuyên can anh, bởi chính vợ anh cũng không can anh nổi:
   “Vợ bảo một mai mây trôi bèo dạt/ Trong anh còn maĩ nẻo đi về!” (Tản mạn đêm thị trấn,)
   Chúng ta chỉ mong anh khỏe để làm tròn công tác, khỏe để đi về, để chúng ta còn được mãi đọc những vần thơ “đa mang cảm xúc trữ tình”(*), “ chắc mộc, giản dị mà thấm thía” (**), “nhẹ nhàng đôn hậu như hoa Dã thảo- loại hoa mà anh yêu thích”(***).
 
NGUYỄN KHẮC PHƯỚC
 
 (*) Trương Đức Minh Tứ, (**) Nguyễn Đức Mậu, (***) Mai Văn Hoan.


  Trở lại chuyên mục của : Nguyễn Khắc Phước