NGUYỄN LƯƠNG VỴ
Đọc "NỬA VẦNG TRĂNG KÝ ỨC" của LÊ LẠC GIAO
Sau "Một Thời Điêu Linh" (Tập truyện, NXB Triết Văn, 2013), nhà văn Lê Lạc Giao tiếp tục ấn hành tác phẩm mới, tập truyện "Nửa Vầng Trăng Ký Ức" (NXB Sống, 12.2015. "Nửa Vầng Trăng Ký Ức", với 14 truyện ngắn, bút pháp tinh tế, đa dạng hơn, sâu sắc hơn. Đây vẫn là những trang văn hoài niệm, khắc sâu trong ký ức của nhà văn về nơi chốn quê nhà trong buổi giao thời và những biến động tiếp sau. Có thể nói, "Nửa Vầng Trăng Ký Ức" là khoảng không-thời-gian mở rộng ký ức hồi nhớ của "Một Thời Điêu Linh" trước đây chưa nói hết, chưa kể hết, chưa thỏa lòng. Bởi vì, buổi giao thời và những biến động tiếp sau trên quê hương đã có những đổi thay quá lớn. Những đổi thay làm chấn động nhân tâm và càng lúc càng làm đảo lộn mọi giá trị nhân văn, tư tưởng, đạo đức trong cuộc sống xã hội. Ký ức không hẵn chỉ để hoài niệm quá khứ trong hiện tại, mà có khi, để kiểm nghiệm lại một cuộc đổi đời, một cơn đau của lịch sử dân tộc đã kinh qua, trong đó có tác giả, vừa là nạn nhân, vừa là chứng nhân. Vì vậy, ký ức cũng là cách bày tỏ tâm sự, tự hỏi và tự trả lời của nhà văn?!
Rất nhiều ký ức, kỷ niệm của thời thơ ấu được tái hiện lại trong trong truyện ngắn "Lối Cũ". Nhân vật xưng "Anh" trải lòng qua những trang văn tràn ngập cảm xúc từ khi trở về làng, đặt chân trên bến đò ngày xưa, nay đã hoàn toàn đổi thay theo năm tháng. "Anh" đã trở về nơi chôn nhau cắt rốn, cho dù người thân, gia đình đã ly tán theo thăng trầm của lịch sử, thế sự, nhưng "Anh" vẫn tin, vẫn trở về, dẫu là trong cô độc, "Trong sự ly tán đó, điều tốt đẹp nhất theo anh nghĩ là cố gắng trở về quê cha đất tổ một lần, dù rằng điều đó chỉ là hoài niệm. Bởi chính hành động và suy nghĩ ấy cũng là một thứ đoàn tụ vì theo anh, đoàn tụ mang ý nghĩa trở về. Ông bà nội và bác anh đoàn tụ là trở về cát bụi, hay những dòng sông trở về đại dương là đích điểm mà cũng là khởi điểm để dòng sống không bao giờ gián đoạn."
"Gió Vẫn Thổi Trên Sông" , câu chuyện ở một vùng nông thôn nghèo, vẫn oằn mình gánh chịu cảnh nghèo nàn, cơ cực - do đầu óc bảo thủ, lạc hậu và của "chính quyền cách mạng", "bên thắng cuộc". Những cảnh đời trôi nổi như tiếng gió thổi vi vu trên sông chỉ vì những thế hệ mù chữ, mù trí tuệ ở một vùng quê, phải cam chịu sống một cách thụ động, bạc nhược trước thế lực cầm quyền giáo điều, mị dân ở địa phương, như "chiếc búa cán bạc" đầy quyền năng huyễn hoặc, bất nhân của lão Thứ, nhân vật trong truyện.
"Hạc Gỗ Trong Ngôi Miếu Cổ", truyện kể về tâm trạng của Hảo, một người tù cải tạo sau khi trở về nhà. Trong bối canh những thay đổi khốc liệt sau cơn cuộc bể dâu, nhưng vẫn hiện hữu một "bác Dân", một nhân vật kỳ quái, bảo thủ và cố chấp đến cùng cực. Truyện mang ẩn dụ, "bác Dân không còn thuộc về thế giới hiện tại này nữa mà chỉ là những ảnh tượng sứt mẻ của một thời xa xăm. Dù có vá víu khéo léo cũng chỉ là những đồ vật vô giá trị, chỉ làm cho người xem cảm thấy khôi hài dù đáy lòng họ có chút bùi ngùi thương tiếc."
"Mặt Trời Buồn", một tư sự đầy tâm trạng của một người đã từng sống với những "lý tưởng" của một thời thanh niên đầy lãng mạn, đầy khát khao muốn dấn thân, hành động vì những "lý tưởng" mà mình nghĩ là tốt đẹp ấy trong thời chiến tranh. Nhưng, "Anh" đã nghiệm ra, đã thảng thốt trước cái phi lý của cuộc chiến. Mọi "lý tưởng" chỉ là ảnh ảo, "... Cuối cùng chỉ còn là hình ảnh cơn mơ đồng thiếp giữa trưa của một con bệnh thần kinh, của một kẻ mù lòa chợt một hôm nằm mơ thấy mình sáng mắt đi dạo phố… Sống hỗn độn trong mớ ảo giác phi lý đó, mớ ảo giác bắt buộc phải có, phải hiện diện bây giờ cũng như những ngày sắp đến, cho nhân loại, để nhân loại có một phút giây nào đó cười với nhau thân thiện, siết chặt tay nhau trong niềm an ủi chóng vánh và không cần biết khoảng thời gian sau đó thế nào với họ."
"Ngày Ấy Bây Giờ", một tự sự khác của tác giả. Ẩn mình trong trong nhân vật Quân, người dẫn chuyện, tác giả hồi ức lại một thời đã xa, nơi một thành phố biển và quê nhà trong thời chiến tranh. Những người thân trong gia đình, bằng hữu tình thân đã theo thời gian trôi xa, "Quân ngồi trên bờ đá nhìn sóng biển ngày hè êm ả nhớ một thời đã qua đời người. Khoảng không gian vẫn thế, nhưng khoảng thời gian bốn mươi năm mang đến quá nhiều đổi thay. Biển tuy còn đó, nhưng tuổi thơ đã ra đi và biển nếu có còn cho Quân ước mơ thì cũng chỉ là hoài vọng những gì một thời đã mất."
"Có Một Mùa Xuân", truyện dựng lại những thước phim hồi ức khá sinh động về một thời kỳ nhân vật xưng "tôi" trong truyện phải dấn thân vào "thế trận" kinh doanh gỗ rất cam go, nhọc nhằn, sau khi mãn hạn tù cải tạo, trở về với cuộc sống đời thường. Kinh doanh gỗ, "tôi" đã chứng kiến, đối phó và va chạm trực tiếp với những trò mưu mẹo, thủ đoạn để giành giật lợi nhuận qua những khối gỗ quí. Một khung không gian nhỏ trong một khoảng không gian lớn của một xã hội đang trong thời kỳ "quá độ" (theo kiểu nói của nhà cầm quyền) đã cho người đọc hình dung được (từ một khung không gian nhỏ) cái lề thói gọi là "quản lý kinh tế - xã hội" rất tệ hại của "bên thắng cuộc". Đó cũng là hệ quả tất nhiên về các "nhóm lợi ích" của giới cầm quyền đương đại tại Việt Nam hiện nay: Chỉ có giới quan chức đương quyền và hệ thống chân rết của nó trở thành những tổ chức tài phiệt lộng hành, chi phối toàn bộ đời sống kinh tế - hội của đất nước, trong khi đa số những người dân lao động vẫn phải sống trong nghèo khó, cơ cực.
"Đường Gió Bụi", những hồi ức khá cảm động về thời thơ ấu của Khoa, nhân vật chính trong chuyện. Dấu ấn tuổi thơ ở một vùng quê nghèo, người cha không chịu nỗi trói buộc của một nề nếp gia phong cổ hủ, phải bỏ xứ mà đi. Một gánh hát nghèo xuất hiện trong làng, đã cho Khoa những rung động đầu đời về cái đẹp. Thông qua Bích Thủy, một cô đào trẻ đẹp, tài hoa, nhưng có nhiều tâm trạng u uẩn về thân phận mình. Đó là cái đẹp rất nhân văn mà người nghệ sĩ đích thực phải dấn thân đến cùng, dù phải trả giá bất hạnh trong cuộc đời.
"Một Thoáng Trăm Năm", thể hiện sâu sắc tâm trạng của Khải (có thể là tâm trạng chung của một thế hệ cùng thời với Khải ở miền Nam, trong đó có tác giả), sau những năm tháng nếm trải đắng cay, tủi nhục qua những trại tù cải tạo. Khi được ra tù, trở về với gia đình, Khải có cảm giác mình "có hai thứ nhân cách kiểu nhị trùng bản ngã". Đó cũng là bi kịch cho Khải và cũng là bi kịch chung cho cả dân tộc khi phải sống trong một nhà tù lớn của một chế độ chính trị độc tài toàn trị khắc nghiệt, nhưng lại mị dân bằng những mỹ từ hào nhoáng, rỗng tuếch , như "dân tộc", "yêu nước", "độc lập - tự do - hạnh phúc"... Cách sống hai mặt, buộc mọi người phải biết đóng kịch, phải biết tự dối mình để đối phó với những bất trắc, hiểm nguy trong cuộc sống để tồn tại, đã làm cho xã hội ngày càng tha hóa, xuống cấp một cách nghiêm trọng về mọi mặt. Khải có lý do chính đáng để "nhìn một cách kịch tính đối với bản thân một con người vốn là nạn nhân của trò trớ trêu lịch sử" . Khải tự biết, "Anh đang đóng kịch, nhưng rõ ràng rất tài ba, nhập vai đến độ thấy đau buồn khi mình thất bại và vui vẻ khi gặt hái chút tình cảm của người chung quanh. Một trăm năm đời người là những chiếc khung của trò múa rối. Trong chiếc khung của mình, Khải cười nói ngô nghê hay khôn ngoan bản lĩnh thì cũng chỉ một thoáng qua, mang dấu ấn của một đời người. Và, khuôn thước này là biểu mẫu cho Khải trong suốt quãng đời còn lại dù anh sống trên quê hương hay bất kỳ nơi nào trên quả địa cầu này." Chỉ có những người trong cuộc mới có thể chia xẻ được tâm trạng rất thực của Khải: Vết thương tâm khá sâu nặng, khó nguôi ngoai trong ký ức của một đời người! "Một Thoáng Trăm Năm", tang thương trong cõi đời nghiệt ngã đầy thăng trầm dâu bể. Phải chăng, cũng như một thoáng chiêm bao?! Nhà văn hình như đã để lại khoảng trống cho câu trả lời! Tùy người đọc cảm nhận.
Cùng chảy theo dòng suy tư đó, "Còn Một Giấc Mơ", một truyện ngắn hay, với trải nghiệm phong phú và tinh tế: Ông Của, nhân vật chính trong truyện, rất thực, rất đời, rất sinh động và cũng rất cảm động của một đời người. Ông Của, một Việt kiều lưu lạc trên đất Pháp từ thời trai trẻ, luôn nuôi "giấc mơ hồi hương" vì tình yêu sâu nặng với quê nhà, đã trở về Sài Gòn đúng với mong muốn, sở nguyện của ông, khi tuổi đời đã bước qua ngưỡng lục tuần, vào đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Sau biến cố 30.4.1975, "Ông Của nằm trong đám đông của nửa phần đất miền Nam vừa được tiếp thu vào tay cộng sản. Người ta đã chen lấn để hoan hô hay âm thầm đả đảo, hoặc ngơ ngác ngỡ ngàng trong tâm trạng phân vân rồi biến dần thành sợ hãi khi nhớ đến quá khứ. Ngày ấy, có lẽ lịch sử đã sang một trang mới nhưng là một trang giấy nhòe nhoẹt máu và nước mắt mà ông Của đâu biết được, trên trang giấy lịch sử ấy có cả nước mắt của ông đóng góp sau này." Từ một người có đời sống ung dung tự tại về vật chất, ông Của đã "được" chính quyền cách mạng "chiếu cố" bằng thủ đoạn mị dân tinh vi, chiếm đoạt căn nhà rộng lớn của ông, dưới danh nghĩa "mượn" làm cơ quan công quyền, đẩy ông vào một căn phòng nhỏ trên tầng ba của một dãy phố gần tòa đô chánh. Ông Của đã quyết không ra đi, không rời bỏ quê hương một lần nữa, mặc cho những khuyến cáo của người thân, bằng hữu. Lý do rất giản dị nhưng rất cảm động: Ông không muốn phản bội "giấc mơ hồi hương" đầy tình sâu nghĩa nặng của mình, mặc dù, ông đã cảm nhận được rằng, "chính sách cai trị của cộng sản ngày càng độc đoán nghiệt ngã hơn. Nó ví như cái kềm, cái rá và cái lưới. Cái kềm để kẹp và siết, cái rá để sàng lọc và cái lưới để túm gọn. Nó vô hình nhưng lại rất cụ thể vì nó bắt người dân vào khuôn khổ đã định sẵn mà không một ai có thể biện minh bằng bất kỳ lý do nào để ra ngoài. Trên mọi mặt, từ văn hóa giáo dục đến kinh tế xã hội, tôn giáo, quan điểm chính trị chi phối đến từng hành động cá nhân. Người cộng sản lựa chọn giùm cho mọi người một cách sống, một quan niệm tồn tại vinh quang nhất theo họ nghĩ." Bằng vốn sống bản lĩnh, từng trải, nghị lực, ông Của đã tỉnh táo chịu đựng, nếm trải biết bao nghịch cảnh, cơ cực, nhọc nhằn để mưu sinh, tồn tại một cách độc lập cho đến hơi thở cuối cùng trên mảnh đất quê hương yêu dấu của mình. Một truyện ngắn hay vì đã tái hiện một cách sinh động giai đoạn lịch sử nghiệt ngã, bi thương của miền Nam, và, nhất là thông điệp đầy ẩn dụ trong nhân vật chính, ông Của, một người mà cuối cuộc đời "không gia đình, không tôn giáo, không nhà cửa" vẫn ung dung tự tại giữa cơn bão của lịch sử, vẫn chung thủy với giấc mơ của mình, "giấc mơ hồi hương" rất đẹp, rất bi tráng của ông.
"Nghiện" , một truyện ngắn với ẩn dụ khá thú vị, sâu sắc. Ông Thắng, nhân vật chính, mắc bệnh nghiện rượu nặng, mặc dù người vợ, bà Cẩm, đã dùng mọi biện pháp để cấm cản, ngăn chận. Ông Thắng có ba người bạn: Ông Canh (bạn đồng hương Quảng Nam với ông Thắng. Ông Canh nguyên là đại úy cảnh sát chế độ cũ, sau khi "hưởng" 8 năm tù cải tạo trở về thì toàn bộ nhà cửa bị tịch biên. Rất may, trong cuộc chạy loạn vào những ngày cuối tháng 4.1975 từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, ông Cảnh đã mua được một căn nhà nhỏ nên sau 30.4.1975 định cư tại đây, thoát được nạn đi vùng kinh tế mới); ông Trạc, người Bắc di cư năm 1954; ông Hinh, quê Vĩnh Bình. Cả 4 người họp lại thành "tứ trụ tiên tửu". Tiên tửu, nhưng hoàn cảnh mỗi người đều có bi kịch riêng, tuy thân mật bên chén rượu mỗi ngày, nhưng cũng không thể tỏ bày, tâm sự, chia xẻ cặn kẽ hết được. Cái chung nhất trong bi kịch là, từng gia đình đều có anh em bà con là "địch" - "ta" xen kẻ. Bà con huyết thống, nhưng quan điểm chính trị thì mâu thuẩn, khó cảm thông, dung hòa. Mới chỉ có "tứ trụ" thôi mà đã đầy bị kịch, huống là cả một dân tộc đã trải qua 20 năm chiến tranh khốc liệt?! Trong 4 người, ông Thắng là người từng trải và kinh lịch nhất. Ông cảm nhận được nguyên nhân của bi kịch dân tộc, tuy có chút mơ hồ, nhưng cái vết hằn "truyền thống" đã làm ông thảng thốt, đau đớn và cay đắng. Người đọc có thể thông cảm được cơn bệnh nghiện rượu của ông khi hiểu ra được nỗi niềm của ông Thắng:"Ông đau đớn nhưng không can đảm dứt bỏ mảnh đất quê hương vì ông lỡ sinh ra trên một vùng đất cay nghiệt. Ông thà chết chứ không để mang tiếng bỏ quê hương, phản dân tộc dù ý nghĩa của nó không thật như những gì đã xảy ra. Điều ông cay đắng rõ ràng nhất là lịch sử sao cứ mãi lập đi lập lại nỗi oan khiên, lầm than, đau khổ đó mà chưa hề thấy dấu hiệu nào chấm dứt cả. Mỗi lần xảy ra là mỗi lần tai ương hoạn nạn hơn nữa. Đó là thứ ông sợ hãi, ông chân nhận ra những biến cố này đã lập đi lập lại trên hai nghìn năm lịch sử của dân tộc và đã biến thành truyền thống. Ôi, thứ truyền thống lịch sử bao bọc bao biến cố để trở thành chiếc kén vàng thiêng liêng thì thế nào mà cởi bỏ được! Ngày hôm nay người ta đang nhảy múa trên xác chết đồng bào mình và đang tự hào kiêu hãnh về điều đó. Ông Thắng nghĩ như thế." Làm thế nào để có thể hóa giải được bi kịch lịch sử, "truyền thống" triền miên nầy của dân tộc? Nhà văn đã đặt vấn đề rất tâm huyết và rất có trách nhiệm.
Hai truyện ngắn "Vòng Quay Thời Gian, Nỗi Buồn Thời Đại", "Mọi Nỗi Buồn Đều Riêng Tư", Tuy bối cảnh, nhân vật ở xứ người, nhưng nội dung vẫn bàng bạc ký ức, hồi ức về quê nhà. Được đổi đời nơi đất khách, được hưởng cuộc sống tự do, văn minh, nhưng những lo toan cho cuộc sống hằng ngày, nỗi nhớ khôn nguôi những người thân, những kỷ niệm một thời đã xa, cùng với sự lạc lõng cô đơn giữa vòng quay thời gian nơi đất khách quê người, đã dậy lên những nỗi buồn thời đại trong mỗi tâm hồn của những người xa quê, xa xứ. Nỗi buồn bất định, không bóng không hình, ngay cả trong tình yêu cũng có vẻ khá mong manh, vì tri kỷ tri âm là của hiếm. Mỗi người cưu mang một nỗi niềm riêng, nhất là nỗi buồn, rất khó xẻ chia, đồng cảm.
"Biển Vẫn Màu Xanh Ngắt", một truyện ngắn với bút pháp, cấu trúc khá hiện đại, nhà văn đã mạnh dạn khai thác nội dung, tâm lý khá phức tạp và tế nhị: "Bệnh" đồng tính hay "bệnh" tưởng của cặp vợ chồng Borey và Mandy? Cả hai căn "bệnh" đều làm đau đầu các nhà tâm lý học, bệnh lý học trong thời đại ngày nay. Theo lý giải của nhà văn, "bệnh" hay không "bệnh" thì "Biển Vẫn Màu Xanh Ngắt". Đồng tính hay không đồng tính thì vẫn là con người, cơn cớ gì mà phải hoang mang, nghi ngờ, lo sợ, để rồi phải tự dằn vặt mình, chìm vào cơn "bệnh" tưởng, để rồi phải chia lìa nhau?! Cuộc đời và kiếp người vẫn là những dấu hỏi bất tận, bất khả tư nghì. Xin mời người đọc thẩm định thêm.
*
Truyện ngắn làm tựa đề chung cho tập truyện, "Nửa Vầng Trăng Ký Ức", kể lại mối tình thơ mộng và đẹp của cặp đôi Ngãi - Khanh. Họ là bạn thân thiết từ thuở ấu thơ, nhưng phải xa nhau vì hoàn cảnh gia đình. Khanh từ quê nhà vào Sài Gòn học, rồi tiếp tục du học sang Đức, trở thành nhạc sĩ sáng tác và là một vĩ cầm thủ tài ba. Khanh lập gia đình ở Đức, chồng mất sớm, trở về Việt Nam gặp lại Ngãi. Họ vẫn tha thiết với những kỷ niệm cũ và tình yêu ngày xưa đã thức giấc nồng nàn, sâu sắc hơn. Tình yêu thì sâu nặng nhưng duyên đã lỡ! Họ vẫn mãi mãi gần nhau trong những kỷ niệm rất lãng mạn, rất đẹp, như bản Symphony "Trăng Trong Mưa" mà Khanh đã viết, dành tặng riêng cho Ngãi."Bài Symphony ấy trở thành một trong những tấu khúc kinh điển, diễn tả nỗi thống khổ của một thời đại ô nhiễm từ môi trường sống cho đến tâm hồn con người. Sự cứu rỗi qua âm thanh mưa rơi lẫn tiếng hát ngợi ca ánh sáng của vầng trăng hồn nhiên thuần khiết, biểu tượng tuổi thơ của mỗi một đời người."
Truyện có những đoạn văn khá đẹp và cảm động, như đoạn mô tả cảnh Ngãi và Khanh ngắm trăng thời thơ ấu:
" Ngãi nhớ những đêm mùa hè làng quê, Khanh muốn xem trăng rằm, Ngãi đã xin phép mẹ Khanh dắt Khanh chạy xuống bàu Gáo. Hai đứa ngồi trên bờ bàu, ngửa mặt nhìn trăng qua tàng cây gáo thưa lá. Khanh bảo, “Trăng xa quá!” Ngãi vỗ vai Khanh chỉ xuống bàu. Vầng trăng tròn trĩnh phản chiếu trên mặt nước tĩnh lặng như một tấm gương lớn. Khanh đứng lên nhìn trăng một cách chăm chú say mê. Ngãi ngồi dưới chân Khanh rồi quay ra nằm ngửa nhìn trăng trên tàng cây cao. Chỉ một lúc Ngãi thiếp ngủ, sau đó giật mình với cảm giác vừa ngủ một giấc dài, lúc mở mắt vẫn thấy Khanh đứng nhìn trăng. Khanh cứ lặng lẽ đứng nhìn chiếc đĩa trăng lấp lánh trên mặt nước bàu như một pho tượng khiến Ngãi phải bật đứng dậy hỏi:
- Em thấy gì trong trăng mà nhìn lâu như thế, chúng ta đi về thôi.
Bấy giờ Khanh thì thầm:
- Em không chỉ nhìn mà còn nghe trăng hát.
Ngãi cười, nhặt một hòn sỏi ném xuống bàu. Mặt trăng vỡ tan trăm nghìn mảnh. Khanh đấm mạnh lên vai Ngãi rồi cả hai đi về nhà."
Những năm tiếp theo nơi quê nhà:
"... trăng trở thành người bạn thân thiết của cả hai người và riêng đối với Khanh thực sự có hai vầng trăng. Vầng trăng trên trời của Khanh và vầng trăng dưới nước dành cho Ngãi. Những ngày trăng tròn cả hai thường đến bàu Gáo xem trăng. Ngãi thường hỏi:
- Trăng nào hát cho em nghe?”
Khanh trả lời:
- Cả hai.
Ngãi hỏi lại:
- Thế sao anh không nghe?
- Tại anh không biết hát!
Lúc bấy giờ, thỉnh thoảng Khanh cất tiếng hát. Bài ca ngẫu hứng được một cô gái chín tuổi có giọng cao trong trẻo ngân vang rất xa. Cũng từ đó Ngãi nhận ra Khanh có năng khiếu âm nhạc.
Một đêm mùa thu năm Ngãi mười hai tuổi, Ngãi chỉ cho Khanh mặt trăng trên mặt bàu trong sáng như một tấm gương bảo:
- Em có thấy lạ không, trăng của em trên trời đi về Tây thì trăng của anh dưới nước lại đi về Đông.
Lúc ấy Khanh nói:
- Trăng của chúng ta sẽ không bao giờ gặp nhau.
Năm sau, mỗi khi hai người chạy xuống bàu Gáo xem trăng, Khanh thường nói, “Em mượn mặt trăng trên bàu của anh, vậy nên anh không được phép làm tan mặt trăng này nhé!” Sau đó Khanh tiếp tục ngắm trăng phản chiếu trên mặt nước trong khi Ngãi nằm ngửa trên bờ cỏ nhìn trăng qua tàng cây rồi lại ngủ quên lúc nào không hay. Mười hai năm sau khi Ngãi học đại học xa nhà, mỗi lần nhớ lại vầng trăng phía Đông này, Ngãi lại tự hỏi, Khanh bây giờ làm gì và đang ở đâu?"
Suy nghĩ của Ngãi sau khi nghe Khanh chơi vĩ cầm:
"Mãi đến đêm ấy, nghe Khanh dạo một khúc nhạc bằng chiếc đàn vĩ cầm của nàng, anh mới nhận ra mình chưa bao giờ có tự do thật sự. Anh sống trên những quãng đời sống phân chia tạm bợ, hết ngày này đến tháng nọ, được đánh dấu bằng những biến cố và những biến cố này rõ rệt hay mơ hồ cũng chỉ là những nếp gấp. Trên đó, anh bằng lòng với tất cả mọi thứ mà anh và mọi người gọi là số phận. Khi gọi tên số phận, người ta đã đầu hàng hoặc chấp nhận nó bằng sự biện hộ của chính thâm tâm mình trước những thứ gọi là nghịch cảnh. Lúc bấy giờ, phải chăng nếp gấp vô hình nhưng luôn hiện hữu trong tâm thức mỗi người như những chiếc hộp, khóa kín họ lại bằng tên gọi số phận và cầm tù họ bằng sự cam chịu. Họ vui vẻ hoặc sợ hãi bằng lòng mà không hề biết rằng mình không có chút tự do nào đối với chính bản thân mình qua sự biện hộ thuận mệnh ấy.
Nhiều khi Ngãi tự hỏi, liệu có sự liên hệ nhân quả nào giữa truyền thống và định mệnh? Sau đó, anh lại nhận ra định mệnh chỉ là hóa thân của truyền thống. Cũng như nạn nhân chỉ là thứ âm bản truyền thống. Trên sân khấu đời, người ta có thể vừa tung hô truyền thống nhưng lại nguyền rủa số mệnh. Người ta mơ hồ hoặc không hề biết chính truyền thống đã tạo ra số mệnh. Số mệnh là chiếc khung giam hãm cuộc đời từng người sau khi người ta cho rằng đã làm hết bổn phận và bổn phận chỉ là sự lập đi lập lại mãi một khuôn thước mà ai cũng bảo là chân lý. Nhập vào quá trình vận động ấy, con người trở thành nô lệ và đánh mất chính mình."
Tâm sự của Khanh trước khi từ biệt Ngãi trước khi trở về Đức:
“Hiếm khi trời có trăng mà lại mưa, nhưng thực tế cuộc đời đôi khi những cái tưởng như hiếm khi vẫn xảy ra. Ánh sáng dịu dàng của trăng, không khí dịu mát của mưa cùng âm thanh tiếng mưa rơi tiếp nối dồn dập bất tận là một khai tấu tuyệt vời cho hạnh phúc tình yêu. Đời chúng ta mất quá nhiều cơ hội để có một bắt đầu cho một hạnh phúc lâu dài, thay vào đó chỉ là các ước mơ ngắn ngủi từ vầng trăng cô đơn lẻ loi từng đêm xuất hiện ở đáy sâu thẳm tâm hồn của mỗi người. Ba mươi sáu năm qua dường như vẫn không hề thay đổi. Em viết khúc nhạc này tặng anh để khi em đi rồi, anh nghe, may ra trong chính dòng âm thanh ấy cảm nhận được ước mơ của cả hai chúng ta. Em cũng mong nó còn là khát vọng cả đời của một ai đó, hôm nay đang mong đợi một cơn mưa lành mạnh và một vầng trăng thanh bình trong khi sự ô nhiễm đang lan tràn tàn phá không ngơi nghỉ thiên nhiên cho đến cả tâm hồn con người trên hành tinh này.”
Một truyện ngắn hay, đầy tính nhân văn, khai thác khá sâu tâm lý nhân vật, với những trải nghiệm đa dạng, phong phú. Bút pháp, cấu trúc linh hoạt, tạo được sự đồng cảm sâu xa với người đọc.
*
Nhà văn Lê Lạc Giao khởi sự viết văn từ lúc còn là sinh viên ở trường đại học văn khoa Sài Gòn, đầu thập niên 70 của thế kỷ hai mươi. Anh cũng là cựu sĩ quan quân lực VNCH. Sau biến cố 30.4.1975, anh "hưởng" 9 năm tù cải tạo, định cư tại Hoa Kỳ năm 1993 và hiện nay đang làm việc tại công ty Boeing với vai trò là một chuyên gia về dữ liệu (data specialist). Tuy rất bận rộn trong việc làm thường ngày, nhưng Lê Lạc Giao vẫn thu xếp, dành khoản thời gian còn lại để tiếp tục viết, với một nỗ lực sáng tạo rất bền bỉ và đầy nội lực.
Gần 10 năm sống ở quê nhà sau khi ra tù cải tạo, Lê Lạc Giao đã tận mắt chứng kiến những biến động, đổi thay trên quê hương. Dấu ấn đậm nét nhất trong tâm hồn nhà văn là những bi kịch, những nỗi đau của vết thương tâm âm ỉ kéo dài sau chiến tranh ở miền Nam. Cuộc chiến đã qua, nhưng nhân tâm vẫn ly tán, hoài nghi, mất định hướng do gọng kìm của chế độ toàn trị áp đặt lên đời sống của người dân, chẳng những làm cho vết thương tâm của quá khứ khó lành, mà còn có thêm những vết thương tâm mới vì sự đảo lộn những giá trị nhân văn, đạo đức xã hội căn bản nhất. Những ghi nhận của Lê Lạc Giao trên những trang văn đầy chất suy tư và tâm huyết đã tái hiện một cách trung thực khoảng không-thời-gian một thời đã qua.
Những truyện ngắn của Lê Lạc Giao, trong từng khung ảnh đa sắc đa dạng, trong từng thước phim quay chậm, trong từng phận người long đong số phận của nhân vật, qua từng câu chuyện mà nhà văn đã ẩn mình trong đó, với tư cách vừa là nạn nhân, vừa là chứng nhân, đã tạo được sự đồng cảm sâu xa với người đọc. Điều đáng trân trọng nhất là, cái "tôi nạn nhân" Lê Lạc Giao không hề cực đoan, sân hận, thù hằn, để cho cái "tôi chứng nhân" Lê Lạc Giao đủ tỉnh táo, khách quan nhìn nhận, cảm nhận hiện tượng và bản chất của thực trạng xã hội. Đó cũng là phẩm chất, giá trị nhân văn sâu sắc trên những trang văn của Lê Lạc Giao.
Tóm lại, tập truyện "Nửa Vầng Trăng Ký Ức" là một nỗ lực sáng tạo mới với nhiều trải nghiệm dày dạn, phong phú, được chắt lọc bằng cấu trúc, bút pháp linh động và tinh tế trong từng truyện, đã làm giàu thêm tính văn chương trong tác phẩm của Lê Lạc Giao. Rất mong sẽ tiếp tục đón nhận thêm những tác phẩm mới của nhà văn, chẳng những đầy ắp những ký ức, kỷ niệm, mà còn phong phú hơi thở trong cuộc sống đương đại.
Westminster, CA, đầu đông, 2015
Ghi chú: Những phần in nghiêng trong bài viết, trích từ các truyện ngắn trong tập truyện "Những Vầng Trăng Ký Ức" của nhà văn Lê Lạc Giao.