NGUYỄN MINH NỮU
Hà Nội Thứ Tư
Hà Nội Thứ Tư
Cao là bạn với tôi từ thời còn trung học. Cao học không giỏi nhưng là người thông minh. Cao sống chí tình với mọi người nhưng đó không phải là điểm làm cho anh ta thành công trong cuộc sống có quá nhiều biến động như thời chúng tôi lớn lên.
Chính vì quá nặng tình nên thường nhẹ lý, và thường khi giữa đám đông, Cao là kẻ chịu nhiều thiệt thòi. Thiệt thòi lớn nhất chính là khi mọi người đổ xô ra Vũng Tàu để chạy theo những con tàu vượt biển hoặc chen chân trước tòa Đại sứ Mỹ, phi trường Tân Sơn Nhất, hay bến tàu Sài Gòn để mưu tìm một phương tiện thoát thân, Cao lại một mình ngược chiều chạy về Đà Lạt tìm gặp người thân. Hậu quả đó Cao đã chịu thêm mười chín năm sống tại Việt Nam.
Cao vừa định cư tại Hoa Kỳ, chúng tôi nối được với nhau một tình bạn. Tình bạn giữa hai người quá lứa như một tách cà phê để nguội. Nhìn thì chán mắt nhưng chịu khó nếm vào mới thấy nó đậm đà và đầm ấm biết bao nhiêu.
Cao kể với tôi nghe câu chuyện đi Hà Nội, trước khi xuất cảnh của Cao, khi Cao nhận được một lá thư từ trong nước gửi tới. Chúng tôi ngồi với nhau ở sân vườn sau, dưới bóng mát của tàn cây cổ thụ, rừng thâm u nối tiếp sân sau của vườn nhà.
Tôi lớn lên ở miền Nam, niềm vui từ thuở thanh niên là cà phê, là thuốc lá, là bia rượu, là hào sảng ngâm dài một câu vọng cổ. Nay, uống cà phê thì làm tim đập mạnh, hút thuốc lá thì làm hôi nhà, uống rượu vào không được lái xe, và ngay cả mượn đời câu vọng cổ cũng không làm hài lòng những đứa con lai. Gặp lại Cao là tôi gặp lại một thời thanh niên, cái thời mà
“Người ta biết cũng đâm liều
Còn hơi thở yếu, còn yêu em hoài”(thơ Đoàn Văn Khánh)
Câu chuyện của Cao kể thế này…
Tôi mang theo trong lòng rất nhiều nỗi khát khao, những nỗi mong chờ khi chín, nó rạo rực như ai ấp than hồng lên bờ ngực. Hà Nội với tôi không phải là điều mới lạ dù chưa bao giờ ghé đến. Tại sao? Đơn giản quá, tôi sinh ra ở Hà Nội. Sinh ra mà không lớn lên ở Hà Nội là điều may mắn mà mãi sau này tôi mới biết. Tôi rời Hà Nội khi lên bốn tuổi. Cùng đi với tôi ngoài gia đình sáu người, còn có gần hai triệu người nữa cũng bỏ tất cả để thoát thân vào Nam tìm tự do. Lần này trở lại Hà Nội, nơi sinh ra sau hơn bốn mươi năm, ôm giữ trong lòng chồng chồng chất chất hình ảnh của một Hà Nội qua trí nhớ, qua sách báo và đặc biệt qua lời kể làm sao mà tôi không xôn xao cho được.
Khi di cư vào Nam, rất nhiều người đem theo cả Hà Nội. Phải, phải nói như vậy mới đủ nghĩa. Họ đem theo Hà Nội trong lời nói, trong hành xử, trong thói quen, trong thức ăn thức uống, trong giao tế thường nhật. Bất cứ lúc nào không gian Hà Nội vẫn len lỏi, chen chúc sống với thời gian Sài Gòn.
Mẹ tôi là một trong đám đông này. Buổi sáng khởi đầu với người là một ấm trà đậm đặc và khay chén lỉnh khỉnh kiểu cách. Tôi không nghĩ rằng mẹ tôi uống trà mà tôi nghĩ người đang hành lễ. Ngồi xếp chân vòng tròn trên phản gỗ, từ tốn rót nước sôi vào cái ấm đất nung nhỏ bằng nấm tay, lắc lắc vài lần cho nóng đều, rồi đổ ra cái chén lớn nhất, cũng lớn gần bằng cái ấm mà người gọi là chén tống. Tráng qua loa rồi chuyển qua bốn cái chén nhỏ xíu gọi là chén quân. Đó là nghi thức chuẩn bị, bây giờ thì chờ nước sôi. Người với tay lấy hộp chè Chính Thái Thiết Quan Âm đổ ra lòng tay trái một nhúm nhỏ, rồi khéo léo nghiêng tay cho trà vào ấm. Trong khi chờ trà ngấm, tay người thoăn thoắt lâu khô bốn chén quân, chén tống, đĩa để đậy chén, đĩa để bát, trong cái bát có cái ấm và sau chót là cái khay gỗ. Nói là một cái khay, nhưng cấu trúc của nó là một cái bàn nhỏ xíu có viền và bốn cái chân. Tất cả bằng gỗ đen tuyền và cẩn xà cừ.
Đoán chừng trà đủ ngấm, rót ra chén tống, với tay rót thêm nước sôi vào ấm rồi mới thong thả chiết từ chén tống ra bốn chén quân. Đặt hai chén quân lên khay gỗ, rồi còn lại hai chén trên đĩa sứ. Mẹ tôi bước xuống phản, bưng đặt lên bàn thờ, thắp ba nén hương. Bây giờ mới là lúc uống trà buổi sáng. Dáng ngồi đăm chiêu, tư lự trong không gian mờ nhạt nửa sáng, nửa tối đó, bàng bạc khói sương như một thời quá vãng.
Tôi không gọi trà là chè như mẹ tôi được. Tôi lớn lên ở Sài Gòn, đã quen hiểu chè là một thứ khác. Lạ lùng sao khi nghe mẹ tôi hoặc một bằng hữu thân quen với người nói “Chè” là lập tức tôi hiểu đúng thứ mà người muốn nói. Không cần phải diễn dịch thêm chè là thứ chè Tàu hay nước chè.
Tôi đã thức từ những tiếng lịch kịch. Mẹ tôi kéo cái lò ra bỏ than vào chuẩn bị nhóm bếp nhưng tôi vẫn nằm yên, chùm chăn nhìn ra, lơ mơ, có lúc nhắm mắt, có lúc mở mắt. Tôi yêu thương và tôn kính cái không khí trầm lắng, thâm nghiêm này. Tôi chưa bao giờ hỏi mẹ và cũng chưa bao giờ suy đoán, nhưng tôi vẫn cứ nghĩ rằng đó là lúc mẹ dành riêng cho cha tôi, một người đã mất. Cha tôi mất vào cuối năm Tị, vào Nam mới làm cái giỗ lần đầu. Cái mất mát của người chồng, nhập chung với cái mất mát của vùng đất thân quen làm tóc mẹ tôi mau sớm bạc. Người u uất nhìn về phía sau tưởng nhớ Hà Nội và lo lắng nhìn về phía trước trông chờ tương lai của sáu đứa con.
Bao giờ cũng vậy, sau hai tuần chè, mẹ tôi châm thêm nước sôi rồi đổ toàn bộ bã chè và nước ra cái chén, từ chén nước ra chén tống rồi gọi tôi dậy.
- Có muốn uống chè thì ra đây.
Tôi lồm cồm ngồi dậy, chạy vô ra súc miệng rồi leo lên phản ngồi đối diện với mẹ. Cầm chén tống có chè nước ba uống một hơi cạn sạch. Lần nào cũng nghe mẹ mắng “Uống như mày, người ta gọi là ngưu ẩm. Người Hà Nội không ai uống thế”.
“Người Hà Nội không ai uống thế, người Hà Nội không ai làm thế” là cái điệp khúc nghe mãi thành quen và tưởng lại thì luôn là một gợi nhớ. Câu nói đó thường là một khởi đầu cho một mẩu chuyện bất kì nào về cái thành phố sương mù quá khứ đó. Tôi biết Hà Nội vì trong khai sinh ghi rõ địa chỉ gia đình tôi lúc ra đời. Đó là số 7, đường Lý Quốc Sư, Hà Nội. Dòng chữ khô khan không mô tả được gì, nhưng mẹ tôi và các anh chị tôi lại là biểu hiện của một Hà Nội sinh động.
Suốt thiếu niên tôi, Hà Nội trường cửu và chan hòa như đang thực sống. Sau này, mỗi khi nghĩ về Hà Nội là tôi nghĩ về những hình ảnh, phong cách và hành xử của người Hà Nội qua biểu tượng cũ trong trí nhớ nhỏ nhoi của mình.
Đoàn tàu dừng lại ga Phủ Lý mười lăm phút, tôi nhìn đồng hồ ước lượng sẽ đến Hà Nội vào lúc nửa đêm. Đêm Hà Nội làm sao nhỉ? À! Tiếng lanh canh của tàu điện, tiếng rao hàng “ai phá xa không”. Sương mù phủ mờ mịt mặt hồ Gươm. Khi Anh Bằng viết nỗi lòng người đi ông chỉ nói rằng “tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu” mà không nói xa ban ngày hay xa ban đêm. Tôi thầm mong ông xa người tình đầu vào ban đêm. Ban đêm thích hợp cho mơ mộng, cho viễn tưởng, cho nỗi xót xa.
Và tôi, tôi cũng sẽ hội ngộ Hà Nội đêm nay.
Tôi mong chờ nhưng hoàn toàn không kỳ vọng là sẽ nhìn thấy một Hà Nội như thế nào. Tôi sẽ thăm hồ Gươm, thăm đền Ngọc Sơn, thăm Hồ Tây, thăm Quán Thánh. Tất nhiên điều quan trọng và động lực của chuyến đi này thăm mộ cha tôi và nơi tôi mở mắt chào đời trước khi chia xa chẳng biết bao giờ gặp lại. Bốn mươi năm sau khi mất, ngôi mộ an táng ngày xưa không còn nữa. Khoảng năm 1960, nghĩa trang Voi Phục bị giải tỏa, may mắn là có người quen chôn cất kề cận mà con cái ở lại miền Bắc nên nhân tiện bốc mộ cho cha đã bốc cả mộ của thân phụ tôi di chuyển lên Yên Kỳ, Sơn Tây và do đó tôi mới có dịp ra thăm lần này.
Đoàn tàu chuyển bánh, tôi nhắm mắt lại cố tìm giấc ngủ để tỉnh táo nhìn mặt Hà Nội. Hà Nội mà tôi hội ngộ tối nay sẽ khác với hai cái Hà Nội mà tôi đã được biết từ trước.
Sau tháng tư một chín bảy lăm, những người nón cối dép râu đã đem vào Sài Gòn một Hà Nội khác. Họ kể lại cho tôi nghe một Hà Nội hoàn toàn không giống với cái Hà Nội trong tôi, khác tới độ đối nghịch và tôi có cảm giác thành phố họ kể không phải là Hà Nội hoặc là cái tôi đang gìn giữ trong tim là một thành phố trong mơ, chưa bao giờ có thật. Cái Hà Nội được miêu tả lần thứ hai này đầy máu, lửa, hận thù. Đất nước nào thì cũng phải trải qua chiến tranh để đi đến hòa bình. Ai đó đã nói “Cây Hòa Bình phải tưới bằng máu, nhưng dẫu tưới bằng máu thì cũng phải nở hoa nhân ái cho nên mới được gọi là cây Hòa Bình chứ”.
Tôi ngạc nhiên khi thấy người ta chấm dứt chiến tranh bằng thủ đọan, khởi đầu hòa bình bằng lòng hận thù.
Vài ba tháng sau khi ngày chiếm trọn miền Nam, trong cuộc nói chuyện với các văn nghệ sĩ và sinh viên, học sinh tại rạp Olympic, Lưu Trọng Lư bước ra sân khấu với lời chào “Tôi vẫn là con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô”. Sau tràng vỗ tay dài xúc động, họ Lưu nói khá dài về văn nghệ, về đời sống của những tên tuổi lẫy lừng ngày xưa. Tới phần giao lưu, có câu hỏi “Xin cho biết tình trạng hiện tại của các thi sĩ Phùng Quán, Trần Dần”, Lưu Trọng Lư trả lời bằng một hình tượng “thời đại tiến lên như một chiếc xe lớn chuyên chở tất cả, nhưng chính những người trên xe cũng phải biết bám lấy nó để tồn tại. Tất nhiên trên đường nó đi, nó sẽ hủy diệt tất cả những chướng ngại.
Có câu hỏi “phải chăng những con người văn hóa đó là những chướng ngại cần phải hủy diệt?”. Câu thứ hai không được trả lời bây giờ, nhưng những người ngồi nghe ngày hôm đó đã phải tự trả lời sau đó không lâu.
Tàu chuẩn bị vào ga Hàng Cỏ, không khí náo loạn dần, người ta thu dọn hành lý, nói chuyện râm ran. Người đàn ông ngồi bên cạnh, người bạn đường từ Sài Gòn, tôi không thể không nhắc đến và kể về người đàn ông kì bí này. Chính ông ta đã cho tôi những xúc cảm và rung động mà đến bây giờ còn rạo rực. Chúng tôi ngồi chung một băng ghế và làm quen với nhau dễ dàng. Ông Vượng là thợ khảm trai, người miền Nam gọi đó là cẩn ốc xà cừ, người miền Bắc gọi là khảm trai. Ông ta vào Nam chín tháng theo lời của một ngôi đình ở Thủ Đức để thực hiện tấm tranh thờ bà chúa Liễu Hạnh. Công việc gần xong, chỉ còn một việc nhỏ nhưng quan trọng nhất đó là vẽ nét mặt thì ông ta phải đem về quê để thực hiện.
- Tấm tranh thờ thì quan trọng nhất là nét mặt, chưa thực hiện được nét mặt coi như chưa thực hiện được điều gì chứ sao lại gọi là gần xong.
- Cái ông nói là tranh vẽ, quan niệm ông nghĩ là thường tình. Nhưng đây là tranh cẩn ốc và quan niệm áp dụng ở đây là quan niệm tâm linh. Khác nhau ở chỗ này, tranh cẩn ốc là loại tranh kết hợp bằng nhiều mảnh ốc nhỏ, căn cứ vào độ phản chiếu ánh sáng, người thợ cưa cắt, ghép chúng lại với nhau theo hình dạng định sẵn. Sau đó, đục gỗ sâu xuống khoảng một li, để ốc vào và mài cho bằng phẳng với mặt gỗ. Khi dùng dao nhọn tách những nét đen trên ốc chỉ là những nét điểm xuyến, tranh càng ít nét tách là tranh càng thực hiện công phu và đấy chính là cái tinh vi của thủ công mỹ nghệ. Còn nữa, khi đi vào lĩnh vực tranh tôn giáo, là người ta đi vào những điều ước lệ. Ước lệ này căn cứ từ trang phục, kiểu tóc, giày vớ để phân biệt vị thần linh này với vị thần linh khác. Chứ chúng ta để riêng khuôn mặt thì không ai phân biệt được khuôn mặt nào là của vị nào. Cho nên một tấm tranh cẩn ốc tôn giáo thường được coi như xong dễ dàng vì khuôn mặt ước lệ và không đòi hỏi quá cao về mỹ thuật. Ngoại trừ trường hợp này…
- Ngoại trừ?
- Vâng, ngoại trừ trường hợp này. Chính vì ngoại trừ này mà một ngôi đình dù rất gần với Thủ Dầu Một, là trung tâm cẩn ốc của phía Nam, vẫn phải cày cục mời thợ từ Hà Bắc vào thực hiện tấm tranh thờ Bà chúa Liễu Hạnh. Và người thợ thực hiện xong bức tranh lại phải cày cục đem mảnh ốc cưa sẵn hình khuôn mặt ra Bắc về phủ Tây Hồ dâng lễ trầu rượu và thực hiện nét tách mặt ngay tại chính điện trước bàn thờ. Nghi thức này người thợ khảm trai miền Bắc chỉ áp dụng trên tranh tôn giáo với những đề tài về Tứ Bất Tử mà thôi. Ông biết Tứ Bất Tử chứ? Bốn người mà truyền kỳ Việt Nam không ghi nhận được cái chết, đó là Chử Đồng Tử, Tản Viên sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương và Liễu Hạnh công chúa. Phủ Tây Hồ nằm trên dẻo đất nhô ra mặt hồ phía Tây Hà Nội, là nơi thờ phượng công chúa Liễu Hạnh, tổ đình của tôn giáo thờ tứ phủ này. Nghề khảm trai đối với dân Hà Bắc cũng là một tôn giáo, họ tự trói mình trong những điều luật khắt khe cha truyền con nối. Trong đó, nếu thực hiện tranh thờ bên Tứ Phủ thì dung mạo các vị thần linh phải được vẽ ngay tại đền thờ chính vị đó. Nghi thức này được gọi là nghi thức “Tế Dung”.
Ông Vượng về Bắc theo tổ truyền để làm lễ. Tôi rất thú vị cùng đi làm bạn với ông. Khi tàu vào ga Hàng Cỏ, chúng tôi tạm chia tay, tôi cần đi Sơn Tây thăm mộ, ông Vượng cần về Hà Bắc thăm nhà, hẹn nhau hai ngày sau chúng ta sẽ gặp nhau ở phủ Tây Hồ.
Đặt chân trên đường phố Hà Nội sau khi vượt thoát khỏi vòng vây của xe ôm và xích lô, người bán hàng rong đầy nghẹt, với hành lý gọn nhẹ và địa chỉ rõ ràng của người quen ở ga Hàng Cỏ, tôi muốn thong thả đi và thở không khí Hà Nội ban đêm. Tháng bảy, trời se lạnh và gió nhẹ, hai dãy đèn vàng bên đường cho tôi có cảm giác thân thuộc như đã từng được gặp. Phải lắm, hình ảnh này đã là hình ảnh cũ mà tôi đã từng nghe kể lại trong kí ức của gia đình.
Hình như trong Hà Nội thứ nhất của tôi lúc nào cũng buồn, cũng quạnh hiu và cũng mờ mờ như một buổi tối trời. Tôi ngủ đêm tại quán trọ. Tôi thấy mình như người khách lạ trong thành phố mình nghĩ rằng quen này. Tôi muốn hòa mình vào cuộc sống hoàn toàn khác kia và tìm trong đó những hơi thở quen thuộc.
Một thanh niên tới gần tôi và gạ mời tôi mua báo.
- Được! Cho tôi tờ Kiến Thức, bao nhiêu?
- Mười hai ngàn.
- Ồ! Sao vậy? Bình thường giá có sáu ngàn.
- Sáu ngàn? Cháu mua cũng không được giá đó, chú trả thêm cho cháu.
- Được rồi, tôi là độc giả quen, mua thường xuyên. Nhưng có thể vì đường xá xa xôi nên cũng có thế bán đắt hơn cũng được. Tôi trả bạn tám ngàn, chịu không?
Người thanh niên nghiêng mặt nhìn tôi rồi buông thõng “Địt mẹ! Giá đó lấy gì ông ăn?” và bỏ đi, mặc kệ sự sững sờ của khách. Tôi bàng hoàng trong giáp mặt đầu tiên với con người Hà Nội. Không phải là tại vì câu chửi của chàng thanh niên mới gặp mà vì sự đổi giọng trong hai câu nói liên tục, từ câu trên mang tính thân thiện và cầu mong, tới câu sau trở giọng đốp chát, thiếu giáo dục. Hai câu nói từ một người với một người cách nhau không đầy một phút. Tôi ôm nỗi buồn đó vào phòng trọ qua đêm. Một đêm mất ngủ nhưng qua nhanh, tôi nằm miên man nghĩ ngợi lung tung về nắng mưa, thời tiết, về văn hóa, về chính trị chen lẫn nhưng với những nôn nao, chờ đợi cho hình ảnh sẽ gặp ngày mai.
Cho tới khi tiếng xe chạy trên đường đã nhiều, tôi nghĩ thành phố đã thức, tôi ngồi dậy thu xếp hành trang gửi lại nhà trọ, trang phục gọn nhẹ cho một chuyến rong chơi. Xem lại bản đồ và tìm đường ra hồ Hoàn Kiếm, Hồ Hoàn Kiếm có Tháp Rùa, có đền Ngọc Sơn, tôi dành buổi gặp gỡ đầu tiên với Hà Nội cho đền Ngọc Sơn, không phải vì thắng cảnh mà vì kỉ niệm, tất nhiên không thể có kỉ niệm với cậu nhóc lên bốn được nhưng là kỉ niệm của gia đình. Tấm ảnh được dán trang trọng ở trang đầu tiên trong cuốn album là đền Ngọc Sơn. Nơi đó, trong thời kì toàn thịnh của chế độ Pháp thuộc, đầu tiên có một lớp dạy Hán văn thử nghiệm, từ khởi đầu nhỏ nhoi này đại học Văn khoa đầu tiên của Việt Nam đã được hình thành. Giáo sư đầu tiên là một vị đại khoa của triều Nguyễn, bao nhiêu năm phải dạy chữ Pháp nay được trở về dạy tiếng Hán Nôm cho nên đã thở phào ra nhẹ nhõm:
Mười mấy năm nay, gái lộn chồng
Nay về cho khỏi kiếp long đong
Người ta duyên mới vui như Tết
Mình giờ gương xưa thấm lạnh lùng
*Thơ Phó Bảng Nguyễn Can Mộng 1989-1953
Dọc theo hành lang, dọc theo các cột kèo là những câu đối chữ Nho của các bậc tiên hiền nhưng người ta không còn tìm thấy tên của tác giả nữa, thay vào đó là tấm bảng ghi cách phát âm, lời dịch bằng văn xuôi. Những người quản trị đền Ngọc Sơn đã chuyển từ văn chương bác học qua văn chương bình dân, cùng lúc chuyển từ ý tứ thâm trầm, sâu sắc phát sinh từ một nền Văn Hiến bốn ngàn năm quathành một diễn nôm ngô nghê và thô tục.
- Tên của tác giả đâu?
- Việc gì phải nhớ đến những con người, chúng ta đã quản lý thật tốt tài sản để phục vụ nhân dân. Những câu văn đó sở dĩ còn lưu lại chính là nhờ nó nói lên được cái đẹp, cái hay mà tài sản này có được.
Người đàn ông quản trị đền Ngọc Sơn đã trả lời như vậy. Điều này không gây ngạcnhiên cho tôi bởi vì quan niệm “văn hóa không đem lại lợi nhuận thì không giá trị bằng một đống phân bò” đã là một danh ngôn được ngợi ca như khuôn vàng, thước ngọc in ấn đầy rẫy trong sách và báo chí bấy lâu nay.
Vượng đón tôi ở cửa đền, chiếc áo the đen và chiếc khăn đóng làm tôi không nhận ra ông. Vượng cầm tay tôi và dắt vào.
- Tôi nghĩ rằng chắc chắn ông sẽ tới.
- Thật vậy, tôi muốn gặp ông sau ba ngày lang thang Hà Nội.
- Phải chăng ông rất buồn? Vỡ mộng khi trực tiếp đối diện với Hà Nội?
- Ông đoán gần đúng với ý tôi.
- Ông buồn vì nó không đẹp như lòng ông nghĩ đến, và vỡ mộng bởi vì sự trần trụi quá đáng của con người trong nhịp sống ồ ạt đang quay cuồng?
- Tôi nghĩ tệ hại hơn. Thiên nhiên có lẽ cũng chỉ vậy thôi nhưng đối diện với sự đổ nát tôi không kiềm được lòng mình cũng nát tan theo.
- Ông nói về kiến trúc?
- Không. Tôi nói về Văn Hiến. Văn Hiến được nuôi dưỡng và biểu lộ bằng giao tế giữa những con người.
- Đó là ông nhìn thấy Hà Nội trên mặt nổi.
- Nghĩa là còn có mặt chìm?
- Gần như vậy, tôi hiểu và cảm thông được với ông từ khi chúng ta ngồi ăn trưa với nhau ở ga Phan Thiết khi nghe ông tả về Hà Nội trong trí nhớ ấu thơ của ông hay Hà Nội của những người đi tiếp quản miền Nam. Tôi đã nghĩ rằng ông sẽ bàng hoàng khi gặp mặt cái Hà Nội thực tại khi ông bước xuống sân ga Hàng Cỏ, và đó là lý do tôi từ chối không muốn đi bên cạnh ông vào những phút giây đầu tiên đó. Nhưng tôi tự nhận trách nhiệm khi gặp lại sẽ nói với ông về Hà Nội.
- Ông muốn nói với tôi về một Hà Nội khác, một cái Hà Nôi khác hơn những cái Hà Nội mà tôi đã gặp, mà tôi đã biết?
Vượng đứng tựa lưng vào thân cây liễu. Tháng bảy Hà Nội đang bước vào mùa thu, gió gờn gợn trên mặt hồ xanh biếc. Phủ Tây Hồ vắng ngắt không người, không gian im ắng không một tiếng chim kêu. Cảnh u tịch nhưng lại lạnh lùng như nét vẽ. Vượng trầm ngâm cầm điếu thuốc lá trên tay, chợt quay lại.
- Ông biết Nguyễn Tuân?
- Có phải tác giả “Chiếc lư đồng mắt cua”?
- Phải, nhưng mà ông ta sống được cho đến tuổi già không phải nhờ vào tác phẩm đó. Tác phẩm đã cho ông những tiêu chuẩn lãnh gạo là tác phầm “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”.
- Cuốn đó gọi là tác phẩm sao?
- Ở mức độ nào đó, cuốn sách đã là lá chắn cho sự sinh tồn của nhà văn. Ông ta đã chết sau khi nói một câu vang vọng khắp những người cầm bút miền Bắc. Đó là câu trả lời cho một người bạn văn “Tôi sỡ dĩ còn sống được đến bây giờ là vì nhờ tôi biết sợ”.
- Sau “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”, Nguyễn Tuân không còn là nhà văn.
- Điều đó không đúng, ông ta không là nhà văn khi ông ta viết “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”
- Ông biết Chế Lan Viên?
- Tác giả “Điêu tàn”?
- Bài thơ cuối đời được phổ biến là bài “Bánh vẽ”, đó chỉ là một trong hàng trăm bài thơ khác viết cùng thời kì và chưa chính thức được in ra.
- Nhắc đến Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, ông định hàm ý điều gì?
- Hàm ý một điều gì ư? Vượng cười lớn. Tôi không hàm ý một điều gì nhưng họ hàm ý nhiều điều lắm và họ cũng chẳng đại diện cho ai. Nhưng rõ ràng, họ là những con người trong đám đông, rất đông những con người như họ ẩn khuất bằng những dạng kiếm cơm không giống nhau, vẫn âm thầm chờ đợi một điều khác sẽ xảy ra. Không có mẫu người đối diện trực tiếp, tranh đấu với quyền lực như ở miền Nam nhưng thật nhiều bất hợp tác xảy ra, họ xem xét, lượng giá, nhận định rõ chân tướng của sự việc và truyền tai nhau như một vết dầu loang. Chỉ một sự kiện nhỏ xảy ra, che dấu cách mấy cả thành phồ cũng biết tường tận vào một vài ngày sau.
- Nhưng đó không phải là thái độ tích cực.
- Thế xuất cảnh đi nước ngoài như ông là tích cực sao?
Tôi nhìn sâu vào mắt Vượng, ẩn sau con người lao động chân tay và có vẻ sống chết với nghề kia dường như ẩn dấu một nhân cách thứ hai. Đôi mắt Vượng sáng, sâu và nhiệt tình dữ dội. Từ khi làm quen với nhau trên chuyến xe qua những bức tranh trên bìa báo, Vượng đã nói với tôi về tranh cẩn ốc, qua tới thơ của các cụ già làng thợ cẩn, qua tới các tác giả đương thời. Tôi ngạc nhiên rất nhiều về sức đọc và trí nhớ của người đàn ông này. Vượng nói nhỏ hơn, giọng trầm lại:
- Xin lỗi ông, tôi không có ý như vậy.
- Nhưng ông đã nói rồi và ông cũng nói đúng.
- Tôi chỉ muốn chia sẻ cùng ông những u uất chung mà tôi nghĩ rằng ông cũng như tôi. Chúng ta đang ở trong vai kịch phải luôn luôn đóng cả hai khuôn mặt: khuôn mặt cho cơm áo gạo tiền, và khuôn mặt cho ước mơ bay bổng.
- Ông đã làm xong nghi thức Tế Dung cho bức tranh cẩn ốc chưa?
Vượng không trả lời mà lại chỉ vào bờ cỏ gần khúc quanh vào đền:
- Năm bảy mươi tư, một ông rùa có đường kính gần hai thước tay đã chết và tấp vào bờ nước này.
Tôi bật cười:
- Ông nghĩ đó là thần Kim Qui?
Vượng không cười, mắt nhìn xa về phía Tây Bắc đăm đắm nỗi hoài mong.
- Ông không sống ở Bắc Hà, ông không hiểu gì về kết cấu của hồ Hoàn Kiếm và núi Tản Viên. Ông không hiểu gì về Tản Viên Sơn Thánh lẫn Liễu Hạnh công chúa. Tất nhiên, không ai trách ông về những điều như vậy. Nhưng thật sự đó là một thiếu sót khi ông bỏ sót đi một mảng khá lớn trong lập thuyết sinh tồn của miền Bắc.
Khi tạm biệt, tôi nhìn được trong mắt Vượng còn nhiều điều không nói ra. Tôi mường tượng như còn một con người khác trong con người đầu tắt mặt tối kia.
Chúng tôi ngồi ở sân sau, trời đang là mùa thu. Những hàng cây phong từ màu xanh đã chuyển qua vàng rồi đỏ chói suốt tầm mắt nhìn. Cao chiêu ngụm nước trà nóng và thả khói thuốc ra mờ mịt.
- Mùa thu ở Virginia là vậy. Chen giữa cái nắng của mùa hè còn sót lại là những cơn lạnh bất thường. Trên xe, nhiều khi mới buổi sáng đây còn mở máy heat thì tới trưa đã phải chuyển qua máy lạnh.
Tôi chờ đợi đọan kết của câu chuyện mà Cao vừa kể về Hà Nội hay nói đúng ra là về Việt Nam, vùng đất ông vừa rời bỏ chưa đầy một năm trước đây, nhưng Cao im lặng nhìn mông lung. Trên bàn là lá thư viết từ Việt Nam mà Cao nói rằng vừa nhận được từ Hà Nội, bức thư của Vượng. Bức thư đã khởi đầu cho câu chuyện kể dài dòng về thành phố xa xôi, cách trở bên kia. Bất chợt, Cao hỏi tôi về những người quen gặp lại trong buổi ra mắt sách tuần trước. Thấy Cao bỏ lững câu chuyện, tôi nhắc chừng:
- Trước khi ông rời Hà Nội, ông có gặp lại Vượng không ?
- Không. Sau đó, sau đó suốt ba tháng chót còn ở Việt Nam, tôi có lên tìm Vượng vài lần tại ngôi đình mà ông ta nói gần Thủ Đức cũng không gặp. Vài người thợ cẩn làm việc chung với Vượng nói rằng ông ta đã gửi miếng ốc có nét tách chân dung Mẫu Liễu Hạnh vào rồi nhưng ông ta không vào làm việc nữa. Qua câu chuyện thăm dò với những người bạn làm chung với Vượng, người này nói khác và người kia nói khác không giống nhau, nhưng nói chung vẫn đánh giá Vượng là một kẻ khác đời. Có đứa nói ông ta không phải là người Kinh mà là người Thổ, một sắc dân ở cao nguyên Bắc Bộ, Vượng có bùa chú và bí mật thờ ma xó nên biết được những chuyện thầm kín của người khác. Đứa thì nói Vượng là con một địa chủ ngày xưa đã bị đấu tố chết năm một nghìn chín trăm bốn mươi tám ở nông thôn Thái Bình. Vượng lưu lạc và trú mình trong vỏ bọc lao động cần cù, vượt thóat khỏi tầm kiểm soát của chính quyền bằng tài khéo léo của đôi tay. Nhưng không đứa nào biết được Vượng là người đọc sách.
Trước khi rời Việt Nam, tôi gửi cầu may cho Vượng một lá thư về địa chỉ miền quê của Vượng, cho biết địa chỉ người thân của tôi bên này. Tôi không nghĩ rằng sẽ nối được mối dây liên lạc với Vượng.
- Và Vượng trả lời thư của ông ?
- Đúng ! Sau đó cả năm…
- Và ông tin tưởng vào lập luận mang đầy tính huyền bí kia để nghĩ rằng đất nước là một chu kỳ biến động để rồi sẽ tới tốt đẹp hay sao?
- Tại sao cứ phải đặt vấn đề tin hay không tin khi tất cả đều ngoài tầm tay của chúng ta? Tôi không đặt lòng mình vào sự hiển linh của Tản Viên Sơn Thánh hay của Liễu Hạnh công chúa hay của một vị thần linh nào khác. Bởi vì tôi hiểu rằng sự hiển linh của một vị nào đó bất kì đều là kết tinh của một niềm tin rộng lớn nhưng thầm kín của cả một thế hệ, của cả một dân tộc. Cho nên tôi đặt niềm tin vào những đợt sóng ngầm đó, những luồng sóng ngầm trong lòng Hà Nội khi nó luân lưu thì là nguồn nuôi sống con người nhưng khi đột phá thì nó chính là sự bùng vỡ từ cái trung tâm cứ tưởng là vô cùng bền vững kia.
- Nhưng lá thư ông Vượng viết cho ông viết như thế à?
Bức thư được mở ra, bức thư của Vượng viết như thế này:
Xin lỗi đã viết thư trễ vì không thể viết sớm hơn. Rất tâm đắc với ông khi ông phân tích Hà Nội thành ba cái khác nhau. Cái Hà Nội thứ nhất là cái Hà Nội trong nỗi nhớ của gia đình ông cho nên nó mơ hồ, nên thơ và tất nhiên không thể có thật. Cái Hà Nội thứ hai của anh bộ đội nón cối dép râu mô tả với ông là cái Hà Nội trong “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” của Nguyễn Tuân, cái Hà Nội chỉ có trong văn bản của hệ thống truyền thông quốc doanh và tất nhiên cũng không thể là cái Hà Nội có thật được. Và ngay cái Hà Nội thứ ba mà ông trực tiếp đối mặt, gặp gỡ, trong lần ông ghé Hà Nội cũng không phải là cái Hà Nội đúng nghĩa, ông chỉ mới nhìn thấy lớp váng để đoán một nồi canh, mới chỉ cưỡi ngựa để thưởng thức hương hoa và nói cho đúng nhất là chỉ mới đứng ở bờ đèo để đoán lòng biển cả.
Không phải thế đâu! Hãy nghiêng mình xuống để nghe được âm vang, hãy lắng lòng lại để rung theo địa chấn. Xin mô tả với ông một Hà Nội khác, nó không phải là thành phố Hà Nội mà nó là tấm lòng Hà Nội. Nó là Văn Hiến bàng bạc trong thói ăn, nếp ở của người Hà Nội.
Nó là nề, nó là nếp, nó là kinh, nó là lịch mà không thể chế nào bôi xóa được nó. Chỉ có thế có lúc nó nổi lên như một phong cách riêng tư, hoặc có khi lặn xuống như một luồng sóng ngầm âm vang mãi mãi trong lòng Hà Nội.
Thư viết cho ông không thể viết dài nhưng thật đó sẽ có một ngày ông được nhìn thấy Hà Nội thứ tư.
Trong lúc tôi đọc thư, Cao đưa tay với lấy bình trà rót ra tách. Cao nói:
- Từ chiều tới giờ, chúng ta uống đã ba bình rồi. Thôi ! Không uống nữa.
- Vâng, thì không uống nữa.
Cũng vừa xong mùa thu thứ ba của một năm đầy biến động.
Virginia 1996