NGUYỄN NGỌC DANH


 
Hoa Mai
 
                                                                     
    Trong khi vùng Bắc Mỹ và Bắc Cali còn chìm trong cái lạnh cắt da của những ngày cuối Đông, thì cộng đồng người Việt tha hương chúng ta lại bắt đầu sữa soạn đón Tết, mừng xuân theo truyền thống dân tộc. Trong khi ấy, đúng theo chu kỳ của đất trời tại quê hương yêu dấu của chúng ta đồng bào đã cảm nhận, đã nhìn thấy bóng dáng mùa Xuân trên mọi cảnh vật.  Thế giới chung quanh là hơi thở của gió mới, là nét đẹp quyến rũ hữu tình của những tà áo trinh nguyên người thiếu nữ, là tiếng hót líu lo của chim trời.  Cái trở mình huyền diệu duyên dáng của đất trời đang nhú dần theo đọt cây ngọn cỏ.  Cái vẻ đẹp nhẹ nhàng nhưng rất lãng mạn và quyến rũ đang  theo từng cánh hoa nở rộ trên khắp nẻo đường quê hương.  Trong khi đó có một số những người con đã xa lìa cái cuống nhau của quê cha đất tổ hàng ngàn dặm, sông rải rác trên khắp mọi nẻo đường của trái đất nhưng vẫn còn cảm thấy xúc động, ngậm ngùi trước những giây phút linh thiêng của đất tròi quê hương.  Phải chăng Tổ tiên chúng ta đã truyền đạt cho con cháu cái tư duy:  Vạn vật đồng nhất thể, để chúng ta có thể hóa ra mênh mông mà hòa mìmh vào vũ trụ.  Từ ngàn xưa, cuộc sống của tiền nhân chúng ta gắn liền với ruộng đồng nông canh, suốt cả cuộc đời luôn đứng giữa đất trời, thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá.  Do đó lòng yêu cây, yêu hoa cũng dễ hiêu.  Nhưng trong muôn vàn các loại cây, các kỳ hoa dị thảo những danh sĩ chỉ thấy một vài loại có vẻ đẹp đặc biệt bởi dáng thế đường nét, hoa lá của chúng. Chính nhờ những nét nghệ thuật độc đáo của chúng mà qua đó các danh sĩ đã vay mượn để nói lên cái u tình ẩn kín của nội tâm mà ngôn ngữ của giới nhị nguyên không đủ khả năng để diễn đạt.  Nhờ sự chọn lựa, gạn lọc một cách tế vi và sâu sắc mà các ngài đã tạo nên đươc những ấn tượng thâm thúy, đầy ý vị trong lòng người thửơng lãm và còn đi xa hơn nữa nó đã thể hiện được một nền tảng triết lý nhân sinh của cả một dân tộc.
 
   Mai, lan, tùng, trúc,cúc, sen là những loài hoa đã làm tốn biết bao nhiêu giấy mực và cũng đã để lại cho đời những những áng văn chương bất hủ, những bức họa tuyệt vời.  Nhưng cái đẹp cũng có nhiều vẽ mà dường như thượng đế đã tạo nên như một bản nhạc với lối hòa âm bất hủ để lòng người say đắm với cái đẹp nhu hòa, cái dáng thanh nhã, cái  hùng vĩ, cái trang nghiêm, cái  kỳ bí,  đẹp cổ kính, cái đẹp mông lung diệu vợi.  
 
Chính vi có dáng đẹp kỳ vĩ cổ kính mà cây tùng được ví như một cao nhân ẩn sĩ.  Chính vì có lá mảnh mai, mềm mại. vẻ đẹp ôn hòa, tưoi vui, ngay thẳng mà trúc được yêu mến như một người  quân tử. Trúc càng gìà, càng nhỏ, càng thưa thớt càng xinh đẹp   
 
Còn Mai thì sao ?   Loài Mai đã đươc thi nhân, mặc khách ưa chuộng bởi cái vẻ lãng mạn, cái hương thơm nhẹ nhàng thanh tịnh.. Hương của mai trời càng lạnh càng thơm, nên còn đươc gọi bằng một cái tên rất lạnh lùng, rất cao ngạo Lãnh Hương ( hương lạnh ).Mai và lan đươc tượng trưng cho cao kiết, u tĩnh.
 
  Tùng, Trúc, Mai là tam kiệt của mùa Đông, riêng Mai hơn Tùng và Trúc bởi có hương và sắc, nên đã chiếm một địa vị khá quan trọng trong nền văn học nghệ thuât cổ xưa.  Nhân dịp xuân về chúng ta tản mạn vào vườn thi ca của cổ nhân để xem Mai được tôn quý như thế nào, và tim hiểu xem loài Mai này có dính dáng gì tới Mai vàng (hoàng mai ) của chúng ta hay không.
 
 Thi sĩ ẩn dật Lâm Hòa Tĩnh tự Quân Phục đời Tống ( 967- 1028 ) quê tại Côn Sơn, Hàng Châu ông là người không vợ con nên thường tự diễu mình cưới Mai làm vợ, nuôi hạc làm con. Ông đã để lại cho đời bài thơ trong đó có hai câu tả về Mai dã được thi sĩ đồng thời Âu Dương Tu hết lòng khen ngợi :.
 
Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển
Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn
 Xin tạm dich :
 Trong giòng nước cạn bóng mai
 Tà huy dưới nguyệt hương bay dịu dàng (ND)
 
Tôi còn nhớ được hai câu thơ sau đây vịnh về mai rất tuyệt vời của Tô Đông Pha thi sĩ đời Tống:
 
 Nhất chi xung phá song tiền nguyệt
 Bất đáo La Phù mộng diệc hương
Tạm dịch :
 Song trăng một nhánh mai gầy
 La phù chưa tới hương bay mộng về (ND)
 
 La Phú là danh sơn thắng cảnh thuộc tỉnh Quảng Đông, tương truyền rằng nhà đạo sĩ Gia Cát Hồng đã luyện đan theo thuật trường sinh bất tử của Lão Học và đã thành tiên ở đây, nhưng theo một số sách vở thì cho rằng ông đã chết vì bị ngộ độc bởi chính những viên thuốc do ông chế luyện
 
Mai xuất hiện trong thi ca Việt Nam từ khi nào?  đây là một câu hỏi lớn, mà phần trả lời xin dành cho các bậc thức giả. Trong tinh thần của bài viết này theo thiển kiến của tôi thì bài thơ vịnh về mai đầu tiên là bài thơ của thiền sư Mẩn Giác (1051-1096) đơi  Lý
 
 Xuân đi trăm hoa rụng
 Xuân tới, trăm hoa tươi
 Trước mắt việc đời ruỗi
 Trên đầu già đến rồi
 Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng cả
 Đêm qua sân trước nở nhành mai
 
Hai thế kỷ sau thiền sư pháp hiệu Huyền Quang,  tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời nhà Trần đã tôn vinh Mai lên hàng ngự sử
 
Ngự sử Mai hai hàng chầu ráp 
Trượng phu tùng mẩy rặng phò quanh
 
Còn văn hào Nguyễn Du trong chiếc dĩa cổ của triều Nguyễn, hiện tại còn tưng bày tai Huế đã hạ bút :
 
 Nghêu ngao vui thú yên hà
 Mai là bạn cũ, hạc là người quen
 
Trong Nguyệt Lệnh Quãng Nghĩa, đã gọi hình tượng ước lệ của Mai, Tùng. Cúc là Đông thiên tam hữu, hoăc Đông Xuân tam hữu.  Đây là một đề tài lớn có môt vị trí thật đặc biệt trong nền thi ca cổ điển của Đông Phương.  Nói như vậy theo thiển kiến của tôi vẫn chưa đủ, vì khi nói tới tùng, vẽ về tung chúng ta luôn luôn thấy bên cạnh có núi, đá, hạc.  Nhưng với Mai, trong những bài cổ thi, những bức tranh  thủy mạc được vẽ và được tả thì chỉ có  một nhánh trong cái thế chênh vênh nửa vời, trên ấy có loài chim chu tước ( chim sẻ) hoăc nếu không có chim tước thí phía dưói luôn luôn có cập hạc. Ngòaì bộ tam hữu nói trên Mai còn đươc kết hợp với Lan, Trúc, Cúc để tạo nên bộ tứ quý biểu tượng cho bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.

 
 
Nguồn  Google
 
 
 Thật ra Mai được nói tới trong thơ cổ và hội họa của Trung hoa và Việt Nam là cây Mai -Mơ (apricot) thuộc họ mận đào (Prunus) thường mọc hoang hay đươc trồng thành vườn tại các miền ôn đới để lấy trái.  Người Trung hoa hái mơ khi vừa chín đem ướp muối, sấy khô làm ô mai -síu muội ( Do đó tôi nghĩ rằng từ Khô Mai  đọc trại thành Ô Mai chăng ?).  Người Nhật dùng những quả già  muối chua  bỏ vào các lọ nhỏ để con em họ mang đi học cho bữa cơm trưa.  Tại Hoa kỳ quả mơ đươc bán ra thị trường khi thật chín, vàng óng, thân đầy lông tơ.  Ở Việt Nam quả mơ được bày bán tưng mẹt tại chùa Hương.   Hoa Mơ (mai) luôn nở vào thời kỳ cuối Đông khi trời còn giá lạnh và đôi khi còn tuyết nếu ở vùng ôn đới.  Với đặc tinh như vậy nên đã được tặng thêm danh hiệu Bách hoa khôi (hoa nở sớm nhất).  Tại nước ta loài Mơ (mai) được trồng nhiều trên vùng thượng du và trung du Băc Viêt.  Do đó trong thơ, văn, nhạc của chúng ta khi nỏi tới cảnh Chùa Hương thì hình ảnh cây mơ – quả mơ luôn được nhắc nhở. Chung ta có một bài hát thời tiền chiến Cô Hái Mơ của Hòang Thanh Tâm phổ thơ Nguyễn Bính, mà khi nghe ca sĩ Xuân Sơn trình bày bài này với một giọng ca đầy truyền cảm chúng ta như lạc vào một cảnh giới thật thanh binh, nên thơ. Nghe Nhạc trên Youtube
    
  Rồi giòng lịch sữ đã đổi thay, khi nền văn học Tây phương ảnh hưỏng sâu đâm trong tầng lớp trí thức trẻ của Việt Nam. Các nhà thơ lãng mạng thời tiền chiến như : Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Vũ Hoang Chương v. v. trong thi ca của họ không có một vị trí quan trong nào cho hoa mai. Mãi cho tới thập niên bảy mươi chúng ta thẩy xuất hiện tập thơ Đông Hoa Vàng của  Phạm thiên Thư, trong ấy lối dùng chữ và bút pháp của ông trong thể thơ lục bát thật mới lạ:
 
  Rằng xưa có gã từ quan
 Lên non tìm động hoa vàng nhớ nhau
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
 
 Hỏi con vạc đậu bờ kinh
 Cớ sao lận đận cái hình không hư
 Vạc rằng : thưa bác Thiên Thư
 Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ
 
Trong tập thơ này tác giả nhắc tới Mai khá nhiều lần, nhưng hoa mai ở đây đóng một vai trò khác, đó là cái đẹp, cái ngậm ngùi xa vắng của môt thứ tình sầu muôn thủa dành cho một bóng dáng thật xa xôi trong mộng nhưng cũng thật gần gũi:
 
 Sao em bước nhỏ ngập ngừng
 Bên cầu sương rụng mấy tầng mai mơ.
 
Hay:
 Gầy em vóc cỏ mây dời
 Tóc em mai nhỏ,chân trời tuyết pha
 
Ta nhận thấy Mai và tuyết trong bốn câu thơ trên của Pham thiên Thư nó không còn mang cái ước lệ của cổ nhân, mà đó là những bước chân ngập ngừng sương khói của người tình đang đi vào Động Hoa Vàng của ông. Qua những vần thơ kế tiếp ông đã để lại trong tâm tưởng chúng ta cái hương vị chơi vơi, xa lắng nhưng lãng mạng đến lạnh ngưòi khi nhắc tới mai, đào :
 
 Mai ta chết dưới cội đào
 Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu
 
Hay :
 Sao em bước nhỏ ngập ngừng
 Bên cầu sương rụng mấy tầng mai mơ
 Đêm về thắp nến làm thơ
 Tiếng chân còn vọng nữa tờ thơ tôi
 
Hoặc :,
 Mùa xuân bỏ vào suối chơi
 Nghe chim hót núi, gọi trời xuống hoa
 Múc bình nươc mát về pha
 Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa.
 
Mấy tầng mai mơ - Ghé thôn mai nọ - Đông hoa vàng -  những nơi, những chốn ấy ở đâu? Có phải chăng đó là chốn đi và về của một thứ tình hư ảo mông lung của những nỗi buồn muôn thủa mà thi nhân muốn tìm tới
 
 Mai nào thơm ngát thu đông
 Lược em chải rụng đôi dòng thơ xanh
 
Chính vì nỗi vấn vương lạ lùng ấy của kiếp nhân sinh mà chung ta thấy:
 
 Mùa xuân mặc lá trên ngàn
 Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
 Động nam hoa co thiền sư
 Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống khan
 
 
                    
                                Khoác áo xanh non - Nắng hài tiên
                                Xinh tươi Xuân dạo khắp mọi miền
                                Vườn mơ
su cụ nghe chim báo
                                Quên cả gài then cánh cửa thiền

                                                                        Ngọc Danh
  
 
 
 
Mai ở đây là mai của một thứ tình yêu mông lung vạn kỷ.  Cách nay khoảng hai năm,một người bạn gởi cho tôi tập thơ Gối Gốc Mai của nhà thơ Vô Ngã  ý trong phần đầu của tập thơ tác giả  đưa ta vào cảnh giới vô thường.   Mai ở đây là Mai của thiền vị, của bát nhã tâm kinh, ta hãy lăng nghe ông viết :
 
Kiêp xưa làm mây trôi
Ngàn năm về động biết
Suốt đời làm hoa tuyêt
Nở trắng cành mai khôi
 
Rồi ông lại dẫn đưa ta tới bờ kinh vi diêu đầy tình thương của những đóa hoa đại từ :
 
Từ đấy ngàn năm vách lắng tai
Lời kinh vi diệu thấm linh đài
Tình thương từng giọt rơi trên đá
Thành đóa hoa Từ năm cánh mai
 
 Và cuối cùng con người Vô Ngã ấy muốn xa lánh những ưu phiền tục lụy của cuộc đời để tìm về cõi hư không tịnh tịch :
 
Hoa bướm ngàn năm sương khói bay
 Ngàn năm gió bãi lạnh trăng gầy
Ngàn năm suối biếc xôn xao vọng
Ta vẫn ngàn năm gối gốc mai.
 
  Ôi cái gốc mai kia, ngày nay không còn là cái đẹp của cổ nhân, không còn là cái tình lãng mạng nhẹ tênh xa vắng của Phăm Thiên Thư, là cõi vô ưu, chốn tịnh tịch củả giác ngộ mà ngàn đời kẻ hành giả muốn tìm về để an trú trong những lúc nhập đại định qua thi ca Gối Gốc Mai của Vô Ngã

 
 
 
 Khi người Mãn Châu (nhà Thanh) thống trị toàn cõi Trung hoa,(1644-1911), chấm dứt thời đại vàng son cua triều đai nhà Minh.   Một số người Hoa không chịu sống dưới ách thống trị của ngoại tộc nên đã rời bỏ quê cha đất tổ đến lập nghiệp tai miền nam Việt Nam mà chung ta thường gọi là người Mimh Hương trong đó có dòng họ Mạc nổi tiếng tại vùng đất Hà Tiên.    Tại vùng đất mới họ đã gặp một loại cây có hoa trắng, hương thơm, giống như loài mai trên quê hương mình, nên họ gọi là Nam Mai.  Thực ra đây là giống cây mù u có tên khoa học Ochrocarpus siamensis. Chính cây Mù U này đã gây nguồn cảm hứng cho các nhà thơ Minh Hương Trịnh Hoái Đức (1725-1825) lập nên thi đàn Động Mai Đình.  Không biết có phải chinh cây Bạch mai (mù u) này mà những nhà thơ vang bóng một thời của Miền Nam Việt Nam như Phan văn Trị, Tôn thọ Tường, Huỳnh mẫn Đạt, Nguyễn Thông đã khai sáng Thi Xã Bạch Mai ?
 
 Qua những đặc điểm về khí hậu, thổ ngơi, màu sắc, hương thơm chúng ta biết chắc rằng hai loại Mai trong cổ thi và tranh thủy mặc nói trên không phải là mai vàng (hoàng mai) mà người Việt chúng ta thường trưng trong những ngày tết. Vậy chúng ta nên bước thêm một bước nữa để tìm về cây Mai Vàng (Hòang Mai) Việt Nam.
 
 Theo giáo sư Pham. Hoang Hộ trong cuốn cây cỏ Việt Nam thì Mai vàng thuôc họ mai có tên khoa hoc Ochna integẻrrima (Hòang mai) Champax.  Cây thuộc tiểu mộc hay đại mộc nhỏ.  Lá có phiên bầu duc., dài, không lông, bìa lá có răng thấp, cuông từ 4-7mm.   Hoa có cọng dài, đài hoa màu xanh, cánh hoa thường năm cánh hoặc mười cánh nếu là hoa kép, hoa màu vàng tươi, dễ rụng.   Quả mọc trên đế hoa có nhân cứng, chỉ có một hột.  Vỏ đắng bổ dưỡng tiêu hóa thường trồng để lấy hoa. Hoa trổ 15 ngày sau khi trảy lá.  Mai thường mọc ở rừng còi từ Quang Trị trở vào.   Không thấy ở Bắc Việt Nam
 
  Qua sự trình bày trên của giáo sư Phạm Hòang Hộ, chúng ta có thể khẳng đinh đưọc rằng Loài mai vàng OCHNA INTEGẺRRIMA thuộc đặc sản của miền nam Việt Nam, không liên quan gì tới loài mai được các tiền nhân ca tụng trong cổ thi hoặc vẽ trong tranh thủy mạc
 
   Khi xét về địa vị mai vàng trong nền văn học miền nam V N cho tới nay,theo thiển kiến của tôi( cũng có thể vì kiến thức hẹp hòi ít đoc nên chưa biết cũng nên) chúng ta chưa có được bài thơ, bài văn tuyệt bút nàó nói về mai để mãi mãi  lưu lai trong tâm hồn chúng ta những cảm xúc tuyệt vời như loài Mai ( mơ ) trong Đường thi.   Chúng ta chỉ thăý cành mai vàng xuất hiện trên các cánh thiệp Xuân với tràng pháo đỏ treo lủng lẳng, hoăc với hinh bóng một vài thiếu nữ xuân thì trong những chiếc ao dài duyên dáng quyện bay trong gió.  Mai ở đây nó biểu tựng cho mùa Xuân, cho sự vui tươi và đôi khi cho sự hên xui của người chơi hoa,. Nó không còn cái nét lãng mạn, quyến rũ của trăng gió giữa đất trời thiên nhiên.  Măc dù vậy đối vơi ngưới miền nam Việt Nam chúng ta vào những ngày tết, lễ chạp luôn mong ước có một cành mai tươi thắm, đầy hoa, biểu tượng cho cái đẹp và phúc đức cắm trong nhà, thiếu vắng nó phải có cúc, vạn thọ, thược dược thay vào.
 
  Là người chiến sĩ VNCH chúng ta ai cũng thuộc câu hát  : “Nếu mai không nở anh đâu biết Xuân về hay chưa”, trong bài Đồn Vắng Chiềù Xuân, của Trần thiện Thanh.   Mai ở đây gợi trong tâm hồn người lính tiền đồn cái không khí ấm cúng, đoàn tu của gia đình.  Cái nét u nhã, dịu dàng của màu hoa vàng gợi lên nỗi buồn trống vắng của người trai thời chinh chiến khi Xuân về nơi địa đầu giới tuyến
 
 Trong cuộc sông tỵ nạn, người Việt chúng ta đã bỏ lại tất cả nơi quê hương,  nên luôn có khuynh hướng đi tìm những cái tương tự để bù đắp.  Tâm trạng này chẳng khác chi người Minh Hương trước kia, khi nhìn thấy cây mù u tai miền đất mới họ liên tưởng ngay tới cây mai nơi quê nhà.   Ngày nay sông trên vùng đất California có môt loài Mai mà người Việt chung ta rất ưa thích gốc tai Nam Phi (South Africa) có tên khoa học Orhna Serrulata.  Loài mai này giống như mai Việt Nam cũng thuộc loại tiểu mộc, trổ hoa vàng rực rỡ, hoa có năm cánh và nhiều tiểu nhị, nhưng lại có những đăc tính dị biệt như : Hoa không trổ rộ nhưng trổ lẻ tẻ quanh năm nên được người Việt chúng ta gọi là Mai Tứ Quý.  Đăc tinh này sẽ thay đổi khi được trồng tại các vùng lạnh (Bắc Cali),  chúng chỉ cho bông từ mùa xuân tới hết cuối hạ. Hoa cho hương thơm nhẹ, cánh hoa sau khi nở khỏang 5-7 ngày thì rụng, từ lúc đó đài hoa từ màu xanh ( green) từ từ trở nên đỏ thẩm nên còn được gọi thêm một tên Mai đỏ.  .Quả khi chín trở thành màu đen bóng láng. Tất cả những màu sẳc ấy kêt hợp lai đã tạo nên một loại hoa khá lạ và hấp dẫn.  Để kết thúc bài viết,tôi xin kể một câu chuyên liên quan tới một đặc tính dị biệt khác khá độc đáo giữa loài mai Phi Châu và Việt Nam.
 
Cách đây bốn năm con đỡ đầu của tôi tặng tôi một cây mai, và theo lời trình bày của nó đó là loại mai vàng VN chính cống.  Được cây mai như bắt được vàng, không nói quý ví cũng hiểu tôi mừng vô kể. Cây mai đươc tôi chăm sóc, tâng tiu khá kỹ lưỡng. Qua năm sau đúng vào dịp tết cây mai trổ hoa vàng rực, đặc biệt có hương thơm nhẹ nhàng kín đáo. Rất ngạc nhiên về điều này tôi tự hỏi : Quái lạ, tại sao cây mai này hoa có hương.  Theo tôi biết là mai VN không có hương, ngoại trừ một loại mai nào đó ở Huế  có hương theo như môt người quen cho biết (điền này tôi không chắc lắm  và rất ít người biết tới ).
 
  Rồi một hôm vào hai ngày sau tết Nguyên Đán,  tôi ghé qua nhà anh chị bạn cùng quê tại Nha Trang  thăm anh chị và xem cây cảnh, do chúng tôi  quen nhau bởi cái duyên nợ yêù Bonsai.  Khi vừa bươc tới  trước cửa, một cây mai cao quá đầu đầy hoa vàng đứng sừng sựng trước mặt.   Tôi trợn tròn đôi mắt, đầy thich thú vì cây mai của anh chi bạn lớn gấp ba lấn cây mai của tôi và chu choa ơi hoa ơi là hoa.  Trước sự trầm trồ và khen ngợi của tôi anh bạn phát biểu một câu xanh rờn :  Đây cũng là một loại mai, nhưng là mai Chỉ Địa đâu có quý hóa bằng Mai vàng hướng thiên Việt Nam của mình.  Tôi ngạc nhiên đến sững sờ hỏi anh :
 
 -Tại sao anh gọi nó là mai chỉ địa ?.
Anh nhìn tôi một cách bí hiểm cười thích thú rồi giải thích với một giọng chắc nịch:
 
-Anh không nhìn thấy tất cả những cánh hoa đều quay mặt xuống đất sao? ! Anh giải thích thêm : Mai VN là  hoa nở từng chùm và khi nở luôn hương thẳng lên trời. Nên tôi gọi là Mai Hướng Thiên, còn cây Mai này hoa đơn, khi nở các hoa đền quay xuống đất nên tơi gọi là Mai Chỉ Địa.   Sau khi nghe anh lý giải tôi phải công nhân anh có một nhận xét khá tinh vi, và thực sự đây là một nét dị biệt khá quan trọng giữa hai loại Mai
 
 
 
 
Tối hôm đó ngồi trươc cây Mai  nhà mình, tôi thấy tất cả hoa đều chúc xuống (hương địa) giống như cây mai của anh chị bạn. Tôi tìm hiểu thêm thì được biết : Đó là cây Mai gốc Nam Phi với các đặc tính nêu trên  người Việt trong Nam mình gọi là Mai Tứ Qúy ( vì nở quanh nằm- hoặc hoa của nó có bốn màu, Xanh, Đỏ, Vàng, Đen). Ngưởi miền Bắc VN gọi Nhị Độ Mai (có lẽ chỉ nở hai lần trong năm). Nhưng tại Sacramento nơi tôi cư ngụ thuộc miền Bắc Cali  chỉ nở vào cuối Xuân đầu Hạ.   Người Mỹ gọi là cây Mickey Mouse  lý do dễ hiểu  khi kết quà, trên đóa hoa cho có hai quà màu xanh, nhưng lúc chín hóa thành màu đen mọc cân xứng với nhau, trông giống như hai lỗ tai của con Mickey Mouse trong film Cartoon của Disneyland.   Rồi tôi âm thầm tự hỏi :   Phải chăng vi lòng hoài niệm quê hương, vì lòng ái quốc  cực đoan của mỗi con người chúng ta mà một cây Mai có thể trở thành quý hay tiện.   Giả sử  nếu có một ngày nào đó chúng ta đem một cây mai VN tăng cho một anh chàng người Nam Phi, tôi nghĩ chắc anh bạn Nam Phi yêu quý của chúng ta sẽ nhủ thầm trong bụng rằng: Cây mai này không thể so sánh được với cây Mai tai quê hương mình đâu.   Mai gì mà hoa chẳng có hương, cũng không cho mình cái màu đỏ tuyệt vời của đài hoa và chỉ nở có một mùa,  thua xa loại Mai của nước mình chúng nở quanh năm, cho những màu Xanh, Vàng, Đỏ, Đen.
 Ôi cũng một cây Mai mà sự quý tiện không nằm ở tự thân nhưng lại tùy thuôc vào lòng trắc ẩn của con người.
 
   Vâng đúng vậy đó!  Vì chung ta là một sinh vật đầy mâu thuẩn và đầy nhân tính. Chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng, ấp ủ và lớn lên trong sự nuông chiều, bao bọc bởi rất nhiều thứ tình yêu, nào là tình gia đình, tình bạn bè, tình yêu tổ quốc, nên mọi cảm nhận và và suy tưởng đều bị chi phối bởi cảm tính.   Do đó đâm ra thiên vị, một chiều thì cũng chẳng có gì là lạ và đáng trách cả, mà đôi khi còn trở nên đáng yêu, đáng mến  nữa chứ./.
 .
 
 Tài liệu tham khảo:
 
 Hình ảnh : Nguyễn Ngọc Danh
                   Cây cỏ VN - GS Pham Hòang Hộ
Sunset Western Garden 1998
The plan book. Cambidge University
The Newyork botanical garden
The Importance of Living - Lâm  Đường
Động hoa vàng - Phạm thiên Thư
Gối gốc Mai - Vô Ngã
 Hình ảnh : Nguyễn Ngọc Danh
Xin chân thành cám ơn anh Lê v Khiết đã cho phép dược tham khảo tài liệu tại Bộ canh nông California./.
 

  Trở lại chuyên mục của : Nguyễn Ngọc Danh