PHÙNG QUANG THUẬN
Bãi Hoang
“Con kinh dài chảy qua đồng vắng
Cánh cò côi chầm chậm lưng trời
Hoa bèo trôi cạnh bóng cò trôi
Đôi bóng biết đâu đời hạnh phúc…”
PQT.
Bãi Hoang
“Con kinh dài chảy qua đồng vắng
Cánh cò côi chầm chậm lưng trời
Hoa bèo trôi cạnh bóng cò trôi
Đôi bóng biết đâu đời hạnh phúc…”
PQT.
I
Ông Sư Từ cầm cái quai ấm ám khói rót trà vào cái chén và cái tô đá trên tấm ván be ghe cũ, đầy dấu hà ăn làm mặt bàn. Ngồi đối diện với Sư Ông là một chàng trai dị hình dị dạng, cao gấp rưỡi ông. Chàng trai khổng lồ đen đúa này cao khoảng hai thước tư, thân hình lêu nghêu, tay chân xương xẩu hơi ốm nhưng rắn chắc, tóc xoăn đen cháy nắng, trán dồ, xương gò má nhô cao. Gặp anh lần đầu có thể người ta hơi sợ vì thân hình to lớn quá khổ của anh nhưng đôi mắt và cái nhìn của anh làm mọi người yên tâm lại. Anh có cặp mắt của con trâu nghé hiền lành, ngây thơ và khép nép.
- Uống nước đi con.
Sư Ông ôn tồn nói với chàng trai khổng lồ.
- Ta tu một mình một chùa không có đệ tử, con cũng một mình không có người thân nên ta coi con như con ta vậy. Khi nào ngoài rừng mưa giông hay khi nào con cần thì con cứ về đình này…
Chàng trai khổng lồ gật gật đầu, dạ… ồm ồm nhỏ nhỏ trong cổ họng nhìn Sư Ông bằng đôi mắt của con trâu nghé hiền lành.
- Dạ, dạ…
Sư Ông từ tốn nói tiếp sau khi bưng chén uống một ngụm nhỏ trà, ông biết là những lời mình sắp nói ra chàng trai sẽ không hiểu hết nhưng ông vẫn nói vì theo ông không còn cách giải thích nào khác ổn thỏa. Có lẽ ông nói để giải thích cho chính ông.
- Con người ta sanh ra trên đời này ai cũng khổ. Phật nói có cả thảy tám cái khổ, bốn cái khổ đầu tiên là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ. Nghĩa là khổ vì sanh ra, khổ vì già đi, khổ vì bệnh và khổ vì chết… Bốn thứ khổ này không ai có thể tránh được khi mang thân người kể cả vua chúa cũng không tránh khỏi.
- Bốn cái khổ kế tiếp sau khi có được thân người là: cầu bất đắc khổ nghĩa là mong muốn mà không được là khổ, ái biệt ly khổ là thương yêu mà xa cách nhau thì khổ, oán tằng hội khổ nghĩa là oán ghét mà gặp nhau, ở chung với nhau là khổ. Và cuối cùng là ngũ ấm xí thạnh khổ là năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Ngũ ấm[1] gộp lại là thân.
- Trường hợp của con là thân xí thạnh khổ.
- Con cao lớn quá, vượt mức bình thường. Thân xí thạnh khổ là cái khổ thứ tám nhưng nó bao gồm bảy thứ khổ kia, thân mà khổ là mọi thứ đều khổ.
- Tuy nhiên bốn cái khổ sau có thể thay đổi được nhờ vào cố gắng của mình. Biết làm phước, ăn ở hiền lành thì bốn cái khổ này có thể thay đổi được.
Anh chàng khổng lồ lắng nghe, chớp chớp cặp mắt trâu nghé hiền lành của mình, anh lập bập:
- Bớt khổ được hả Sư Ông?
- Được.
Sư ông trả lời chắc nịch:
- Con sống hiền lành, nhẫn nhục, luôn giúp đỡ người xung quanh mình, từ từ mọi người cũng hiểu và thương con, con sẽ bớt khổ.
- Dạ, con nhịn được hết. Ai đánh con, con chạy. Ai cần gánh vác gì con tiếp, ai qua mương, qua kinh, con cõng dùm qua được… Nhưng con khổ vì con cao quá, ít ai dám mướn, ít ai dám ở gần con, làm sao con lùn xuống như người ta được hả Sư Ông?
Câu hỏi bất ngờ của chàng khổng lồ làm Sư Ông ngẩn người. Nhưng anh ta hỏi đúng vào cái gốc của vấn đề.
Sư Ông nhìn ra cánh đồng xa xa mơ màng trả lời:
- Con không lùn xuống được, nhưng con của con, cháu của con, sẽ dần dần lùn xuống khi cưới gả với người bình thường.
Nói xong Sư Ông chắp tay trước ngực, mắt buồn bã chìm vào miên man suy nghĩ.
- Thằng… vì cao lớn bất thường đã chịu nhiều khổ không dứt rồi bây giờ để bớt khổ, vô tình ông lại chỉ cho nó cái cách truyền nỗi khổ đó tiếp tục lên đời con, đời cháu của nó.
- Vậy con cũng có vợ, có con được hả Sư Ông?
Câu hỏi của chàng trai khổng lồ làm Sư Ông bừng tỉnh. Ông nói ngập ngừng mà không trả lời thẳng.
- Con cứ ăn ở hiền lành, nhẫn nhục và luôn giúp đỡ mọi người, từ từ dân xóm này sẽ thương con.
* * *
Câu chuyện dừng lại ở đó, buổi chiều xuống chầm chậm, nước lớn đang lên dần, từng bầy cá chốt, cá đối nổi đầu lắc mình theo con nước đi vào cuối con kinh phía làng Hòa Bình.
Xích Thốn đứng lên nhìn theo dòng nước. Bên mặt dòng kinh là cánh đồng lúa mênh mông, bên trái là xóm nhà thưa thớt, cuối dòng kinh là một vạt rừng còn sót lại chạy dài ven biển tới cửa Hoành Tấu.
Người trong xóm thấy anh cao dị thường nên gọi anh là “Xích Thố”, tên con ngựa cao lớn của ông Quan Công và dần dần gọi sai thành “Xích Thốn”. Cũng không ai biết hay quan tâm chàng khổng lồ này tên họ là gì và từ đâu tới xóm này, tới vào năm tháng nào.
Xích Thốn cũng không quan tâm tới những lời bàn tán thị phi, anh luôn tránh né trả lời khi tiếp xúc với dân làng, anh chỉ thường im lặng và làm việc theo lời yêu cầu của họ, bằng không anh lẩn về đình nằm ngủ hoặc đi vô rừng bắt cua, bắt ốc, đi hái củi khô đem về chất sau đình. Phần lớn thời gian của anh là vào rừng hoặc ra bãi biển. Rừng là cha của anh, che chở cho anh, còn biển là mẹ của anh nuôi dưỡng anh lớn lên. Sư Ông là thầy của anh dạy cho anh trí khôn và cách cư xử.
Không ai biết Xích Thốn tới nơi đây bằng cách nào? Và anh thuộc về tộc người nào. Người ta chỉ biết mơ hồ là anh tới bãi hoang này vào nhũng ngày đầu mới thành lập tỉnh Bạc Liêu.
Xích Thốn không có một ai thân thích, hoàn toàn đơn độc và khác thường. Anh cao lêu ngêu, da ngăm đen, tóc quăn, trán dồ, cặp mắt trâu nghé hiền lành vừa nhút nhát vừa mạnh mẽ. Năm đó anh khoảng 20 tuổi, nói tiếng Việt khó nghe, có pha tiếng Triều Châu. Xích Thốn khờ khạo và gần như câm vậy. Hoặc cũng có thể anh không muốn nói đến xuất xứ của mình, một xuất thân với nhiều bí ẩn cần phải chôn vùi.
Có người nói mẹ của anh là một phụ nữ cao lớn tên là Xì Thốn tới Bạc Liêu với một nhóm Sơn Đông mãi võ và sau đó nhóm này rã gánh tại đây. Những người trong gánh bỏ đi hết. Người phụ nữ ở lại lấy một người đàn ông địa phương bình thường họ Trần, hai người sinh được một người con trai đặt tên là Trần Lào Hên, đứa nhỏ đó ngày càng cao lớn giống mẹ nên người ta gọi trại theo tên mẹ thành Xích Thốn. Hai vợ chồng tá túc ở các đình, chùa gần chợ Bạc Liêu, một thời gian sau không biết vì lý do gì hai vợ chồng đã bỏ đi để lại đứa nhỏ một mình.
Thời gian đầu Xích Thốn sống nhờ vào các chùa, miễu xung quanh chợ Bạc Liêu. Ai cần khiêng vác, quét dọn hay gánh nước, dội rửa gì anh cũng làm mà không hề nói đến tiền công, ai cho bao nhiêu cũng im lặng nhận. Thời gian này xung quanh chợ Bạc Liêu có chùa Minh của hòa thượng Minh Châu, chùa Ông Bổn của người Triều Châu, chùa Bà Thiên Hậu của người Quảng Đông, trong chợ đa số là các tiệm buôn của người Triều Châu. Có lẽ do vậy Xích Thốn nói tiếng Việt trộn lẫn tiếng Tiều.
Xét về mặt nhân chủng học, Xích Thốn chắc chắn không phải là người Hoa như người Triều Châu, Quảng Đông, Phước Kiến hay Hải Nam hoặc Khách Gia từ phương Bắc theo những đợt di dân ồ ạt tới miền Tây Nam Bộ vào thời vua Minh Mạng, vua Tự Đức.
Những người đi biển thì đoán tổ tiên Xích Thốn là người Chà Và (Java) hay Ấn Độ gì đó bị chìm ghe trôi vào bờ biển Bạc Liêu?
Hay anh là con một nô lệ trên các chiến thuyền của người Champa hoặc của Thiên Địa hội sống sót lưu lạc về đây?
Hoặc anh là con cháu của một người lính Pháp gốc Phi từ các chiến thuyền Pháp đánh Nam Kỳ trôi dạt về đất này?
Cũng có thể anh là hậu duệ của một võ tướng, một thủy sư đô đốc từ các miền đất xa xôi phía Bắc như Sơn Đông, Phước Kiến, Hạ Môn hoặc từ phương Nam như Phi Châu, Ấn Độ… Vì một lý do nào đó đã tình cờ trôi dạt tới bờ biển Bạc Liêu xa xôi hoang vắng này?
Không thể đoán được, và cũng không có giả thuyết nào có tính thuyết phục vì chưa có một chủng tộc nào có chiều cao hai thước tư như anh.
Cuộc sống ở chợ không phù hợp với Xích Thốn, anh thường bị mọi người nhìn bằng cặp mắt e dè và xoi mói, những tay bốc vác quanh chợ thường mắng chửi và sai anh làm việc nặng thay cho chúng để tự chứng tỏ mình.
Mọi chuyện Xích Thốn đều nhẫn nhịn để có cái ăn và chỗ nương thân.
Trong lòng Xích Thốn luôn muốn tìm một chỗ khác vì ở chợ anh không đủ ăn, bị đói thường xuyên! Anh lãnh lương ít hơn một phu khuân vác ở chợ nhưng lại ăn gấp hai lần một người bốc xếp lực lưỡng. Lại nữa do anh quá cao lớn nên người chủ thuê anh dù trả lương thấp cũng cảm thấy e dè! Thật ra để no bụng Xích Thốn phải ăn gấp bốn lần người khỏe mạnh bình thường mới đủ cho nhu cầu cơ thể của mình.
Một điều nữa về tinh thần, Xích Thốn không có một người nào thương yêu và chia sẻ với mình. Anh thèm khát và ao ước có một gia đình, một túp lều của riêng anh…
II
Xích Thốn rời chợ Bạc Liêu vì hai lý do chính đó, anh đi về xóm Giồng Me có con kinh mới đào, bề ngang chừng mười thước nối từ sông Bạc Liêu về làng Hòa Bình.
Ngoài đầu vàm kinh Giồng Me có một cây cầu nhỏ nối hai bên bờ kinh lại, cây cầu này được làm bằng thân cây kè. Người dân tứ xứ về dựng nhà hai bên bờ kinh thành một xóm đông đúc. Xóm này được gọi là xóm Cầu Kè.
Ấp Giồng Me và kinh Giồng Me trên bản đồ Bạc Liêu (năm 1969).
Đi dọc theo kinh vào khoảng hai cây số, xóm Cầu Kè nối liền với một xóm khác, nhà thưa thớt hơn, đó chính là xóm Giồng Me. Cuối xóm Giồng Me, ở một quãng vắng có một chòm tre cao, gồm nhiều loại tre gai, tre mỡ, tre mạnh tông mọc hỗn tạp. Dưới chòm tre cao và rậm rạp là ngôi đình Giồng Me.
Xích Thốn tới xin tá túc trong sân đình. Sư Ông chính là ông Từ của ngôi đình cuối xóm, vắng vẻ đó. Thông thường thì người giữ đình giữ miễu là ông Từ nhưng do thiếu người, đình Giồng Me lại mời một tu sĩ Phật giáo từ miệt trên xuống làm ông Từ.
Có lẽ do vừa là tu sĩ Phật giáo vừa là ông Từ được làng giao giữ đình nên Sư Ông được người dân kính trọng và tin quý hơn các ông Từ giữ đình ở các nơi khác. Có người gọi ông là ông Sư, có người gọi ông là ông Từ. Dần dà sau này dân Giồng Me gộp hai “chức danh” lại, gọi ông là ông Sư Từ.
Xích Thốn tới đình và xin Sư Từ tá túc. Ông Sư Từ đồng ý vì đã từng thấy Xích Thốn vài lần ở chợ Bạc Liêu. Ông cũng biết Xích Thốn tuy dị hình như vậy nhưng hiền lành và hoàn cảnh khó khăn. Ông cũng biết anh làm bốc vác và ngủ ngoài hiên chùa.
Có lần, sư trụ trì chùa Ông Bổn nói với ông: “Em Xích Thốn này hiền lành siêng năng nhưng lại thường bị đám anh chị bến chợ hiếp đáp, nó làm nhiều nhưng thường không đủ ăn, sư muốn giúp, nhưng không biết làm cách nào!”.
Ông Sư Từ nghe sư trụ trì nói mà động lòng thương cảm từ đó.
- Con cứ ở lại đây với ta rồi từ từ tính, đình rộng rãi mà. Ta ở đây một mình, xóm này có nhiều việc làm nhưng thiếu người. Dưới con kinh này nhiều cá tép lại có nghề ghe bán muối, bên mặt kinh là ruộng lúa mút mắt tới tận Trà Kha. Bên trái là ruộng muối vài ngàn mẫu, vô trong ngọn kinh là rừng, ra ngoài là Biển Đông… Nói chung là đất rộng mà thưa người.
- Nghề làm vó, làm đáy, nghề bán muối, nghề làm ruộng muối, nghề làm lúa, nghề đi củi, nghề đẩy te, đẩy xiệp ngoài biển. Nghề nào cũng thiếu người, con có sức vóc mạnh khỏe hơn người, ở chỗ này hợp với con hơn ở chợ.
- Ruộng một bên, biển một bên, sông ở giữa và rừng trước mặt, gạo củi muối mắm đều có sẵn, con không lo thiếu cái ăn, cái ở.
Nghe câu nói đó Xích Thốn vui ra mặt, anh cười sung sướng, nụ cười hiếm hoi trên khuôn mặt khắc khổ, sạm nắng…! Gạo, củi, cá, tép luôn đầy đủ ở vùng đất rộng lớn tự do này…
Những năm đầu tiên rời chợ tới Giồng Me, anh ở đình với ông Sư Từ. Sư Từ coi anh như con, ông chỉ dạy anh phép tắc cư xử, dẫn anh đi giới thiệu mọi người để tìm việc làm. Việc làm mướn ở đây có nhu cầu thật nhiều…
Xóm Giồng Me vào khoảng tháng Mười âm lịch, mùa mưa vừa dứt, lúa trên đồng cong trái me. Cá đồng rút xuống kinh theo những đường nước xổ phèn. Hai bên đình có hai cái mương xả nước xuống kinh, anh làm hầm chặn ngang đường nước cho cá nhảy vậy mà sáng sớm ngày nào anh cũng bắt được hơn chục ký cá đủ loại: lóc, rô, trê, sặc, trạch… Xích Thốn vui lắm, đem về kho, nướng, nấu canh… Ông Sư Từ ăn chay nên anh nấu cơm ăn một mình. Cá ăn không hết, anh làm khô để dành.
Kinh Giồng Me được đào để dẫn nước sông Bạc Liêu vào các sở làm muối ở các con mương nhỏ, xẻ dọc ra hướng biển. Các mương này được đặt tên theo số, từ mương số 1 ở đầu kinh đến mương số 13 ở cuối kinh Giồng Me, đoạn giáp với cánh rừng cóc và chà là có nhiều sở muối trên các con mương này. Chỗ nào cũng cần nhiều công nhân khỏe mạnh, làm việc được trong nắng gió và sình lầy nước mặn.
Xích Thốn vô làm ở sở muối từ hừng đông tới trưa nắng gắt thì về, lãnh được một công. Việc của anh làm vào đầu mùa muối cũng đơn giản, chỉ là dọn cỏ, đào mương, đắp bờ, đầm nền cho các trảng nước, sân muối, đặt ống bọng dẫn nước vô ruộng muối, nhứt nhứt làm theo lịnh của ông Từng Khạo[2] nên cũng dễ làm và nhẹ nhàng.
Buổi trưa anh về đình nghỉ ngơi, cơm nước xong, chiều vô ruộng lúa gom và cộ lúa mà thợ đã gặt vào buổi sáng về sân phơi. Thời gian chiều tối còn lại anh đi làm hầm bắt cá và mót lúa đem về đình.
Từ tháng Mười đến hết tháng Mười một, cứ mỗi ngày, sáng anh ra ruộng muối, chiều ra ruộng lúa làm việc, anh lãnh được hai ngày công, thì giờ còn lại anh đi mót lúa và bắt cá nhảy hầm, tối ngủ đình rộng rãi, mát mẻ và yên tĩnh.
Tết năm đó là cái Tết no ấm hạnh phúc nhất của anh từ trước tới giờ, có tiền xài, cá khô bán mấy cần xé, lúa anh mót được đem dí lại được một bồ nhỏ vài chục giạ, đủ ăn một mình cả năm. Hạnh phúc nhất là có một chỗ yên ấm, có một người cha, một xóm làng làm quê hương.
Công việc trên đồng lúa tới khoảng đầu tháng Chạp là hết. Cánh đồng trơ gốc rạ. Nhà nào cũng lúa đầy bồ. Chỉ còn một số ít nhà có ruộng lớn quá thì còn đập lúa, phơi và giê lúa. Các nhóm thợ gặt đã về quê hết. Thời gian này trong xóm lại tới mùa chụp đìa, mọi người lại hú nhau đi tát cá.
Bên ruộng muối công việc càng gần Tết càng nhiều. Công nhân tấp nập trên bờ đê và dưới sân phơi, công đoạn thu hoạch muối bắt đầu. Các sở muối cần nhiều công nhân cào muối thành đống cho rỏ nước, tốp khác xúc, vác xuống xuồng, lòi về tu muối[3] để dự trữ.
Quang cảnh bốc dỡ muối ở Bạc Liêu (năm 1929). Nguồn: https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/btv1b101025261.r=cochinchine?rk=622320;4
Có sở muối thì làm tu muối ngay trên đất ruộng muối luôn, có sở thì đem về tu muối lớn bên kia chợ Bạc Liêu, cũng có một số khác đem muối về nhà họ trong xóm.
Trên ruộng muối và trên dòng kinh dài nhộn nhịp. Một nhóm đi khai nước biển, dẫn vô trảng nước, tốp phơi nước, tốp xả nước ót[4] ra khỏi sân kết tinh, tốp khác cào muối, vác muối gom đống để làm tu muối tại chỗ, tốp khác vác muối đổ xuống xuồng lòi về xóm hay về các tu muối lớn, trữ lại bán dần tới năm sau.
Xích Thốn làm ở sở muối hết mùa nắng năm đó. Anh cao lớn mạnh khỏe và dạn nắng dày sương lại ngoan ngoãn nghe lời sai bảo nên ông Từng Khạo thương và chỉ dẫn cho anh tận tình một số công việc của nghề muối.
Xích Thốn tâm đắc nhất là bí quyết làm các trảng nước, các ô chứa nước, làm sao cho nước không thấm xuống lòng đất đi mất hết.
Ông Từng Khạo nói với Xích Thốn:
- Tao chỉ mầy cách làm ao, làm vuông, giữ được nước để sau này mầy có làm ao trữ nươc mưa xài trong vùng đất thưa thịt, ngập mặn, đầy nhóc cua còng đào hang này…
- Trước nhứt mầy phải kiếm chỗ có đất sét.
- Mầy biết chỗ nào có đất sét giữa bãi sình lầy này không?
- Mầy coi chỗ nào có các loại cây chịu nước ngọt sống thì chỗ đó phía dưới là giồng đất sét. Thí dụ như ở Giồng Me này và ở Giồng Nhãn ngoài Xiêm Cáng, có nhiều loại cây sống được qua mùa nắng, nghĩa là dưới bộ rễ nó có đủ nước mưa tích trữ trong lớp đất sét.
Xích Thốn học được kinh nghiệm tìm vị trí đào ao trữ nước mưa quý báu đó, anh vui mừng ra mặt.
Bây giờ là đầu tháng Tư, mùa muối kết thúc, trời bắt đầu có vài đám mưa trên những ô ruộng muối đã thu hoạch xong. Cảnh vật hoang liêu vắng vẻ, không một loại tôm cua cá nào sống nổi trong nước ót trên các ruộng muối. Điều đó cũng có nghĩa là không có một bóng chim cò nào tới tìm thức ăn. Trời nóng hầm hập do ánh nắng phản chiếu trên bề mặt nước ót và sức nóng mặt trời còn ngậm trên cánh đồng. Không muối, không cua cá, không chim chóc và cũng không có một bóng người, cánh đồng bao la, thiệt buồn.
Bên ruộng lúa cũng vậy, nắng chang chang trên cánh đồng trơ gốc rạ, vài đám mưa đầu mùa chưa đủ ngập lỗ nẻ. Cánh đồng lúa mênh mông đang chờ mưa.
Tháng Tư là tháng kết thúc mùa muối và cũng là tháng sắp bắt đầu vào mùa lúa, người ta tranh thủ thời gian rảnh này để đi thăm nhau, sửa lại nhà cửa, mồ mả ông bà, sên lại đìa, sửa chữa lại ghe xuồng là phương tiện đi lại, làm ăn sinh sống của gia đình hoặc vô rừng lấy một ghe củi về dự trữ cho đợt làm mùa sau.
Tuy nhiên dân Giồng Me thì ngoài nghề làm ruộng muối và làm ruộng lúa họ còn có thêm hai nghề nữa, có khi thu nhập còn hấp dẫn hơn nghề làm muối và làm lúa, đó là nghề đi biển và nghề bán muối. Những người còn trẻ thích phiêu lưu thường chọn hai nghề này.
Một số dân Giồng Me xuống ghe đi khắp các tỉnh lân cận bán muối, họ vô tất cả các xóm làng, dù hẻo lánh nhất, từ Cần Thơ, Vĩnh Long, Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên, Sóc Trăng, Cà Mau, rừng U Minh, cửa biển Sông Đốc hay thậm chí xa lắc như Biển Hồ Campuchia… Nơi nào cần có muối để ăn và ướp cá thì ở đó có ghe muối Bạc Liêu.
Trong nhiều nghề biển thì nghề đẩy xiệp là nghề của những người nghèo, không vốn liếng, chỉ cần có sức khỏe tốt, chịu đựng được nắng mưa và dầm mình trong nước biển nhiều giờ.
Xích Thốn chỉ có một mình, không xuồng bọng lại dị hình dị tướng nên anh chọn nghề đẩy xiệp.
Đẩy xiệp là một nghề cổ truyền có từ xa xưa của người Việt trên bãi biển.
Dân Giồng Me không có mấy người đi đẩy xiệp, vì từ xóm Giồng Me tới bờ biển cũng khoảng vài cây số đường bờ. Vác một cặp gọng xiệp trên vai, một đầu là manh lưới cuốn tròn quanh cặp dép. Đầu kia là cái khạ, kẹp hai ống tre hai bên làm phao và phần cơm nước đem theo ăn trong ngày. Người yếu sức vác mớ đồ nghề này ra tới biển là mệt rồi.
Gọng xiệp được làm bằng hai đoạn tre già nhẹ và cứng chắc, chiều dài mỗi đoạn chừng năm hoặc sáu mét, tùy theo yêu cầu của người đẩy xiệp mà dài ngắn khác nhau. Trên đầu mỗi khúc tre là một miếng cao su làm từ bánh xe hơi cũ hoặc bằng ván. Miếng cao su này để gọng xiệp khi di chuyển không bị xóc dưới sình. Hai khúc tre này kết lại thành cái gọng hình chữ V, giữa gọng móc một tấm lưới để bắt cá tép. Cái khạ đương bằng tre, giống cái cần xé nhưng miệng túm nhỏ lại dùng để đựng tép, cá. Cái khạ được đính phao xung quanh để luôn nổi và thăng bằng trên mặt biển.
Khi bắt đầu đẩy xiệp, người ta bung gọng lưới ra cho đúng hình chữ V gọi là dàn xiệp, kế tiếp là căng xiệp và bắt đầu đẩy, đi độ một đoạn thì dùng sức của đôi tay từ từ nâng gọng lưới lên khỏi mặt nước gọi là vớt xiệp hay sên xiệp, sau đó nhấc hai đầu thanh tre có dép lên cao để trút cá vào cái khạ gọi là giương xiệp.
Cứ lặp lại tới lui bốn bước này cho hết một con nước khoảng sáu tiếng thì xong buổi làm.
Những người làm nghề đẩy xiệp thường ở ấp Nhà Mát hoặc ở trên các chòi ven bờ biển gần đó để xuống biển gần và đem bán cá tép còn tươi sống cho bạn hàng.
Đẩy xiệp ở biển Bạc Liêu. Nguồn: https://www.flickr.com/photos/10130224@N04/3349516220/
Xích Thốn không được thuận lợi vì anh ở xa biển hơn những dân xiệp khác nhưng anh lại có những thuận lợi rất đặc biệt hợp với nghề này.
Anh có chiều cao hai thước tư trong khi người khác trung bình cao dưới một thước bảy. Họ chỉ làm ở mực nước biển sâu một thước tới một thước hai và tập trung ở lằn nước này nên lượng cá tép chia ra cho nhiều người. Xích Thốn cao nên anh làm được ở độ sâu từ một thước rưỡi tới hai thước, một mình anh, một lằn nước nên thu được nhiều cá tép hơn mọi người.
Lại nữa, do mạnh hơn người nên anh làm gọng xiệp dài hơn.
Cặp gọng xiệp bình thường dài khoảng năm thước, còn cặp gọng xiệp của Xích Thốn dài tới tám thước, miệng lưới cũng lớn hơn và sâu dạo hơn.
Tuy nhiên, có một điều Xích Thốn thua tất cả mọi người là anh không biết bán. Ai muốn trả giá cá tép của anh bao nhiêu cũng được, ai muốn lấy thêm mấy cũng được, chỉ cần mọi người nói lời thân thiện là Xích Thốn vui sướng rồi.
Gạo, củi, cá, tép dễ kiếm chớ tình nghĩa mới khó kiếm. Xích Thốn luôn nhớ lời ông Sư Từ đã nói với anh. Anh khắc cốt ghi tâm lời dạy này nên anh thường chia bớt số cá tép bắt được cho những bạn xiệp cùng làm biển với mình.
Anh thật thà nói:
- Ông có vợ con nên cần nhiều… tui có một mình ên, hông có cũng hổng sao.
Những người bạn biển nghèo đẩy xiệp thấy Xích Thốn chơi được và sau đó họ trở thành những người bạn đầu tiên của anh.
Nghề đẩy xiệp ven bờ biển là nước ròng thì xuống biển làm, nước nhửn lớn hoặc cá đầy khạ thì vô bờ bán, rồi vác gọng về nhà phơi lưới nghỉ ngơi.
Biển Bạc Liêu mỗi ngày có hai con nước lớn và hai con nước ròng khác với các vùng biển vịnh Thái Lan và biển miệt ngoài, mỗi ngày chỉ có một con nước lớn và một con nước ròng. Làm nghề biển thì phải theo con nước, theo gió, mưa, thời tiết mà xuống lưới, ra ghe hay thu lưới quay về.
Mấy ông già, thầy nghề sông biển thường nói:
- Nước lớn một ngày một sớm còn nước ròng một ngày một trễ. Cứ ngó con nước lớn ròng mà đoán giờ thì không khi nào trật.
Tuần cuối tháng Tư này nước ròng vào khoảng ba, bốn giờ chiều, như vậy đi biển xuống xiệp chưa được bao lâu thì tối nên cả nhóm bạn xiệp Giồng Me chỉ làm con nước ròng hừng đông sáng rồi chiều rủ nhau nhậu.
Xích Thốn hôm nay là khách mời đặc biệt của nhóm này. Anh vừa mừng vừa lo, mừng vì những người đàn ông trong xóm bắt đầu chấp nhận mình, lo vì anh không biết cư xử thế nào phải phép với các anh em.
Xích Thốn nói với ông Sư Từ chuyện bạn biển mời qua nhà uống rượu chiều nay. Ông Sư Từ hỏi về tửu lượng của anh. Anh nói lúc làm ở chợ, mấy anh em bốc vác cúng “chó ghế”[5] có cho anh uống rượu, mọi người say nhưng anh vẫn còn tỉnh. Khi đó họ thường chửi tục và thách thức đánh lộn nên anh rất sợ uống rượu…
Ông Sư Từ nghe rồi thì lấy tiền đưa cho Xích Thốn, dặn anh mua rượu, mua mồi đem tới nhà bạn và nhớ mua thêm một ít bánh kẹo cho vợ con họ. Tới đó chơi với anh em, nước ròng nửa sông thì phải về đình cho ông nhờ công chuyện.
- Con uống ít, đừng cầm chai chỉ cầm ly uống theo bạn thôi, đừng nói chuyện nhiều.
Xích Thốn nhớ lời ông Sư Từ dặn, anh thường gắp mồi bỏ vô chén bạn, ai nói gì cũng cười và nói với mọi người chiều xế anh phải về đình, về trễ sợ ông Sư Từ rầy…
Thiệt là vui, buổi nhậu thân thiện vui vẻ, mỗi người nói về tuổi tác và hoàn cảnh của mình. Ai cũng nghèo, ông bà từ vùng trên lưu lạc xuống đây làm nghề hạ bạc qua ngày, chưa ai có sự nghiệp gì đáng kể. Những ly đế công xi rượu Mậu Ký đã xóa bỏ những khoảng cách khác biệt của nhau. Một thước sáu, hai thước tư, quê quán miệt trên, miệt dưới, miền trong hay miền ngoài; người Việt, người Miên, người Tiều, Chà Và gì cũng được miễn là ăn ở đàng hoàng có nghĩa khí, hoạn nạn đói khát chia sẻ với nhau là thành anh em thân thuộc.
- Lâu nay tụi tao thấy mầy làm được nhiều mà mầy luôn chia cá tép cho mấy thằng đẩy không có, về xóm mầy còn bán rẻ cho mấy bà bán cá trong xóm, tụi tao thấy mầy được… nên bữa nay mới có cuộc nhậu này. Bây giờ tất cả rót đầy, bưng ly lên uống cạn rồi khi đặt ly xuống thì mình là anh em, hoạn nạn thề không bỏ nhau…
Cuộc nhậu kết thúc thiệt im ắng và đầy thân tình. Mấy chị vợ chưa bao giờ thấy mấy ông chồng mình nhậu êm như vậy. Không biết có phải do ông Sư Từ nhắn nhủ gì đây không?
Xích Thốn đi dọc theo bờ kinh trở về đình, lòng anh tràn ngập hạnh phúc. Giờ anh đã có được năm người anh em, năm căn nhà, dù là cột cặm cây rừng, mái lá tềnh toàng, cũng có chỗ để ghé lại thăm hỏi nhau. Năm người chị dâu và bầy cháu trần truồng, đầu đỏ lấp ló kêu anh bằng chú… Lại còn một mái đình ấm áp của ông Sư Từ, một người thầy, một người cha đáng kính.
Nắng chiều phản chiếu lấp lánh trên kinh Giồng Me, những tia sáng nhảy múa dịu dàng trên đường, trên những mái lá hai bên bờ kinh và trên ngọn chòm tre đình ở xa xa.
Dưới kinh có bầy cá chốt huơ râu, ngúc ngắc ngúc ngắc theo dòng nước, giống như mấy tên say rượu ngúc ngắc trên đường, thi thoảng Xích Thốn lẩm bẩm “đã quá… vui quá…”.
- Chòm nhà lá cuối xóm Giồng Me chỉ có năm căn nhà, chủ nhà là những người ngay thẳng, tốt bụng và hòa thuận nhứt ở Giồng Me này.
Ông Sư Từ nói chắc nịch như vậy.
* * *
Anh Hai Cự, anh Ba Phách, Tư Thắng và Năm Mãi là bốn anh em ruột, con của hai vợ chồng ông Tám Bưu người gốc làng An Trạch về xóm Cầu Kè, khẩn đất làm ruộng từ những ngày con kinh Giồng Me này mới có. Vợ chồng ông Tám Bưu là một cặp xứng đôi vừa lứa, đẹp người và đẹp nết, ông Tám là một lực điền phương phi, vai u thịt bắp, còn bà là một cô thôn nữ đẹp nết, đẹp người, nói năng khéo léo và luôn tươi cười. Hai vợ chồng có bốn con trai, cuộc sống bắt đầu ăn nên làm ra, ruộng vườn đều có đầy đủ. Một đêm mưa muốn kiếm thêm thức ăn bồi dưỡng cho vợ mới sanh, ông Tám quảy giỏ đi soi ếnh nhưng trên ruộng, lúa đứng cái rồi, ếch đã qua mùa bắt cặp sinh sản. Chúng trốn vô lúa hết, ông không bắt được con nào nên ông đi ra hướng biển chỗ cánh đồng năng và bồn bồn để kiếm lươn và bù tọt thì ông gặp một con trăn gấm bằng cườm tay. Ông chụp bắt nó nhưng không ngờ con này quay đầu lại cắn vào tay ông, ông nghe đau buốt và tê rần. Ông biết nguy rồi nên bỏ nó vào giỏ và vội quay về nhà.
Tới nhà ông chỉ kịp nói với bà Tám:
- Tui bị trăn độc cắn, tui bắt nó bỏ vô giỏ mang về cho thầy rắn coi biết trăn gì mà cho thuốc.
Nói được bao nhiêu đó là ông ngất xỉu. Bà Tám hồn bất phụ thể, chạy ra ngoài sân la thất thanh:
- Bớ làng xóm, bớ làng xóm ông Tám Bưu bị rắn cắn chết giấc rồi… mau cứu, mau cứu.
Bà con xung quanh giựt mình thức dậy, đốt đèn chai chạy qua. Một người lấy cái mâm đồng ra trước cửa, tay cầm một khúc củi gõ liên hồi vào cái mâm:
- Cứu Tám Bưu, cứu Tám Bưu bị rắn độc cắn…
Cả xóm Cầu Kè chạy tới nhà Tám Bưu, khiêng ông lên giường, nấu nước nóng, thay đồ, hơ lửa, làm mọi cách để cứu ông. Đuốc và đèn chai đốt cháy rực ngoài sân, trong nhà có ai đó đem tới cây đèn dầu Hoa Kỳ thắp sáng cả căn nhà.
- Rắn gì cắn ổng, rắn gì?
Có một người hỏi lớn. Bà Tám nghẹn lời chỉ vào cái giỏ cá. Ổng nói sau khi bị nó cắn, ổng bắt nó bỏ vô giỏ luôn, để thầy rắn coi biết nó là rắn gì. Mấy người đàn ông lớn tuổi chạy tới giỏ cá đưa đèn lên soi.
- Chết rồi, con nưa chín lỗ mũi. Nó độc còn hơn rắn hổ nữa. Thầy rắn ở Giồng Me này trị không nổi đâu. Có ai cầm con này chạy ra nhà ông Lục Àng Mó ngoài đường biển cho ổng coi rồi rước ổng về đây gấp.
Một người đàn ông khác cầm cái giỏ cá lên, chạy bộ mấy cây số ra đầu lộ rước ông Lục về cứu Tám Bưu.
Gần sáng ông Lục Àng Mó tới nhà, Tám Bưu đã chết. Mắt ông trợn trừng và miệng sôi đờm. Ông thầy rắn tới nắm tay ông Tám Bưu coi vết cắn và thăm mạch. Ông lắc đầu:
- Con này là con “cà ri chá”. Nó giống con trăn gấm nhưng nó là con nưa chín lỗ mũi, bị nó cắn thì không có thuốc chữa được. Bà con đi rừng thì phải coi chừng. Con trăn thì chậm, bò sát đất, chỉ le lưỡi mà không biết khè. Con nưa có chín lỗ mũi, nó lẹ và bò cất đầu lên, gặp người nó khè như rắn hổ mang. Bà con thấy trăn gấm thì phải cẩn thận đừng bắt liền.
Nói rồi ông đưa tay vuốt mắt Tám Bưu rồi ra về. Bà Tám khóc ngất rồi xỉu luôn. Bà con trong xóm khóc theo. Mấy người đàn ông cứng rắn nhất cũng bậm môi, nấc nghẹn. Trời lúc đó cũng vừa sáng.
Năm đó, thằng Hai Cự được 10 tuổi, Ba Phách được 7 tuổi, Tư Thắng 4 tuổi và Năm Mãi gần đầy tháng. Từ buổi sáng định mệnh đó, Hai Cự bắt đầu thay cha lo mọi việc để nuôi gia đình. Bà Tám là một phụ nữ giỏi giang khéo léo, bà cầm tay chỉ việc cho con trai và Hai Cự làm việc như bao chàng trai trong làng vì bà Tám còn nằm cữ. Buổi tối bà còn dạy chữ và dạy làm toán cho Hai Cự và Ba Phách. Hai anh em rất sáng dạ, học đâu hiểu đó. Bà ở vậy nuôi con, thờ chồng. Bốn đứa con trai dần dần lớn lên, có lẽ nhờ gen của cha, nhờ công nuôi dạy của mẹ và nhờ hoàn cảnh mồ côi mà Hai Cự và Ba Phách trở thành hai thanh niên giỏi giang nhất xóm Cầu Kè.
Năm Hai Cự 18 tuổi, Bà Tám cưới vợ cho anh. Gia đình bên vợ Hai Cự cũng là người Cầu Kè nhưng làm nghề đánh cá biển, không có ruộng đất gì nên vợ chồng Hai Cự xin với Bà Tám cho vợ chồng anh ra riêng, vô cuối xóm Giồng Me khẩn đất hoang làm ruộng và nếu anh ổn thì đất của cha mẹ anh để lại cho các em, anh khỏi chia.
Ba năm sau, anh Ba Phách cưới vợ người xóm Trà Kha. Bên vợ Ba Phách có ruộng đất gần Giồng Me nên vợ chồng anh cũng xin Bà Tám được đi theo anh Hai Cự. Và như vậy lần lượt bốn anh em đều chuyển về chòm nhà cuối xóm này khẩn đất dựng nhà. Anh Hai Cự và anh Ba Phách có ý nghĩ tự cắm ranh, chọn đất trước, dành chỗ cho các em.
Bà Tám cho mướn miếng ruộng của ông Tám để lại, bà lấy tiền ăn và đi chùa chiền làm phước.
Trong các chuyện làm phước của bà có một chuyện liên quan đến ông Tám, đó là bà trồng cây thuốc và tài trợ thuốc trị rắn cắn cho bà con nghèo. Còn Hai Cự và Ba Phách, Tư Thắng gặp rắn là giết không chừa một con, dù đó chỉ là rắn nước, không có độc. Sau này bà Tám biết được, kêu các con lại rầy, không cho giết rắn nữa thì bốn cậu con trai bà mới thôi. Bà nói:
- Trời sanh con rắn, khi nó sợ thì nó cắn đại, chớ nó có thù oán với ai đâu. Số ba tụi con tới đó là hết.
Ba Phách trả lời:
- Thì trời sanh tụi con, sanh ra là để giết rắn, chớ tụi con có thù oán gì với tụi nó đâu!
Bà Tám thấy con quạu, nói lẫy thì bà cười:
- Oán thù nên tháo gỡ, tha thứ được nên tha thứ, đừng để oán oán chất chồng.
Bà là người nhẹ nhàng như vậy nên hàng xóm và các con dâu của bà ai cũng thương quý bà.
Còn Tư Cò thì không bà con họ hàng gì tới gia đình anh Hai Cự. Tư Cò cũng không phải tên Cò nữa. Anh là một trẻ mồ côi lai Miên, ở làng Hưng Hội, ở đó người ta gọi anh là Cà Nhum. Cà Nhum giỏi, khỏe mạnh nên được một cô gái Khmer thương và mẹ cô này cho hai người lấy nhau với điều kiện Cà Nhum phải ở rể. Anh này cái gì cũng được nhưng có tật lớn là ham rượu. Mỗi lần Cà Nhum uống rượu vô là mê mẩn quên hết mọi chuyện, vợ anh là chị Xà Ly rất buồn và mắc cỡ với mọi người. Có một chuyện tức cười về anh Cà Nhum do chị Xà Ly kể lại là mỗi khi anh rảnh và có tiền thì mua rượu giấu ở nhiều chỗ rồi kiếm bạn nhậu. Một bữa thấy vợ người bạn nhậu không có ở nhà, anh lén qua rủ bạn nhậu. Anh bạn Khmer này cũng mê nhậu như Cà Nhum và đã nhiều lần bị vợ hăm he nhắc nhở nên anh nói với Cà Nhum:
- Một lít thôi nghe, không thêm đước đâu (thêm được đâu).
Và hai người uống khan không mồi, hết một lít rượu đế, cườm cườm chưa đã. Cà Nhum nài người bạn Khmer uống thêm nữa. Anh này dứt khoát trả lời:
- Không uống nữa, vợ tao về là “cò chiên lơn”.
Cà Nhum nghe “cò chiên” thì mừng quá. Vậy hai thằng mình làm một lít nữa, có “cò chiên” là đã quá rồi…
Và hai tên đệ tử lưu linh uống tiếp. Lát sau vợ anh Khmer về thấy chồng mình và Cà Nhum ngồi nhậu. Chị lấy chổi chà đập. Hai ông ma men chạy ra bờ ruộng trốn.
- Mầy không nghe tao, bây giờ “cò chiên lơn” rồi, mầy thấy hông?
Lúc này hơi tỉnh lại chút, cộng với sự việc không có con cò chiên nào mà còn bị đập chổi chà, Cà Nhum mới hiểu bạn của mình nói là “Vợ tao về, thấy nhậu là “có chuyện lớn” đó…!”.
Vợ chồng Tư Thắng và Năm Mãi cười ngả nghiêng khi nghe chị Xà Ly, vợ Cà Nhum kể chuyện đó.
- Dzị đó, từ chuyện đó em bắt ảnh thề bỏ “gụ” và em xin má em cho tụi em qua đây ở luôn để ảnh xa mấy bạn nhậu, bỏ “gụ” và sang ruộng làm nuôi con.
Từ bữa đó, Tư Thắng và Năm Mãi cứ kêu Cà Nhum là Tư “Cò Chiên” vì Tư là thứ của Xà Ly chớ Cà Nhum không có thứ. Sau này anh Hai Cự sửa lại là Tư Cò cho dễ kêu.
Vợ chồng Tư Cò về đây sang đất kế nhà anh Ba Phách ở luôn nơi đó. Tư Cò cùng một tuổi với Tư Thắng, họ kết nghĩa là “ní” (tằng ní, tiếng Tiều là đồng niên), dần dà qua sự chân thật, vợ chồng Tư Cò sống với bốn anh em Tư Thắng như anh em ruột, tối lửa tắt đèn có nhau, ngọt bùi cùng chia sẻ tới nay.
III
Cuối tháng Tư xóm Giồng Me đã bắt đầu vào mùa mưa, phía biển trời thường vần vũ, mây khói đèn, chiều nào cũng mưa một trận lớn như trút nước.
Bữa nay Xích Thốn đi biển một mình, mấy anh em kết nghĩa của anh ở nhà chuẩn bị cho mùa lúa sắp tới. Ở đây nhà nào cũng có đất, làm ruộng trồng lúa để tự túc gạo ăn và tấm cám nuôi heo gà vịt. Đất hoang còn khá nhiều, ai cần thì cứ việc khai khẩn. Tuy nhiên vì không có vốn khai hoang nên người dân chỉ khẩn đất vừa đủ sức làm và vừa đủ lúa ăn tới giáp hạt mùa sau mà thôi.
Mùa mưa cũng là mùa con ruốc ở Bạc Liêu, mấy chục cây số bờ biển chỗ nào cũng có con ruốc. Có thể nói Bạc Liêu ngoài vựa lúa, tu muối còn có thêm “mỏ ruốc”. Những lúc trời yên gió lặng, ở lằn một sải nước tới gần bìa rừng mắm, con ruốc đi thành từng đám đỏ nước, con ruốc đi tới đâu thì tôm cá đi theo tới đó để thưởng thức “bữa tiệc ruốc” biển tặng cho chúng nó.
Miệng lưới xiệp của Xích Thốn là miệng lưới thưa, mặt lưới lỗ một phân rưỡi nên chỉ bắt được tôm, tép, cua, cá biển còn để bắt ruốc thì mặt lưới phải dày, lỗ một ly hai tới một ly rưỡi. Hơn nữa với lượng ruốc quá nhiều như vậy và điểm bắt ruốc cách bờ một hai cây số mà địa hình bãi biển từ trong bờ ra ngoài phải qua các lớp thào lềnh cháo[6], rồi tới lớp thào lềnh, mới tới sình lầy, đất mềm, cát lún, tới cát sụp, mới tới cát cứng. Vì vậy bắt được ruốc rồi cũng khó đem được số lượng nhiều vô tới bờ đê, cũng có người dùng ván mỏng chế thành một dụng cụ trượt trên sình lầy, gọi là “tàu thiệu”. Chiếc “tàu thiệu” này một lần chở cũng chỉ được vài chục ký là cùng.
Bầy ruốc ở lằn nước này, người dù đi bộ hay đi cà kheo đẩy xiệp thì số lượng ruốc bắt được quá nhiều, cũng không có đủ đồ chứa và cũng không thể đem vô bờ hết được.
Chỉ trừ khi có một chiếc ghe lớn, tới mùa ruốc thì ráp miệng lưới mịn, trong thời gian một hai ngày có khi kiếm vài tấn ruốc tươi, chạy ghe vô cửa Nhà Mát bán hoặc đem về nhà phơi khô.
Khi hết mùa ruốc thì thay miệng lưới thưa đi bắt cá tép rọc bãi[7]. Xích Thốn mơ màng nghĩ tới một chiếc ghe te chạy buồm để cùng với mấy anh em Hai Cự đi đánh ruốc.
Xích Thốn đang đẩy cặp gọng xiệp quá khổ ngoài lằn nước một sải, bỗng dưng anh thấy có một chiếc ghe tải biển mũi chài từ hướng cửa Gành Hào đang giương buồm chạy về phía anh. Quán ghe[8] này ít thấy, chắc ghe từ xa tới chớ không phải ghe vùng này. Các loại ghe chứa hàng này phải đi ở lằn nước một sải ruỡi trở lên thì mới không mắc cạn vì thâm hạ[9] của nó ít nhất cũng sâu một thước rưỡi. Chiếc này lại đang đi ở lằn nước một sải, có thể nó muốn vô cửa Nhà Mát nên lấy lái đi gần bờ. Tới ngang chỗ Xích Thốn đang đẩy xiệp chừng vài chục sải bỗng dưng có một người từ trong ghe lao ra nhảy ùm xuống biển và lội gấp về phía Xích Thốn. Trên ghe có tiếng la ó xì xào và vài người ra đứng trước mũi vung tay chỉ trỏ xuống người đang ngụp lặn dưới biển. Gió nam thổi mạnh, chiếc buồm no gió đẩy chiếc ghe tải chạy thẳng luôn không dừng lại được.
Kẻ đào thoát lội lủm bủm tới chỗ Xích Thốn, thở hổn hển níu gọng xiệp còn ló trên mặt nước. Xích Thốn giựt bắn người như bị trời đánh:
- Trời ơi, là một phụ nữ...!
- Cứu… cứu tui… tụi cướp biển…!
Xích Thốn hốt hoảng, mau mau sên xiệp khỏi mặt nước, gấp rút cuốn miệng lưới lại, gác lên cái khạ có cặp phao nổi.
Anh la lớn:
- Ôm cái khạ đó đi!
Rồi anh cặp nách cán xiệp kéo chiếc khạ và “kẻ đào thoát” đang nổi trên nước ào ào hướng vào bờ, thỉnh thoảng anh quay lại nhìn chiếc ghe tải. Tuy nhiên chiếc ghe bí ẩn đó không vào Nhà Mát mà đi thẳng luôn về hướng bắc, chắc nó đi Vĩnh Châu hay Sóc Trăng gì đó.
Tới bờ người phụ nữ mặt xanh mét đi một hơi lên bờ. Xích Thốn vác cặp gọng xiệp và cái khạ theo sau. Anh đứng cách người nữ một khoảng chừng mười bước, cô ta mở lớn mắt sợ hãi nhìn người khổng lồ kỳ lạ.
Đó là một cô gái chừng hai mươi tuổi, nước da màu đồng của dân biển, vóc người tầm thước, khỏe mạnh, nhan sắc dưới trung bình nhưng ngộ ngộ, có duyên. Cô gái còn run, chưa hết kinh sợ. Có lẽ khi nãy thấy người đẩy xiệp, cô tưởng chỗ đó nước cạn mới nhảy xuống, giờ cô còn kinh hoảng hơn nữa khi nhìn thấy một người đàn ông khổng lồ đứng trước mặt mình, mệt, lạnh và sợ làm cô trợn trừng đôi mắt và run lập cập không ngừng…
Xích Thốn biết cô gái sợ bề ngoài của mình. Anh lấy trong khạ ra một chai nước đưa cho cô gái và nói:
- Cô đừng sợ…
- Tui là người tốt, xóm tui ở gần đây… tui có nhiều anh em tốt, họ giống cô không giống tui đâu.
Cô gái đưa tay cầm lấy chai nước, tu một ngụm rồi im lặng quan sát Xích Thốn.
- Chiếc ghe cướp biển không vô xóm Cây Bàng, chắc nó đi xa rồi, bây giờ cô dìa nhà cô đi, còn tui dìa xóm tui.
Nói rồi anh xốc cặp gọng lên vai cúi đầu bước đi. Xích Thốn là người cao lớn nhưng chậm về trí khôn và lời nói. Anh không biết cư xử sao cho phải, cho giống mọi người và anh cũng không biết cách diễn tả được tâm ý của mình. Những điều đó làm cho anh luôn mặc cảm tự ti, luôn lúng túng, sợ sệt khi tiếp xúc với người lạ.
Anh chỉ thích sống trong thiên nhiên hoang dã, ở đó các loài động thực vật là bạn của anh, chúng cũng không biết nói, không có trí, mà chỉ có lòng chân thật của bản năng. Chúng ăn đủ no, ở yên là thôi, không chiếm giữ, không tham vọng, chúng chung sống bình đẳng theo luật lệ tự nhiên.
Xích Thốn lầm lũi bước vừa suy nghĩ vừa lo âu, tự dưng cô gái này, không biết từ đâu tới, anh lại đem cô từ dưới biển lên bờ. Nếu cô hay ai đó quy trách nhiệm cho anh, hỏi bây giờ anh tính sao? Thiệt anh cũng không biết tính làm sao nữa… Nghĩ tới đó, Xích Thốn lo sợ ngoái đầu nhìn ra sau.
- Trời ơi…
Cô gái đó cầm chai nước đang chạy lúp xúp theo anh.
- Hia[10] làm ơn thì làm cho trót, chớ Hia bỏ tui giữa rừng, giữa biển sao được?!
Hình như cô gái bắt được mạch của anh chàng khổng lồ này là một người hiền lành, thật thà, thậm chí còn nhát gái nữa. Trong tình thế ngặt nghèo, tứ cố vô thân này cô bèn đổ thừa “lỗi tại anh” để lấy cớ bám víu luôn như một người rớt xuống biển, ôm chặt cái phao, bất kể phao xấu hay phao đẹp.
Xích Thốn bối rối, lúng túng. Anh vừa sợ hãi, vừa thích thú trước tình cảnh lạ lùng này… Một cô gái đi theo mình, đeo bám bắt đền!!!
Anh nói ồ ồ khó nghe như đang mếu:
- Cô theo tui vô xóm. Tui gởi cô ở nhà bạn tui rồi tui dìa, nhờ Sư Ông tính dùm cho.
Nắng chiều tháng Tư soi nghiêng hai bóng người lếch thếch, kẻ trước người sau đi về chòm nhà cuối xóm Giồng Me.
Con chim chắc chó đậu trên ngọn bụi cây lứt ven đường bờ, thấy hai con người kỳ lạ ấy đi tới nó hoảng sợ kêu… chắc chắc… chắc… chắc… chắc và nhảy múa liên tục qua lại giữa các bụi lứt và mấy cây tra nhỏ vừa trổ lá non, có lúc nó nhào xuống đất xòe một cánh, nằm nghiêng giả bộ như bị thương để chặn đường hai người. Xích Thốn biết đây là mánh khóe của con chim này, nó diễn trò để bảo vệ trứng hay ổ chim con mới nở của nó, đâu đây mà thôi.
Anh không biết nhiều về phản ứng của người nhưng đối với đa số loài vật hoang dã trong vùng đất sình lầy này thì anh hiểu biết rất rành rẽ.
Xích Thốn lầm lũi bước, bóng cao lêu nghêu, trên vai cặp gọng xiệp ngoại khổ. Cô gái đuổi theo lúp xúp như một em bé, mặc quần ống thấp ống cao. Có lẽ do bọn hải tặc sợ cô trốn lên bờ nên chúng cắt bớt một ống quần của cô để cô mắc cỡ không dám lên bờ khi ghe cập bến chợ.
Con chim chắc chó lượn trước mặt cô rồi đảo vòng bay vào các bụi cây tra ven đường, có lẽ là chim con của nó đang ở đó.
- Hia đi chậm một chút… Hia tên gì?
Anh chàng khổng lồ bước chậm lại nhưng đầu vẫn cúi gằm. Cô gái biết anh khổng lồ này hiền lành và dễ thu phục, trực giác của phái nữ cho cô biết người đàn ông này thuần lương và vô hại so với bề ngoài ghê gớm, giống con trâu rừng của anh ta.
Bản năng và sở trường của đàn ông là săn bắt, giết chết những con thú hung dữ to lớn hơn mình vì anh ta sợ những loài đó sẽ giết hại mình. Còn bản năng và sở trường của đàn bà là thu phục thuần hóa các loài khác để làm công cụ, phục vụ lợi ích cho mình.
- Hia tên gì?
Như ra lệnh, cô gái hỏi lớn tiếng hơn sau khi tin là mình sẽ thu phục được anh chàng khổng lồ thật thà này. Quả nhiên chàng khổng lồ đen đúa trả lời lắp bắp:
- Tui tên Tùa Gú[11]. Không ai biết tui tên đó, người ta chỉ kêu tui là Xích Thốn thôi, cô cũng đừng kêu tên Tùa Gú, tên đó xấu.
Cô gái thấy yên tâm và vui thầm. Trong hoàn cảnh này, đối với một cô gái không người thân vừa nhảy xuống biển đào thoát khỏi một đám cướp biển mà vui vẻ là một điều hơi kỳ cục!
Con chó trụi chui ra từ cái hang dưới gốc cây chưn bầu, sủa một hồi vang rân vì thấy người lạ. Loài chó này chỉ có một chùm lông vàng trên trán và một chùm lông ở cạnh đuôi, còn lại không một chỗ nào có lông. Da nó màu đen mốc như da trâu, giống chó trụi này tuy xấu xí nhưng rất tinh khôn. Chúng giữ nhà, săn chuột và săn chồn cực giỏi. Nhưng chúng khác chó cỏ là không ở trong nhà nằm gần bếp un mà chúng đào hang ngoài sân để ở. Có lẽ vì chúng nó không có lông nên ở hang để khỏi bị lạnh khi mưa và khỏi bị muỗi mòng cắn.
Hai Cự bước ra nạt con chó một tiếng, nó cúp đuôi chạy ra sau hè. Sau đó anh lớn tiếng hỏi Xích Thốn:
- Bữa nay sao chú em không về thẳng đình mà ghé vô đây lại dẫn theo ai nữa dzị?
- Dạ… dạ… Cô này từ trên ghe tải biển nhảy xuống, lội vô ôm cặp gọng xiệp rồi đi theo em về đây luôn! Kêu đi chỗ khác cổ hổng đi.
Xích Thốn ấp úng nói tiếp, vẻ đau khổ:
- Cổ nói em cứu cổ, bây giờ phải tính dùm cổ, ở đây cổ không có quen biết ai hết. Nhờ hia Hai với số Hai[12] cho cổ ăn cơm, ngủ nhờ một hai bữa để em dìa thưa với Sư Ông tính dùm.
Anh Hai Cự nhìn bộ dạng Xích Thốn, rồi nhìn cô gái có vẻ thật thà lương thiện, anh gật đầu…
- Ách giữa đàng mang vào cổ hả? Thôi được anh em sướng khổ có nhau, chị ngã em nâng mà. Chú để cổ ở đây tôi lo tiếp cho mấy bữa.
Xích Thốn mừng quýnh, hạ cặp gọng xiệp xuống và xách cái khạ gần đầy tôm cá vô nhà Hai Cự.
- Anh Hai lấy số cá tép này phụ vô cơm nước cho cổ.
Rồi quay qua cô gái, anh nói:
- Giờ cô ở đỡ nhà Hia Hai vài bữa, để tui dìa hỏi ý Sư Ông tính sao rồi mơi tui quay lại nói cô biết.
Nói với cô gái nhảy biển xong, Xích Thốn quảy gọng xiệp lên vai, cúi chào Hai Cự rồi đi về đình mà vẫn quên chưa hỏi tên tuổi cô gái.
Buổi tối đó, Xích Thốn nói chuyện với Sư Ông. Sư Ông chăm chú nghe và đưa tay bấm quẻ một lúc rồi nhẹ nhàng cười với anh.
- Đây là quẻ kiết, có khi con có chuyện tốt đó. Thôi con đi nghỉ đi. Ngày mơi ta xuống nhà Hai Cự nói chuyện và gặp chị kia coi sao.
Sáng bữa sau, ông Sư Từ mang tay nải đi xuống cuối xóm. Chòm nhà của Hai Cự có được năm căn nhà, ba căn bên rừng gồm Hai Cự, Tư Thắng và Năm Mãi. Còn lại hai căn là của Tư Cò và Ba Phách ở bên ruộng.
Ông Sư Từ sẵn dịp đi nên ghé vô thăm hỏi mọi người trong chòm nhà cuối xóm rồi mới vào nhà Hai Cự. Sáng nay Hai Cự không đi biển, anh đi ruộng coi lại bờ giữ nước để chuẩn bị cày. Vợ Hai Cự và cô gái nhảy biển ở sau vườn làm cỏ, hái rau. Nghe chó sủa thì ngó ra trước sân, thấy ông Sư Từ hai người vội vã ra chào.
Tất cả những ngôi nhà ở xóm Giồng Me này đều quay mặt ra con kinh đào. Cặp dòng kinh là một con đường đất rộng chừng hai thước, chạy dọc theo bờ kinh. Mỗi căn nhà có mặt tiền bờ kinh khoảng vài chục thước. Dưới bờ kinh có một ụ ghe lợp lá sơ sài. Kế bên ụ ghe, cách vài nhà thì có một nhà đặt vó để kiếm cá. Sau con đường đất liên xóm là sân trước của các nhà, sâu khoảng hơn chục thước làm sân phơi, sửa chữa ghe xuồng hay dựng rạp làm đám khi hữu sự. Bình thường sân trước là sân chơi của đám con nít và lũ heo, gà…
Gian nhà thường rộng sáu tới tám thước, nằm giữa lô đất và hai bên nhà thông ra miếng rẫy sau nhà. Giữa các căn nhà thường trồng cây làm ranh, loại cây dễ trồng và thích hợp nhứt với vùng đất mới này là cây so đũa. Chúng vừa mau lớn, có thân cao thẳng, đẹp lại hữu dụng vì nhiều bông để nấu canh chua. Còn thân cây hạ xuống chặt khúc “chất chuồng heo” để ở một góc sân, chỉ vài đám mưa là có nấm mèo nấu canh với mướp.
Khu rẫy sau nhà rộng khoảng một hoặc vài công đất tùy nhà, đất sau nhà thường có ao nuôi cá, vài liếp trồng đủ thứ cây ăn trái như dừa, chuối, cóc, ổi, chanh, khế... Tuy nhiên bên đất rừng cây trái èo ọt, không được tốt như phía đất ruộng bên kia kinh.
Sau rẫy thường là một mương nước chung của cả xóm cùng đào để lấy đất làm bờ đê ngăn mặn. Đây coi như là ranh giữa vùng đất rừng ngập mặn kéo dài tới bờ biển và vùng đất chuyển tiếp tới bờ kinh.
Bên kia con kinh cũng là một xóm nhà giống như vậy. Hai dãy nhà đối diện với nhau, dân hai bên làm cầu khỉ để qua lại, tuy nhiên xóm bên kia là vùng đất thuộc, phía sau nhà trồng được cây trái lâu năm, qua khỏi miếng vườn là cánh đồng lúa mênh mông giáp tới xóm Trà Kha.
Chung một dòng kinh, chung một xóm, nhà cửa giống nhau nhưng thật sự lại khác nhau rất xa. Bên này kinh đất thuộc, sau nhà là vườn, sau vườn là ruộng với các loại cây ăn trái đẹp, chất lượng của miệt vườn. Còn bên kia dòng kinh, cách có mười thước lại là vùng đất chuyển tiếp, thịt đất chưa chặt và còn nhiễm mặn, chỉ lên liếp cao làm rẫy, trồng vài loại rau dưa và các giống cây thích hợp với đất còn phèn mặn.
Bên biển thì sống nghề làm muối, nghề đi biển, đi rừng. Bên đất thuộc sống nghề làm vườn, làm lúa, chăn nuôi gia súc.
Hai bên chỉ có một vài nghề chung là cùng đặt vó trên kinh, cùng bán muối, bán lúa và bán cá tép…
Những giờ rảnh, dân hai bên muốn rủ nhau nhậu thì nhảy xuống kinh lội qua, nhậu đã lội về… mau hơn đi cầu khỉ.
Vợ anh Hai Cự chắp tay cúi đầu chào ông Sư Từ, “cô gái nhảy biển” cũng cúi đầu chào theo:
- Thưa Sư Ông! Cô này tên Pậu. Cổ nhảy xuống biển trốn khỏi ghe buôn Hải Nam, được Xích Thốn dẫn dìa đây. Cổ nói cổ không có gia đình. Cha mẹ là người Việt làm nghề ghe hàng bông, không may cha cô bị bệnh, gia đình quá khó khăn nên phải đợ cô cho một chủ vựa cá người Tiều lúc cô mười tuổi để lấy tiền trị bệnh.
Từ đó, cha mẹ cô đi luôn, tới nay mười năm rồi chưa gặp lại. Cô ở đợ cho chủ vựa người Tiều và ông chủ đặt tên lại cho cô, kêu là cô Pậu. Gần đây gia đình ông chủ vựa gặp khó khăn do buôn bán đổ nợ… có lẽ ông chủ đã bán cô lại cho mấy người mua tôm cá khô Hải Nam. Họ chở cổ đi ngang Bạc Liêu, gặp mưa giông, ghe cặp sát bờ tránh sóng, cổ thấy có người đẩy xiệp, cổ tưởng nước cạn nên nhảy đại xuống trốn, ai dè chỗ đó vẫn còn sâu hơn một sải nước. Cổ hoảng hồn lội vô ôm đại người đẩy xiệp, đâu dè Xích Thốn cao quá nên nước không ngập đầu. Cổ được Xích Thốn cứu lên bờ, bí quá cổ đi theo nó dìa đây luôn.
- Đi theo tên khổng lồ băng rừng dìa đây con có sợ nó không?
Ông Sư Từ ôn tồn hỏi cô gái.
- Dạ… dạ… Hia đó dị hình dị tướng dzậy chớ hiền lành và tốt bụng. Hia sợ con hơn con sợ ổng…!
Cô gái ngượng nghịu thật thà nói vậy.
- Thôi… Con ở đây tạm vài bữa coi sự thể thế nào rồi tính tiếp.
Ông quay qua vợ Hai Cự nói:
- Tối mai vợ chồng con rảnh thì lên đình bàn chuyện. Bây giờ thì trước mắt giúp đỡ cháu này cho chu đáo.
Tối bữa sau vợ chồng Hai Cự lên đình gặp ông Sư Từ.
- Vợ chồng con là anh chị lớn có uy tín ở chòm nhà cuối xóm này, vợ chồng con nói gì mấy nhà khác cũng nghe nên ông nhờ vợ chồng con xem xét mấy điều:
- Thứ nhứt, coi lai lịch, tánh hạnh cô gái này; thứ hai, coi cô này làm giỏi cái gì; thứ ba, thăm dò coi người trên chiếc ghe Hải Nam đó có tìm kiếm cổ không? Trong một tuần các con cho ông biết để tính coi có giúp đỡ cho cổ được không.
Vợ Hai Cự có quen nhiều người xóm Cây Bàng, nên sau khi dò hỏi chị biết ngay chiếc ghe biển đó không có ghé vào Cây Bàng, xóm Hải Ngư, Vĩnh Châu hay bất cứ một xóm biển nào khác trong vùng này, vì từ cửa Gành Hào tới cửa Mỹ Thanh là bãi ngang nước cạn, ghe biển lạ rất dễ mắc cạn, dễ chìm khi vô sát bờ.
Mấy chị phụ nữ, vợ Ba Phách, vợ Tư Thắng, vợ Tư Cò và vợ Năm Mãi cũng có nhận xét chung là cô gái lạ này siêng năng, mạnh khỏe, làm nhiều hơn nói, chị em ở đây có việc gì cần thì cổ tới tiếp ngay mà không chờ mọi người lên tiếng. Làm ruộng cổ cũng biết, nghề xuồng ghe cổ cũng được, chế biến cá mắm cũng khá, nhưng có lẽ giỏi nhất là mua bán cá tép. Có thể do cô ở vựa cá nhiều năm nên thông thạo nghề này.
Về nguốn gốc xuất thân thì cổ gốc người Việt, gia đình nghèo, làm nghề ghe hàng bông. Cha đau nặng đợ cô cho chủ vựa cá tép người Triều Châu lấy tiền uống thuốc, mười năm rồi cổ không gặp lại gia đình. Lúc chủ vựa làm ăn suy sụp, ghe mua tôm cá khô của Hải Nam tới chở hết hàng đi. Chủ kêu cô xuống ghe nấu cơm và chất xếp hàng hóa dưới khoang rồi ghe đi lúc nào cô không biết. Tới khi ra cửa biển, ghe nhảy sóng, cổ mới biết ghe đã xa bờ rồi.
Không biết người chủ phá sản giao hết hàng hóa và bán cô luôn hay là những người hung dữ trên chiếc ghe tải cướp hàng và cướp cô luôn…
Dù sao vựa khô cá của người chủ Triều Châu và ghe tải Hải Nam kia đều không phải là người thân của cô. Bọn họ không ai quan tâm tới cô nên trong lòng cô luôn khắc khoải và luôn tìm mọi cách trốn đi với hy vọng tìm lại được gia đình của mình hay ít nhất là tìm được một xóm làng người Việt để nương thân.
Ông Sư Từ lắng nghe với vẻ thương cảm. Ông hỏi ý mấy cặp vợ chồng ở chòm nhà cuối xóm thì mọi người đều đồng ý cưu mang cô gái này.
Mọi người cùng bàn việc dựng cho cô một căn nhà nhỏ trên mảnh đất gần nhà Hai Cự và giao cho cô chuyện đi bán cá tép cho năm nhà để cô có công việc mưu sinh.
Ông Sư Từ gọi cô gái tới, cho cô biết mọi người chấp thuận cho cô ở lại. Và ông giao cho anh Hai Cự chỉ huy anh em cất cho cô một cái nhà nhỏ để cô có chỗ ở.
Cô gái cúi gầm đầu che giấu những giọt nước mắt cảm động. Cô nói:
- Con mang ơn Sư Ông và anh chị xóm này suốt đời!
Công việc cất nhà được Hai Cự phân công nhịp nhàng và mau lẹ. Người đi đốn cây đước làm cột kèo, cây cóc làm đòn tay, cột phụ, nằm vách. Người đi đốn lá dừa nước, người chẻ lá, phơi lạt để lợp nhà, người thì chằm lá để dừng vách.
Xích Thốn là người không vướng bận gia đình mà lại có sức khỏe nhứt nên việc gì khó là giao cho anh làm. Tất cả những việc nhẹ dĩ nhiên “cô gái nhảy biển” vui vẻ làm vì cô làm căn nhà đầu tiên cho chính mình.
Xích Thốn đào một cái ao lớn để lấy đất đắp nền nhà, sân trước và sân sau. Công việc thật nặng nhọc mà anh làm một cách nhẹ nhàng, rồi trước thời hạn do Hai Cự giao phó.
Mọi thứ cây, lá, dây chạc đã được chuẩn bị sẵn sàng, ông Sư Từ coi ngày dựng nhà, tất cả đàn ông, đàn bà, con nít trong chòm nhà cuối xóm tập trung lại cùng làm.
Đàn ông dựng cột, đâm xiên, gác kèo, gác đòn tay, cặm cột phụ, giăng vách chỉ một ngày là xong, bữa sau thì lợp nhà.
Cánh đàn bà tề đầu lá, đưa lá, nấu cơm… Đám con nít kéo lá, đưa dây lạt và làm sai vặt cho người lớn.
Chỉ hai ngày là cuối xóm có một căn nhà lá mới mọc lên. Nhà cột cặm bằng cây rừng, thực chất cũng chỉ là một cái chòi lớn, chớ đâu phải như nhà cột kê ba gian, có đủ các loại cột cái, cột hàng nhì, cột hàng ba, xiên, trính và đòn dông nên không cần tới thợ mộc.
Đất làm nhà, cây lá, dây mây lấy ở rừng, không phải mua, công làm nhà thì ở miền đất mới này trừ những thợ làm nhà cột kê ba gian, thợ mộc làm bàn tủ ghế và thợ đóng ghe chuyên nghiệp mới ăn tiền công, còn cất nhà cây rừng, cột cặm hoặc làm những việc thường ngày khác chỉ là giúp nhau không ai ăn tiền công của ai.
Mọi người tới đây sinh cơ lập nghiệp đều là dân nghèo với hai bàn tay trắng, họ giúp nhau không tính toán, như anh em ruột thịt một nhà, chỉ tốn một chút ít chi phí mua dây kẽm, đinh là có một cái nhà để ở tạm vài mùa mưa nắng. Lá dừa nước lợp ba ly lá xé, xóc nóc kỹ cũng ở được bốn mùa mưa mới cần thay lá.
Dụng cụ để cất nhà và đồ dùng lâu dài như cuốc, xẻng, búa đẽo, dao phay, dao yếm, lu, khạp, thùng, thau, nồi niêu xoong chảo và chén dĩa với một số món linh tinh nữa thì ông Sư Từ biểu Xích Thốn lấy từ tiền công để dành từ mùa muối năm trước cho cô Pậu mượn đỡ, sau này cô Pậu làm trả dần. Dĩ nhiên Xích Thốn mau mau đồng ý, vì lỗi tại anh mà…! Cũng tại anh vớt cô này lên, đem về xóm.
Dĩ nhiên mọi chuyện không tên khác để hoàn chỉnh một căn nhà, cô Pậu đều nhờ Xích Thốn vì anh là người có nhiều thời gian, có sức khỏe, hiền, dễ sai bảo hoặc cũng có thể do ông Sư Từ có dặn anh trước.
Cô gái còn hỏi tiền anh mua một cây cân đòn, một cặp gióng gánh, vài cái cần xé để cô chuẩn bị chuyện mua bán.
Từ bữa đó, có một người siêng năng đi biển đẩy xiệp để cho một người luôn có đồ bán kiếm tiền...!
Cô Pậu bắt đầu gánh cá tép của mọi người ra chợ Bạc Liêu bán mỗi ngày. Cô biết cân đong và ghi chép tính toán nên việc mua bán cũng rõ ràng suôn sẻ.
Trong chòm nhà lá cuối xóm này chỉ có ông Sư Từ, anh Hai Cự và cô là biết chữ kha khá còn mọi người khác chỉ biết đọc, biết viết và tính rợ[13], không làm sổ sách được. Xích Thốn thì mù chữ hoàn toàn, ông Sư Từ dạy anh học bữa trước, bữa sau lại quên mất.
Tiền bán cá tép thu được mỗi ngày cô Pậu đem về đưa cho vợ chồng Hai Cự chia lại cho anh em. Phần của cô, cô nhờ Xích Thốn đem về gửi cho ông Sư Từ để trả lại số tiền ông chi ra làm nhà. Tuy nhiên Xích Thốn không nhận mà nói cô đem về nộp cho ông Sư Từ vì anh không biết tiền và cũng không thích cầm tiền.
Anh nhớ hoài hồi còn làm cu li bốc vác ở chợ, ngày nào lãnh tiền lương là ngày đó anh bị các tay anh chị tới bắt nạt, biểu đưa tiền cho họ hết… Có khi họ còn nói anh phải trả nợ cho họ vì họ đã cho anh tá túc dưới mái hiên chùa Ông Bổn này…
Xích Thốn sợ có tiền, đối với anh có cơm ăn no, có chỗ ngủ yên và ở gần người tốt là đủ. Hễ có tiền là có nạn liền…
Mọi chuyện như vậy tạm ổn.
Chòm nhà lá cuối xóm, ven bìa rừng bây giờ có năm căn nhà cũ, một căn nhà lá mới, một ngôi đình thờ Thần hoàng chưa có sắc phong, một ông Sư còn khỏe mạnh vừa là Sư vừa là ông Từ, năm anh em trong một gia đình nghèo, một anh dị hình dị tướng vô gia đình và một cô gái lạc cha mẹ nhảy xuống biển… Họ sống quây quần với nhau như một gia đình lớn, đùm bọc, chia sẻ cùng nhau mọi thứ. Chỉ cần một nhà có cây cưa thì nhà khác khỏi cần sắm thêm cưa, để tiền sắm cái búa… mượn qua mượn lại xài chung. Nhà này có cơm nguội thì nhà khác khỏi cần nấu thêm, kêu con nít qua xin và bưng luôn cái nồi dìa. Chị này đi chợ thì lùa con qua cho chị kia coi chừng và cho bú thép dùm, khỏi lo phiền hà, khỏi khách sáo câu nệ…
IV
Con kinh Giồng Me thẳng tắp ở giữa, một bên là rừng, biển, ruộng muối, còn một bên là đồng lúa với đủ loại cá đồng.
Cá đầy sông, muối, lúa đầy đồng, hai mùa mưa nắng đều có chuyện làm, đồ ăn không hết. Không có xuân, hạ, thu, đông, chỉ có hai mùa mưa nắng, không lạnh cũng không nóng, mỗi người hai bộ quần áo mỏng và một cái khăn rằn là đủ.
Đàn ông ở đây quen với sình lầy, nước mặn, muỗi mòng, nước da họ màu đồng săn chắc. Họ chỉ cần mặc một cái quần xà lỏn và một cái khăn rằn cũng đủ.
Khăn rằn đội trên đầu lội qua sông, lên bờ thì quấn khăn làm quần. Quần xà lỏn treo lên đầu gậy, đi một đoạn đường là khô, quăng bỏ gậy, bận quần vô, khăn rằn lại đội lên đầu làm nón hoặc làm túi xách, quảy tòn ten trên vai, đi phon phon qua nhà bạn nhậu.
Một miền đất dễ sống hạnh phúc nếu thích nghi và hiểu được đất, nước, sinh vật, con người nơi này.
Mùa gió nam năm đó biển trúng tôm cá đậm. Năm người đàn ông chòm nhà lá cuối xóm với Xích Thốn ngày nào cũng gánh xiệp ra biển. Chuyện trên đồng lúa thì giao cho đàn bà lo đắp bờ, giữ nước.
Cày bừa thì thợ cày dắt trâu tới. Họ ăn tiền công theo diện tích đất. Có thể trả bằng tiền mặt, hoặc thu lúa cuối mùa, thật tiện lợi. Chuyện cấy lúa có thợ cấy miệt trên xuống làm, chủ ruộng chỉ gieo mạ đắp bờ và coi nước thôi.
Sáu người đàn ông đi biển đẩy xiệp, một con nước nửa ngày về, tôm cá các loại thu được đầy khạ. Tiền kiếm được từ biển tính ra lợi nhiều hơn đi làm đồng. Năm người anh đem về mỗi ngày năm khạ cá tép, mỗi khạ trung bình ba mươi ký. Riêng Xích Thốn thì làm ở mực nước sâu hơn, miệng xiệp của anh lớn hơn nên anh được gấp đôi người khác. Tính ra mỗi ngày có bảy khạ cá tép đem về sân nhà cô Pậu, đổ đống được gần hai trăm ký.
Không thể gánh nổi nữa nên cô phải mướn xuồng chèo ra chợ bán. Bữa nào không đi chợ được do mưa nhiều và nước ngược thì cô chế biến tại nhà. Tôm tép thì cô luộc phơi làm tôm khô, cá thì trời nắng làm khô, trời mưa thì ướp muối hay làm mắm biển hoặc gom lại nhiều rồi chở ra chợ bán cho vựa.
Mọi công việc cũng gần giống như thời gian cô đi ở đợ nát lời[14] cho chủ vựa người Tiều. Bây giờ có khác hơn là cô làm cho cô và cho các anh em của mình. Công việc tùy thuận theo đất, trời, người, không lo sợ, không bị ai ép buộc mà còn kiếm được tiền để dành mỗi ngày. Cuộc sống thật vui vẻ như một giấc mơ đẹp.
Anh Hai Cự ra lệnh trích tiền bán cá tép mua một chiếc xuồng chở chừng năm mươi giạ, có hai cây chèo lái và một chèo mũi để cô Pậu chở hàng đi chợ mỗi ngày. Bữa nào ngược nước thì cử thêm một người chèo mũi, ba chèo đi nước ngược tốc độ của xuồng cũng bằng một chèo đi nước xuôi.
Xích Thốn cất thêm cái trại cặp mé kinh để che mưa nắng cho chiếc xuồng. Mưa khỏi lo ngập xuồng, trôi sạp, còn nắng khỏi làm nứt chai, xé nước đường hèm.
Cô Pậu vui lắm, thường bữa đi chợ về cô mua thêm trà lá, quà bánh, đường sữa cho cả xóm theo lời dặn của mọi người.
Ông Sư Từ và Xích Thốn không dặn cô mua gì, nhưng thường thì ông Sư Từ có trà và Xích Thốn có bánh kẹo để ăn với mấy đứa con nít.
Một bữa cô Pậu đi chợ đem về một cái miệng vó. Cô nói thấy dưới kinh có cá chốt, cá đối, cá chẽm nhiều, cô muốn làm một cái vó kế trại xuồng để bắt cá thêm cho mọi người có cái ăn trong những ngày mưa giông không đi biển được. Mọi người đều hoan hô ủng hộ ý kiến của cô.
Xích Thốn vô rừng đốn mấy cây cóc bằng cườm chân về làm cặp nạng vó, cầu và thang vó, còn cặp gọng thì đốn hai cây tre mỡ ở đình cho nhẹ. Anh còn cẩn thận làm thêm cái chòi kế trại xuồng để che mưa nắng cho người dỡ vó.
Nghề đặt vó trong kinh Giồng Me cũng chỉ có vài gia đình làm, vì việc này phải theo con nước. Nước lớn thì dỡ gọng lên phơi lưới, nước bắt đầu giựt ròng thì mới đặt vó tới nước ròng sát mới thôi, vài chục phút lại cất vó lên xúc cá một lần, nếu bỏ đi làm chuyện khác thì thời gian không đủ, mà ở lại ngồi canh vó thì hơi nhàm chán nên đàn ông thường không thích làm việc này. Họ coi đó chỉ là việc phụ kiếm thêm của đàn bà, con nít.
Xích Thốn lại thích làm vó, những con nước ròng đêm anh cũng tới đốt bếp, un muỗi, chong đèn, dỡ vó bắt cá tới khuya…
Cô Pậu thấy tội nghiệp nên nấu cơm, nấu cháo cho anh ăn đêm để có sức làm nhưng anh không vô nhà ăn. Cô cứ nấu xong thì để trên chiếc chõng tre ngoài hàng ba. Khi nào anh đói thì vô lấy ăn chứ anh không vô nhà và cô Pậu cũng không ra chòi.
V
Nhà cô Pậu cất xong hồi trước lễ Hạ điền, tới nay lúa đã trổ đòng đòng. Gió nam vừa hết, trời đang vào mùa gió lồng trung tháng Tám. Biển êm, cá tôm ra nước sâu hơn nên đẩy xiệp trong mé không có nhiều nữa.
Trên cánh đồng lúa xanh rì, bầy trâu cũng được chủ đưa đi cầm ở điền Tây Evra, tận làng Hòa Bình, trên đồng không còn cỏ cho chúng ăn, đâu đâu cũng toàn lúa trổ thơm ngát. Mùa lồng trung có thể nói là mùa ngư nhàn và nông nhàn. Mọi người được nghỉ xả hơi nửa tháng để lấy sức cho mùa gió chướng đi lưới biển hoặc dốc sức cho mùa gặt, mùa tát đìa trên đồng.
Thời gian rảnh này ông Sư Từ kêu Xích Thốn vác búa theo ông vô rừng cóc kiếm một miếng đất lập miễu thờ Bà Cậu, người khuất mặt khuất mày và oan hồn uổng tử trên vùng bãi hoang này để họ có chỗ khói nhang, nương dựa.
Trong thâm tâm ông Sư Từ thì “vạn vật hữu linh”. Đất, rừng, sông, biển, cây cối và muôn loài đều có tánh linh, có hồn thiêng. Những hồn thiêng này hòa quyện với trời, đất, người và muôn loài tạo nên cuộc sống với bao điều giải thích được và không giải thích được.
Đối với ông có ba điều quý báu nhất trên đời là Phật - Pháp - Tăng. Con người muốn hạnh phúc, an lạc cần phải quy y Tam Bảo, kính thờ Tam Bảo, còn các nhà Nho thì cho rằng ba yếu tố căn bản tạo nên tiểu vũ trụ của loài người là tam tài: Thiên - Địa - Nhân, đất trời là do các vị thần tạo ra và quản lý nên con người phải thờ phụng tôn kính…
Ông Sư Từ thấy những lời dạy đó không sai vì vậy ông mới chọn con đường xuất gia tu hành để cuộc đời ông kiếp này và kiếp sau tránh khỏi mọi thứ khổ sở, não phiền.
Tuy nhiên sau vài chục năm tu tập, sống với những người dân nghèo khổ, lưu lạc tới xứ này, ông nhận thấy một điều thực tế là những người dân hạ bạc đa số không có học. Họ ít chữ nhưng sống với nhau bằng cái nghĩa. Cái họ cần là cơm ăn, chỗ ở, có hàng xóm nương dựa nhau khi hoạn nạn, tối lửa tắt đèn… Họ ngưỡng vọng Tam Bảo nhưng họ không hiểu rõ Tam Bảo là gì. Họ tin vào Phật và Tăng nhưng họ không biết Pháp, khi rảnh và có chút tiền, họ cũng theo ông bà, theo mẹ đi chùa cúng dường và lạy Phật.
Nhưng ở nhà, họ thờ ông Thiên trước sân, bàn thờ ông Địa dưới đất và thờ Cửu huyền thất tổ chính giữa nhà.
Họ kính trọng tất cả các vị thần sông, biển, rừng cây, thậm chí là cá voi, nhưng thật ra họ không biết Đạo là gì.
Trong giai đoạn mới sinh cơ lập nghiệp, mọi người tới đây đều như nhau, tay trắng dựa vào nhau chống lại thiên tai, phòng thủ trộm cướp… Họ chỉ tin vào lời nói của ông bà, cha mẹ, những người lớn có uy tín, đạo đức chỉ dạy. Họ chỉ tin vào nhau, những người hàng xóm, những người lưu lạc đến đây mà không cần biết tên thật, quá khứ hay xuất xứ của nhau. Chỉ cần người đó không nói gạt, không trộm cắp, không tà dâm là được. Còn ai làm được điều nghĩa hiệp thì càng quý, mọi người sẽ tôn trọng và nghe theo người đó.
Trong cuộc đời ly hương, trôi dạt để tìm một quê hương mới, kiếm bữa cơm nuôi gia đình, có biết bao nhiêu người bạc phước đã bỏ mình nơi đất lạ.
Có xác trôi ngoài biển, có người té cây bỏ xác trên rừng, có người chết trôi sông, có người cảm mạo không thang thuốc, chết lặng lẽ trong chòi ruộng… Có biết bao nhiêu kiếp bần dân đi mở đất đã bỏ mình thầm lặng trên bãi hoang này.
Cũng có nhiều loài chúng sinh nữa góp thân, góp đời mình vào cuộc khai hoang mở đất này. Biết bao nhiêu động vật, thực vật đã sống, cống hiến và chết lặng lẽ để những bãi bồi nê địa, muỗi mòng, rắn rít này thành làng xóm, ruộng đồng...
Cây mắm trắng lấn biển ở thào lền, đầu ngọn sóng rồi sau đó là loài đước, vẹt, sú mọc ở vùng sình lầy giữ phù sa để nâng nền đất lên. Khi thịt đất chặt hơn, độ mặn giảm, cây đước, sú, vẹt không còn tốt nữa thì tới các loại chà là, cóc, giá… mọc lên để tiếp tục thuần thuộc đất, mở đường cho những cánh đồng lúa, vườn cây, làng xóm.
Biết bao nhiêu chim trời, cá nước và muôn thú trên vùng bãi hoang này đã góp cuộc sống của mình vào việc nuôi dưỡng con người và cải tạo đất…
Dân nghèo biệt xứ ly hương dựa vào nhau và dựa vào những sinh vật đó để tạo dựng nên cuộc sống mới ban đầu…
Ở ngoài chợ có chùa thờ Phật, trong xóm có đình thờ thần. Những người khai phá bạc phước và những chúng sinh bơ vơ đó chưa có nơi an trú, không có ai thờ cúng. Có thể do đời sống còn cực khổ quá nên người ta đã quên hoặc mặc nhiên coi những thế hệ tiên phong này có số phận hiu quạnh như vậy.
Ông Sư Từ luôn nghĩ tới những vị này, hàng ngày trong đình ông đều thắp nhang cho họ. Vạn vật hữu linh mà, một cái cây, một con cá, một con rắn trăm tuổi chắc chắn có tánh linh mà ông chưa hiểu được.
Vì những cảm thương đó, ông muốn lập một ngôi miễu để thờ những người, những vật vô danh thầm lặng này, như những bậc tiền hiền.
Đối với ông, có tới năm thứ quý cùng tạo nên thế giới này: Trời; Đất; Thánh thần; Người; Loài vật. Ông muốn lập miễu thờ năm ngôi này.
Ông Sư Từ và Xích Thốn lội qua mương Mười Ba lên khu rừng cóc. Mùa này rừng cóc đang từ màu xanh lác đác chuyển qua màu vàng úa tạo nên một cảnh đẹp thi vị bất ngờ… Phía cuối vạt rừng cóc, đất cao dần lên, có một cái gò nhỏ không ngập nước. Trên gò có một cây me chua đơn độc. Ông Sư Từ dừng lại và nói với Xích Thốn:
- Chỗ này thịt đất đã chặt rồi, độ mặn còn ít và nhiều đất sét nên cây me sống được, khoảng chục năm nữa thì đất này sẽ thuộc.
- Chỗ thịt đất chặt, có nhiều đất sét, mình có thể đào ao trữ nước mưa. Tuy nước không được ngọt nhưng cũng xài tạm được.
- Mình sẽ khẩn miếng đất này để dựng ngôi miễu. Trước thờ Bà Cậu, sau là giữ chỗ cho các loài ở đây sinh sống, đỡ bị người ta chặt phá, săn bắt.
Thì ra ông Sư Từ còn một ý nữa là muốn tìm một chỗ bảo tồn cho các sinh vật. Gần hai mươi năm đến sống ở đây, ông hiểu rõ, đất thuộc tới đâu thì con người theo tới đó. Họ chặt phá rừng, tận diệt muôn loài. Ông rất đau lòng…!
Ông tâm nguyện không vì lợi ích của mình mà xâm phạm tới cuộc sống của loài khác.
Tuy nhiên chỉ một mình ông thì làm được gì…!
Ông xuất gia, độc tu, không có bề trên để tôn kính, để vâng lời, không có kẻ dưới để chăm lo trách nhiệm. Ông ăn mặc làm sao, chỗ ở đơn giản thế nào cũng được. Chỉ lo một việc tu hành, sửa chữa bản thân mình và làm lợi ích cho dân làng.
Cuộc đời của ông thật đơn giản mà còn làm chưa xong. Người chung quanh ông có nhiều nỗi khổ, không lo nổi, không cứu được hà huống chi lo đến những cô hồn uổng tử ở xung quanh.
Vậy những người dân nghèo khổ tới đây lập nghiệp làm sao có thể dứt khổ được?!
Họ không có học, không có trí để hiểu được Phật pháp. Họ có cha mẹ già, có vợ và con thơ, phải lo cái ăn, cái mặc hàng ngày, còn có những năm tháng phải bồng chống nhau chạy trốn thiên tai địch họa nữa, làm sao và bao lâu nữa những con người này mới được an vui và hạnh phúc thật sự?
Ông Sư Từ chỉ tay về phía trước và nói nhỏ, hình như ông chỉ nói cho mình nghe, chớ không phải cho Xích Thốn nghe.
- Chỗ cây me sẽ cất miễu. Chỗ vạt rừng cóc này dành cho chim thú. Chỗ cái lung chà là kia thì cho các loài dưới nước sinh sống. Con đừng nuôi chó, mèo. Nó sẽ giành chỗ ở và giết các loài khác đang ở đây. Đừng tạo lối đi cho người và đường nước cho xuồng ghe vô đây. Họ vô được, họ sẽ phá và chở đi hết. Cứ để hoang như vậy, nhà muôn loài đang yên ổn, mình sẽ giữ nguyên như vậy.
- Ta sẽ ở đình thường xuyên để giúp người trong xóm. Con ở đây thường xuyên để giúp những loài vật nơi này. Con là Từ của miễu này…
Ông nói nhỏ hơn ở những câu cuối, có vẻ như ông không tin vào những điều mình nói và cũng không muốn Xích Thốn nghe được.
Xích Thốn cúi thấp xuống, cố nghe và hình như anh nghe rõ những điều ông Sư Từ vừa nói. Anh khẽ gật đầu:
- Dạ… dạ…
- Sau rằm tháng Tám mình sẽ dựng miễu ở đây. Ông sẽ trình với làng và với bà con ở xóm, kêu gọi mọi người góp công làm trước một ngôi miễu nhỏ. Con sẽ coi sóc và tu bổ sau.
- Ở đây con đi làm biển gần hơn ở đình. Có cái lung chà là nhiều cua cá, con nuôi cua cá, tỉa bán cũng kiếm đủ sống.
Ông và Xích Thốn trở về đình. Trên đường về, hai người im lặng đi bên nhau, ông Sư Từ có vẻ trầm ngâm tư lự.
Một ẩn ý nữa trong việc lập miễu này là ông ngầm tạo cho Xích Thốn một công việc mới, một cơ ngơi riêng biệt. Ông biết Xích Thốn thích hợp với đất này. Ở đây mới đủ rộng cho anh nuôi tôm cua cá, trồng rừng, đủ rộng cho anh đi lại, ăn ở, không phiền ai, đủ hoang dã cho tính cách hoang dã của anh...
Xích Thốn là một con thú hoang dã, chúa tể của các loài hoang dã khác trên bãi hoang này…
Anh cúi gầm đầu im lặng đi theo ông Sư Từ như một con trâu lớn, ngoan ngoãn đi theo cậu mục đồng nhỏ xíu đang nắm dây mũi của mình.
VI
Một mình Xích Thốn gánh một cặp cần xé lớn đủ các nồi xoong, khạp, hũ, búa bén với cây vá đào đất đi vô gò cây me trong rừng cóc.
Ngày đầu anh dựng một cái chòi lá gần gốc cây me, làm một cái chõng để có chỗ nằm. Anh đặt cái khạp da bò dưới gốc cây me rồi chặt một sợi dây mây dóc dài tuốt hết lá quấn quanh gốc cây để chặn nước mưa, dẫn đầu dây vô khạp. Nước mưa xuống tàng lá me chảy theo các nhánh sau đó nước gom về gốc me tới dây mây chảy theo đường dẫn vô đầy khạp.
Anh đắp đất làm thêm một cái bếp cà ràng rồi đốn mấy cây mắm khô và mấy cây đước “chết nhát”[15] đem về chòi làm bếp un, đuổi muỗi và giữ lửa nấu cơm.
Những ngày tiếp theo Xích Thốn đào một cái ao lấy đất làm nền miễu. Quả đúng như lời ông Từng Khạo ruộng muối nói, chỗ có cây cóc, cây me là thịt đất chặt và có nhiều đất sét, có thể đào ao. Dưới đáy ao và vách ao áo thêm một lớp đất sét là giữ nước mưa tắm giặt và tưới rau cải được.
Qua hai mùa mưa là nước sẽ khá ngọt. Chừng nào thả cá đồng và bèo trên ruộng sống được thì nước ao có thể ăn uống được. Mùa đầu chịu khó uống nước và nấu ăn bằng nước mưa dự trữ trong các lu hay thùng chứa bằng ván ghép, kiểu các thùng chứa của hãng nước mắm. Một cái thùng bằng ván đước kiểu này cũng chứa được cả khối nước mưa.
Sâu vô đám chà là dưới cái lung ngập nước, Xích Thốn phát hiện ra chỗ này là nơi tập trung của nhiều loài thủy tộc: cua biển, ba khía ở hang dưới gốc cây, ốc len trên thân cây và vô số cá tép lớn, nhỏ dưới nước… Trên ngọn chà là thì có nhiều loài chim biển làm ổ và ngủ trên đó. Đám cò, điên điển thì ngày đi ăn, đêm về ngủ, còn đám vạc, diệc thì đêm đi ăn, ban ngày về. Trên ngọn cây lúc nào cũng có vài con chim canh chừng. Mỗi khi Xích Thốn vô lung thì mấy con này kêu báo động, làm cho cả bầy náo loạn.
Lung chà là này có hai đường nước tự nhiên chảy luồn dưới các lùm bụi ô rô, cóc kèn, cây ráng và mây dóc, một đường chảy từ biển vào và một đường chảy quanh co ra kinh Giồng Me. Mương nước này có công dụng thay nước và cung cấp nguồn thức ăn cho các loài thủy tộc.
Xích Thốn mừng lắm, cái lung này là một ổ tôm cua cá bên trên lại có bầy cò vạc canh chừng báo động. Ông Sư Từ nói đúng, anh có thể sống no đủ ở khu đất này. Các loài nuôi dưỡng anh và anh bảo vệ lại chúng, hai bên cùng sống hòa thuận với nhau.
Nghĩ vậy anh quyết định sẽ làm một cái rạo[16] cây giữ hai đường nước, đắp thêm bờ, trồng thêm ô rô và cây bụi để bảo vệ cái lung trời cho này.
Mỗi ngày sẽ có một lượng tôm cua cá lớn lên, theo bản năng sẽ bỏ đi tìm nơi khác để phát triển theo luật cân bằng tự nhiên. Lượng di trú này sẽ vô hai miệng lưới nhỏ, đủ nuôi sống anh.
Những buổi tối ngủ lại chòi, Xích Thốn phát hiện có nhiều con chồn heo vô chòi của anh để ăn cơm dư trên bếp. Ban ngày anh còn thấy nhiều dấu chân chồn và hang chồn đèn ở các lùm bụi mà bầy cò lại ngủ yên, không nghe kêu tiếng lạ.
Vậy giồng đất và vạt rừng này đã hết rắn rồi, vì chồn đèn và chồn heo là sát tinh của loài rắn. Có lẽ tụi rắn đã đi qua bên kia lung chà là. Nghĩ vậy Xích Thốn thấy yên tâm hơn.
Sau rằm tháng Tám, trời bớt mưa, có mấy ngư phủ ở đoàn ghe đánh cá biển trở về, ông Sư Từ mượn được mấy người chở vật liệu, dụng cụ đã chuẩn bị sẵn, vô gò Cây Me dựng miễu.
Cây rừng và lá đốn tại chỗ, dây mây dốc, lạt cà bắp[17] cũng lấy tại chỗ. Công thợ mượn ở xóm cũng được hơn chục người. Các anh Hai Cự, anh Ba Phách, anh Tư Thắng, Tư Cò và Năm Mãi là chủ lực, các chị ở nhà lo con cái, heo cúi và giữ nhà. Đám con nít thì đứa nào vừa biết đi là biết lội luôn nên cũng không sợ tụi nó té sông chết chìm.
Cô Pậu gánh gạo đi thẳng vô chòi của anh, xuống bếp tự nhiên lấy nồi vo gạo nấu cơm. Không hiểu sao gặp nhau lần này Xích Thốn và cả cô Pậu đều thấy lúng túng, ngượng ngùng.
Xích Thốn bước vô chòi của mình mà tim đập thình thịch. Anh em trong xóm cũng thấy điều đó nhưng không ai dám chọc ghẹo hai người, có lẽ do có mặt ông Sư Từ. Ông Sư Từ cũng thấy sự bẽn lẽn của hai đứa… Ông đi ra ngoài nhìn trời và bỗng dưng thở dài…
Độ một tuần thì ngôi miễu nhỏ được làm xong. Ngôi miễu nối liền với căn chòi của Xích Thốn thành một căn nhà ba gian tươm tất. Căn trước làm miếu thờ, căn giữa không vách chỉ có mái che làm cầu nối với chòi của Xích Thốn gọi là nhà giữa, căn sau là chòi của Xích Thốn sửa lại, làm nhà bếp và chỗ ngủ, cạnh bếp là một cái chái chất củi, nước uống và các vật dụng khác. Mọi thứ xem như tạm đủ.
Một ngôi miễu nhỏ hình chữ công giữa rừng cóc đang vàng lá chuyển mùa. Dưới nền đất gò, một thảm rau sam phủ xanh mát mẻ, lấp ló những cọng màu nâu thẫm, điểm vài nụ bông vàng.
Không ngờ trên bãi hoang này giữa màu xám của sình, nước phù sa và một màu xanh thẫm đơn điệu của rừng ngập mặn lại có một gò đất đẹp với những thân cây cóc thẳng, lá úa vàng.
Tháng tới rừng cóc trổ bông, gò Cây Me sẽ còn đẹp hơn nữa, những chùm bông cóc vàng và bông đỏ của giống cóc đỏ xen lẫn trên tán những thân cây khẳng khiu, dáng đẹp như một cánh rừng thu của miền đất xa lạ nào đó trong tranh ảnh.
VI
Đầu tháng Chín, ông Sư Từ chọn ngày cúng thượng trang cung nghinh Bà Cậu và những người khuất mặt khuất mày. Trang thờ do ông Sư Từ và Xích Thốn tự tay làm, trụ bằng cây rừng, ván lót trang thờ là mấy tấm ván be của chiếc ghe biển xấu số nào đó trôi dạt vào bờ. Lư hương, nhang đèn, chuông mõ được ông Sư Từ đem từ ngoài đình vào, cô Pậu sáng gánh gạo, khoai chuối vào nấu đồ cúng, chiều trở về xóm.
Ông Sư Từ và Xích Thốn ngủ lại miễu. Ông tụng kinh năm ngày năm đêm cung thỉnh năm Ngôi vào an trú trong miễu.
Ngày thứ nhất, ông Sư Từ cùng Xích Thốn gánh hai cần xé các thứ đồ đạc cần thiết cho lễ thượng trang trong năm ngày đêm tại miễu.
Hai người đi cặp bờ kinh, ngang nhà cô Pậu, cô gánh gạo tháp tùng theo. Ba người đi hết đường bờ kinh, quẹo trái đi vô đường mòn, qua đám ráng lớn rồi lội qua một cái mương nhỏ tới một đám dớn xanh mượt gồm nhiều cây ráng lùn, dương xỉ đất, mây dóc và dây choại mọc chen chúc đan xen nhau, rối rắm như một đám dây bòng bong, dây cứt quạ chen lấn trong đám bồn bồn ở miếng biền sau đình. Khung cảnh thật bình an!
Ba người qua hết đám dớn thì tới vạt rừng cóc thưa, ông Sư Từ kêu Xích Thốn và cô Pậu ngừng lại nghỉ chân, ông nói với Xích Thốn:
- Con lựa đốn vài cây cóc làm cầu qua con mương hồi nãy, cho tiện việc đi lại.
Xích Thốn dạ lớn và nói:
- Chiều nay con gác cầu luôn, cho cô Pậu dìa khỏi ướt đồ.
Trời tháng Chín phe phẩy ngọn gió đông bắc mát dịu trên mặt của ba người, rừng cây lay động, một con chim khách đen đuôi dài, chóp đuôi hình đuôi cá, đôi mắt xanh biếc với hàng lông mi cong vút, lượn trên đầu ba người rồi bay lên ngọn cây, kêu tiếng chào khách vang dội.
Họ tiếp tục len lỏi theo lối mòn, luồn trong vạt rừng cóc một đỗi, bỗng dưng trước mặt họ một khoảng sáng quang đãng hiện ra, một bãi rau sam xanh ngát, lá nhỏ dài điểm xuyết những đóa hoa màu vàng nho nhỏ trên những thân rau màu nâu tím, tạo thành một bức thảm đẹp trải trước ngôi miễu nhỏ trang nghiêm đơn độc giữa rừng.
Đường đất từ đình Giồng Me tới miễu khoảng gần một giờ đi bộ. Với người dân vùng này thì một giờ đi bộ trên đường đất không có gì mệt mỏi. Trong việc làm muối, làm biển, làm ruộng thường nhật, họ phải gánh vác và đi bộ trên đường đất sình lầy hay ngập nước khoảng hai mươi cây số là chuyện thường, ai cũng có thể làm được.
Ba người đem đồ đạc vô miễu, liền chia nhau làm việc, ông Sư Từ và Xích Thốn lo bày biện đồ cúng, lư hương lên năm cái trang, thờ ngũ bảo của dân hạ bạc. Theo ông Sư Từ, năm ngôi báu liên thông và ảnh hưởng trực tiếp tới sự sinh tồn, phát triển của mọi người là: Trời; Đất; Thánh thần; Người; Loài vật.
Mặc dù trong lòng nghĩ vậy nhưng ông Sư Từ giải thích với dân trong xóm là năm trang thờ năm Thượng đẳng thần Ngũ Hành Nương Nương gồm: đệ nhất Kim Tinh Thần Nữ, đệ nhị Mộc Tinh Thần Nữ, đệ tam Thủy Tinh Thần Nữ, đệ tứ Hỏa Tinh Thần Nữ, đệ ngũ Thổ Tinh Thần Nữ.
Năm Bà Chúa này quản lý mọi ngành nghề liên quan tới cuộc sống của mọi người.
Cô Pậu lo nấu đồ cúng cho kịp buổi cúng ngọ. Đồ cúng gồm nhang đèn, trà quả, được xếp đặt ngay ngắn, gồm một mâm cơm chay với các thứ bầu mướp, rau cỏ, trồng ở đình và một nồi kiểm[18]. Ngoài sân miễu có một bàn ông Thiên là một miếng ván hình chữ nhật, được đẽo gọt sạch đẹp, đính trên thân cây cóc rừng chừng cườm chân người lớn. Phía dưới bàn Thiên là cái ly hương thờ Thổ địa.
Ông Sư Từ đốt nhang rồi chia cho Xích Thốn và cô Pậu, biểu hai đứa đi theo sau lưng ông dâng hương hành lễ. Ông kêu Xích Thốn đứng kế ông để học, còn cô Pậu thì đứng xa hơn làm tín chủ, ông kêu gì làm nấy, ông gõ chuông thì quỳ xuống lạy.
Ông Sư Từ thực hiện các nghi thức cho việc thượng trang xong, ông kêu Xích Thốn và Pậu đi nghỉ trước. Ông ngồi lại tụng một phẩm kinh Phổ môn cầu ngài Quán Thế Âm phù hộ cho mọi người.
Buổi cúng thượng trang hoàn mãn, mâm cơm cúng được dọn xuống gian giữa, ba thầy trò cùng ngồi ăn, gió thiệt mát.
Sau giờ nghỉ trưa, Xích Thốn và Pậu lấy cuốc, vá ra trước sân miễu lên hai cái liếp trồng rau cải và đậu để dành ăn Tết.
Lên liếp xong, Xích Thốn để Pậu vô phân, xuống giống, anh vác búa đi vô rừng kiếm củi khô. Ông Sư Từ trong miễu sắp đặt lại bàn thờ và chỗ ngủ cho ông và Xích Thốn, ông sẽ ở lại đây năm ngày đêm để tụng kinh cho miễu được ấm áp thanh tịnh.
Độ chừng nửa tiếng sau, Xích Thốn vác về một vác nhiều cây chết khô gồm một cây mắm, năm cây cóc, một cây đước. Tất cả đều khô và được trải nhánh sạch sẽ. Vác cây trên vai Xích Thốn có thể nặng gần hai trăm ký chứ không ít.
Anh này mạnh khủng khiếp, muối vác một vác sáu giạ, lúa vác một vác ba bao mà vẫn bước vững vàng. Bởi vậy anh ăn cũng gấp ba lần người thường.
Quăng bó củi xuống đất, Xích Thốn vô nhà lấy cây cưa cá mập ra, xóc cự, gác cây lên, cưa củi liền. Cây mắm khô, cắt củi đòn và đòn đôi để un muỗi. Còn cây cóc và đước thì cưa củi miểng19, để chẻ chụm lò cà ràng, nấu cơm hàng ngày.
Hai đứa đem củi miểng chất vào cự sau bếp để khi rảnh thì đem ra chẻ. Mấy khúc củi đòn và củi đòn đôi[19] để gần bếp un giữa nhà. Xích Thốn xếp đầy một gióng củi miểng cây đước cho cô Pậu chiều gánh về.
Ông Sư Từ ăn chay, ông chỉ ăn một buổi trưa, buổi chiều ông không ăn mà chỉ uống một tô nước cơm chắt. Ông nói vui với Xích Thốn:
- Ông đâu có làm gì nặng nhọc đâu mà ăn nhiều. Ông ăn một bữa là đủ, ông nhường cơm lại cho tụi con ăn để có sức.
Xích Thốn tưởng thiệt, cảm động chớp chớp đôi mắt trâu nghé hiền lành của nó.
Trong lung chà là có nhiều cua biển, Xích Thốn lúc đi kiếm củi bắt về hai con cua kình càng, cô Pậu hái rau sam rồi đi luộc. Con cua chín đỏ vớt ra, bỏ rau sam vô nồi, nêm chút muối là thành nồi canh rau sam, thơm ngọt.
Ông Sư Từ giải thích:
- Rau sam là thứ sâm đất. Ông thường hái rau sam phơi khô làm trà uống, ngon và tốt cho sức khỏe.
Cơm chiều xong, cô Pậu thưa ông Sư Từ đi về xóm. Xích Thốn vác hai cây cóc và quảy gánh củi khô tiễn cô Pậu ra tới đám dớn bìa rừng. Anh ghép hai cây cóc gác qua mương nước theo lời Sư Từ dặn hồi sớm, cẩn thận quảy gánh củi qua cây cầu mới làm rồi đặt gánh xuống, anh nói lí nhí:
- Cô dìa đi… tui dìa.
Cô Pậu bỗng dưng cũng thấy lúng túng, buộc miệng nói một câu thừa:
- Mơi tui dzô, khỏi lội nước gồi…
Vậy mà câu đó cũng làm Xích Thốn mát tận ruột gan.
Vạt rừng thật im ắng, nắng tháng Chín vàng nhạt, buổi chiều nhẹ buông.
Ông Sư Từ đút khúc củi đòn đôi vô bếp un. Cây mắm khô là một loại củi un muỗi tuyệt vời nhất. Củi mắm nhạy bắt lửa, khi cháy rồi thì giữ lửa thật bền, chừng nào cháy hết cây thì thôi, chớ không tắt ngang, cứ liu riu cháy hoài không lên lửa ngọn, khói nhiều nhưng không làm cay mắt. Có thể trong cây mắm có một chất gì đó chống muỗi hiệu nghiệm hơn những loại cây khác mà ông chưa biết tới. Tuy nhiên chỉ hai công dụng un muỗi và giữ lửa là củi mắm đứng hạng nhất trong rừng ngập mặn, còn làm nhà, làm củi nấu cơm canh, cây mắm là hạng bét.
Ai ở trong rừng ngập mặn cũng biết củi đước là củi nấu cơm tốt nhất dù rừng đang mưa, chỉ cần hạ cây đước xuống cắt khúc, đập vỏ chẻ nhỏ là nhúm lửa cháy ngon lành, không cần phơi khô. Cây đước thịt chắc và có dầu nên nhạy lửa.
Mỗi ngày ông Sư Từ tụng ba thời kinh, một thời kinh khuya lúc bốn giờ sáng, một thời kinh ngọ giữa trưa và một thời kinh chiều.
Ở rừng vào mùa mưa, muỗi và bù mắt cứ chạng vạng là đổ ra. Có khi một đám bù mắt bay qua như có ai vẩy cám vàng vào không khí vậy. Còn muỗi thì nghe hơi người là chúng bu lại, đưa tay chụp một cái là dính một hai con trong lòng bàn tay.
Ông Sư Từ đem theo mùng mền cho ông và Xích Thốn, ông còn cẩn thận đem theo hai cái nóp để lót lưng và dự phòng. Khi bù mắt nhiều, chui lọt lỗ mùng thì ngâm nóp cho ướt, sợi cỏ bàng nở ra là bù mắt không chui vô nóp được. Nóp là một cái túi ngủ bằng cỏ bàng, chống bù mắt hiệu quả hơn mùng, nhưng khi ngủ nóp thì ngộp và nực hơn ngủ mùng.
Chiều nay ông Sư Từ tụng kinh sớm để tránh giờ muỗi bay ra. Ông tụng một phẩm Đà La Ni trong đại kinh Diệu Pháp Liên Hoa để chư Phật, Bồ tát bảo vệ cho ông và Xích Thốn khỏi bị ma quỷ phục hại.
Chỗ hoang vắng này âm khí nhiều, ông cũng thấy rờn rợn trong thời khắc chuyển đổi giữa ngày và đêm, giữa dương và âm… hình như có những chiếc bóng người di chuyển mơ hồ đâu đó.
Xích Thốn thì vô tư như một đứa con nít mười tuổi hay như một con trâu về chuồng sau một ngày cày bừa. Anh nằm trên cái nóp trải trên cái chõng tre, ngủ khì.
Ông Sư Từ đốt nhang buổi tối khắp các trang thờ. Ông thắp một cây đèn dầu dừa trên miễu và một cây nữa dưới nhà gần hai cái chõng của ông và Xích Thốn.
Trong xóm đốt đèn dầu dừa là phổ biến vì giá dầu dừa rẻ hơn dầu phộng, dầu mè hay dầu cá, mỡ heo… Dầu mù u cũng đốt đèn được nhưng đi vớt trái mù u về, đập lấy hột, thắng dầu cũng cực công và được ít hơn dầu dừa. Còn dầu chong, dầu chai ở miệt ngoài đưa xuống mắc hơn dầu dừa nhiều.
Dầu lửa đỏ để đốt đèn ông cóc cũng khó mua và không rẻ. Riêng dầu lửa trắng dành cho đèn Huê Kỳ và đèn măng xông là loại cao cấp nhất. Dân xóm nghèo không hưởng phước đó được.
Ông Sư Từ thắp hai dĩa đèn dầu dừa, chụm thêm củi vào bếp un rồi kêu Xích Thốn dậy giăng mùng ngủ. Hai cái mùng đem ngoài đình vô vá chằng vá đụp cũng giúp hai thầy trò ngon giấc.
Ba giờ sáng ông Sư Từ dậy công phu khuya. Bếp un vẫn còn nghi ngút khói, củi mắm un muỗi thật tuyệt vời. Tụng xong, ông đặt ấm nhôm lên bếp un nấu nước pha trà rau sam phơi khô. Ông ngồi uống một mình, Xích Thốn vẫn còn ngủ say sưa.
Khu miễu Gò Me xa xóm nên đã gần canh năm mà không nghe tiếng gà gáy hay một tiếng trống sang canh nào. Gió chướng non từ hướng biển thổi vào lay động trên mái lá, ông Sư Từ biết đầu ngọn gió là hướng đông, là hướng sao Mai mọc. Sao Mai mọc thì một giờ sau là mặt trời mọc.
Những con vạc đi ăn đêm đã lần lượt về ngủ trên ngọn cây trong lung chà là. Tiếng kêu quạc… quạc… quạc… của chúng đánh thức bầy cò, diệc và các loài chim khác lao xao thức dậy. Con chim sẻ quạt giựt mình trở giấc, cất tiếng kêu chẹt… chẹt…
Ông Sư Từ ngồi im lặng trong bóng tối nghĩ ngợi miên man. Ông tới vùng đất này cũng lâu năm rồi, từ ngày đầu thành lập tỉnh Bạc Liêu, tháng Giêng năm 1900 thầy của ông biểu ông:
- Con xuống miệt Bạc Liêu hoằng pháp, hóa độ dân nghèo tứ xứ mới tụ về đây. Đất này còn hoang vu, người Miên và người Minh Hương ở lâu rồi nên chùa Miên và chùa Minh Hương đều có nhiều, chỉ có chùa Phật và đình của người Việt còn ít. Miệt này không đủ thầy lo đời sống tinh thần cho dân chúng.
Ông nghe lời thầy, chuẩn bị một năm học thêm nghề thuốc, coi ngày cưới hỏi, chôn cất, khai trương… học một chút võ thuật, một chút nghề làm tương chao, may vá...
Chuyện đời bổ sung cho chuyện đạo vì một ông Sư tới ở vùng đất xa xôi hoang dã cần phải biết đủ mọi thứ để giúp người và tự lo cho mình.
Những người tiên phong tới đây hầu như không biết chữ và không có tài sản gì. Họ chỉ có lá gan và cơ bắp, tranh đấu với thiên nhiên để tồn tại và kiếm miếng ăn, chỗ ở cho mình và vợ con. Họ dựa vào nhau để sống, không cần hỏi xuất xứ, không cần phân biệt chủng tộc, dòng họ hoặc thuộc phe phái nào.
Tất cả về đây là quên hết, bỏ lại sau lưng quá khứ, không còn quê quán, không còn gia phả, không còn suy xét những chuyện xa xưa để lòi ra ông của tui là quân của Gia Long và ông của anh là quan tướng của Quang Trung… càng thêm phiền! Tất cả đều đi kiếm cái ăn và đất ở với vốn liếng là hai bàn tay trắng và một lá gan nâu bầm dập đội trên đầu, ngoài ra họ không có gì hết.
Kinh nghiệm sống thì học từ ông già, bà cả. Chuyện đối xử ăn nói, dạy dỗ con cháu, học theo lời cô bác. Nghề đi rừng, đi biển, săn bắt, làm ruộng học từ cha, anh. Việc bếp núc, sắp xếp nhà cửa học từ mẹ, chị. Họ hàng, dòng tộc là lối xóm láng giềng, có chuyện thì cùng nhau làm, không cần tính tiền bạc.
Những chuyện tâm linh khác thì giao hết cho ông Từ trong đình và ông Sư trong chùa giải quyết…
Sư Từ khi xuống đất Bạc Liêu thì ở chùa của sư huynh ngoài chợ để làm quen, tìm hiểu dân tình và nghiên cứu thêm về các tôn giáo, tín ngưỡng khác trong tỉnh. Tới năm 1914, khi người Pháp cho xáng thổi đào kinh xáng Bạc Liêu - Cà Mau, họ nắn lại và mở rộng dòng chảy của con sông Mỹ Thanh và Gành Hào.
Những bãi đất cao hai bên bờ kinh do xáng thổi lên khô cứng thì ông tới xóm Giồng Me này và lâu sau dân tứ xứ tới dựng nhà ở ngày càng đông.
Con kinh Giồng Me được đào từ cánh rừng cóc trong vùng bãi hoang, đấu nối vào kinh xáng Bạc Liêu, phục vụ cho việc mở rộng ruộng muối bên trái và ruộng lúa bên mặt. Dân nghèo kéo về dựng nhà ở hai bên bờ kinh thành xóm, thành làng.
Đầu vàm là xóm Cầu Kè, nối tiếp là xóm Giồng Me. Cuối xóm Giồng Me, người ta dựng một cái đình cho người đi rừng, làm muối, làm ruộng có chỗ nghỉ chân và cũng để thờ Thần hoàng cùng các tiền hiền khai mở đất này. Tuy nhiên vì đất mới nên tiền hiền và Thần hoàng đều chưa có, thủ Từ cũng chưa có ai làm nên mỗi khi hữu sự, người dân đều phải ra chùa lớn ngoài chợ rước thầy.
Sư trụ trì chùa lớn thấy dân Giồng Me có tín tâm và có nhu cầu nên bàn với ông Làng tiến cử sư đệ mình làm Thủ Từ trông coi đình. Tuy nhiên vì ông là tu sĩ nên ông vẫn thờ Phật và tu tập theo đạo Phật.
Vậy là ông Sư Từ về đình Giồng Me ở đến nay. Người dân gọi ông là Sư Ông hay ông Sư cũng được. Có người gọi ông là thầy, Làng thì gọi là ông Từ, người dân không biết đạo Phật thì gọi là ông Sư Từ.
Ông chỉ cười hiền hòa và im lặng vì tất cả đều đúng, ông là ông Sư mà cũng là ông Từ.
Đất bờ biển Bạc Liêu mỗi năm lấn ra Biển Đông từ năm mươi thước đến một trăm thước. Ông ở đây nhiều năm, ông đã chứng kiến điều đó. Rừng mắm trắng ở bãi thào lềnh dưới biển chỉ vài năm là nhảy lên bờ, thay bằng rừng đước, thào lềnh thì thành bãi sình, mười năm nữa bãi sình chỉ còn ngập khi nước chánh rong, mỗi tháng vào ngày mùng ba và mười tám âm lịch.
Đất cao lên, thịt đất chặt lại, cây đước trở nên cằn cỗi, các trang đước không phát triển nữa. Cây cóc, cây giá, bần, chà là, tra lâm vồ và lùm bụi mọc lên trên đất trung gian. Mười năm sau nữa, đất hơi thuộc, rừng cóc thay bằng vườn cây nước lợ, chuối, khế, chùm ruột, ổi, mận… còn đất bãi lầy mé biển ngày càng lấn xa ra Biển Đông.
Tháp cổ ở làng Vĩnh Hưng, ông nghe nói hồi xưa nằm ngay bờ biển, nhưng bây giờ lại nằm sâu trong đất liền, xa bờ biển hơn cả chục cây số.
Ông Sư Từ uống từng hớp nước lá sam suy nghĩ bâng quơ, không biết rồi hết đời ông, hết đời Xích Thốn thì bờ biển Bạc Liêu sẽ ra tới đâu… Cái miễu ở gò Cây Me này chắc sẽ cách bờ vài cây số… Rồi một trăm năm, năm trăm năm, một ngàn năm nữa bờ biển sẽ ở đâu?
Chỗ ông ngồi uống lá rau sam bữa nay sẽ cách bờ biển bao xa…!
Ông thở dài đứng dậy đi ra cửa, Xích Thốn vừa ngồi dậy, mặt trời vừa mọc lên trên mặt biển.
Ông Sư Từ hiền hòa nói:
- Sao Mai mọc, ông dậy. Mặt trời mọc, con dậy… Ngày nào cũng ráng siêng năng giữ đúng như vậy nghe con.
Bản đồ hạt Bạc Liêu (năm 1896) với đường bờ biển.
VII
Ông Sư Từ bước ra trước sân miễu hít thở không khí bình minh, hai con chim sẻ quạt vừa kêu chẹt… chẹt…, những tiếng kích động, vừa dang cánh, xòe đuôi ra như cái quạt đen điểm trắng nhỏ xíu, nhảy múa trên liếp đất hôm qua Xích Thốn và cô Pậu mới làm. Có lẽ hai con sẻ quạt vừa tìm thấy trùn đất.
Xích Thốn ra bờ ao mài lại cây búa bén và cây dao phay, hôm qua cô Pậu dặn anh. Anh cũng sửa lại cây cuốc và cây vá đào đất, đồ nghề yêu thích của mình.
Bữa nay Xích Thốn sẽ đào mương nước và đắp một cái bao ngạn xung quanh đất miễu. Công việc này một mình anh làm một tuần là rồi, nếu không bị cô Pậu sai lên liếp trồng rau.
Kệ! Đào mương dẫn nước và làm bao ngạn bao lâu rồi cũng được, ưu tiên việc lên tiếp trồng rau để kịp có rau, có đậu ăn Tết.
Xích Thốn vô nhà vo gạo nhóm lửa nấu cơm, cô Pậu tới sẽ nấu đồ ăn và đồ cúng. Nồi cơm chưa chín thì cô Pậu đã tới sân miễu. Cô gánh một cặp cần xé, đi cửa sau vô nhà. Một đầu gióng là gạo, rau dưa, khoai, củ và một mớ cá hủng hỉnh đủ thứ mà cô đặt vó bắt được đêm qua. Đầu gióng kia là một cặp chó con, giống chó trụi, cô xin của vợ chồng anh Hai Cự.
Cô Pậu hào hứng nói:
- Hia Hai Cự nói giống chó này không có lông, chỉ trên đầu và chóp đuôi là có một chùm lông màu vàng. Tuy loài chó này xấu xí nhưng bắt chuột, bắt rắn rất giỏi, lại biết tự kiếm ăn nên tui xin về cho Hia nuôi làm bạn chơi và coi chừng rắn rít.
Ông Sư Từ nhìn cặp chó con, nhìn Xích Thốn rồi quay qua cô Pậu ôn tồn nói:
- Chiều nay con gánh củi về, con đem cặp chó về luôn. Ở đây mình ở nhờ đất của Bà Cậu và các loài chim thú, rắn rít… Họ đã sống ở đây từ lâu, đất rừng, lùm bụi, kinh, mương là nhà của họ, mình là khách mới tới, mình tôn trọng, không được lấn chiếm và quấy rầy cuộc sống bình yên của họ. Mình không làm hại họ thì họ cũng sẽ tôn trọng và không làm hại mình. Chó mèo theo bản năng, chúng sẽ săn bắt đuổi giết các chủ đất, chủ nhà ở đây.
- Mình tới ở đây, phải sống hòa với chủ đất. Tụi con chỉ được nuôi thêm cua cá, trồng rau đậu đủ ăn thôi. Con chỉ được bán những thứ con làm ra, còn bắt tôm cua cá để ăn nuôi thân mình hay chặt một cái cây rừng để làm nhà là con vay mượn trước của người ta để sống, sau đó con phải nuôi lại một con khác và trồng một cái cây khác để trả lại.
Xích Thốn và cô Pậu đực mặt ra nghe. Có thể hai đứa không hiểu hết những gì ông Sư Từ nói nhưng tụi nó tin lời ông và tin vào Bà Cậu.
- Dạ…, tụi con nghe lời Sư Ông dạy. Sư Ông là cha của tụi con, Bà Cậu và loài vật ở đây là người ơn của tụi con.
Buổi trưa, ba thầy trò dọn bàn cúng ngọ, Xích Thốn cũng đứng kế bên học việc, còn cô Pậu thì quỳ ở dưới làm tín chủ. Nghe Xích Thốn đánh chuông thì cô quỳ mọp lạy. Bữa nay ông Sư Từ cúng thánh thần vùng bãi hoang này. Ông cúng thần Đất, thần Biển, thần Sông, thần Rừng, thần Sấm Sét, xin các vị thần phù hộ người dân.
Hai đứa bữa nay hơi quen việc. Sau buổi cúng ngọ, Xích Thốn xách vá đi đào mương làm bao ngạn, cô Pậu đi làm bầu đất, ươm hột giống. Ông Sư Từ đứng trước hàng ba miễu, ông treo cái bảng bằng ván có ba chữ miễu Ngũ Hành lên trước cửa chính của miễu và nghĩ cách làm linh vị cho năm vị Chúa Bà đặt trên trang thờ cho rõ ràng minh bạch.
Treo cái bảng tên miễu xong, ông thừ người lan man nghĩ tới thuyết ngũ hành với năm cặp ngũ hành tương sinh và năm cặp ngũ hành tương khắc. Ngũ hành tương sinh gồm: kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim. Ngũ hành tương khắc là kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim. Ông sẽ sắp xếp lại đồ vật, bếp núc, kho đồ dùng, chỗ ngủ, lu nước… cho hợp lý, cho mọi thứ được tương sinh.
Ông chợt nghĩ tới Xích Thốn, anh là người có hình mộc, cao đen, lộ xương, giọng nói ồ ồ. Cô Pậu mặt tròn, da vàng sáng, tay chân, thân hình liền lạc, trông chắc khỏe thuộc hình thổ. Theo ngũ hành thì mộc khắc thổ là tương khắc. Mộc nhờ vào thổ và làm suy yếu thổ đi. Nếu hai đứa này tác hợp lại thì thằng mộc nhờ vào con thổ, hai đứa cũng sẽ lận đận.
Tuy nhiên đời người thì “đức năng thắng số” thôi.
Thời kinh chiều, ông tụng một mình để cho hai đứa nhỏ có thời gian làm việc của tụi nó. Bữa nay ông khấn thánh thần trên vùng bãi hoang này phù hộ cho người dân được no ấm, yên ổn làm ăn.
Ăn cơm xong, Xích Thốn nựng nịu hai con chó trụi. Hai con chó này chưa mọc chóp lông đầu, chúng đen thui và trụi lủi giống như hai con chuột xạ con, chưa mở mắt. Xích Thốn có vẻ lưu luyến hai con chó vì tụi nó cũng đen thùi như anh.
Xích Thốn xếp củi vô hai cần xé và đưa hai con chó nhỏ cho cô Pậu. Cô đón lấy rồi từ giã ông Sư Từ, tiu nghỉu gánh cặp cần xé về.
Rạng sáng ngày thứ ba, ông Sư Từ lại ngồi một mình pha trà rau sam uống. Ông nghĩ về những người đầu tiên tới vùng đất này, những bậc tiền hiền vô danh, không tên họ, ai đã đặt bước chân đầu tiên lên vùng nê địa này, để bây giờ thành xóm thành làng, cho bao thế hệ người sau có nhà ở, có đất canh tác.
Ông kính trọng và biết ơn họ đã để lại cho muôn ngàn người dân nghèo có đất sống hôm nay và ngàn năm sau. Ông thờ những bậc tiền hiền vô danh này trên trang thờ thứ ba, chỗ vị trí ghi là Thủy Tinh thần nữ Thượng đẳng thần.
Buổi sáng sớm trời mưa nhỏ, không khí ẩm ướt và mát mẻ. Đám mưa đã tắm gội cho vạt rừng cóc mới thay lá, những chiếc lá non trắng mượt lấp lánh dưới ánh mặt trời, tạo thành một cảnh đẹp lạ lùng hiếm thấy trên vùng đất này.
Hôm nay cô Pậu cũng tới đúng giờ, cô đem theo khoai lang, chuối và mấy trái mãng cầu xiêm để cúng.
Cô hỏi ông Sư Từ:
- Thưa Sư Ông, mình ăn mãng cầu xiêm rồi lấy hột trồng chung quanh miễu này được không?
Cô Pậu ở vựa cá khô với chủ người Tiều mười năm nên cô cũng quen thưa dạ. Còn Xích Thốn thì nói chuyện trống không, không biết thưa gởi gì hết, dù anh hết sức kính trọng Sư Ông và những anh chị trong xóm.
Sư Từ cười hiền hòa nói nhỏ nhẹ với cô Pậu:
- Con trồng mãng cầu xiêm và trồng thêm chuối nữa cũng được, mấy loại cây trái đó không làm hại tới chim thú ở đây. Con trồng hai thứ đó vừa có đồ cúng Bà Cậu, người qua lại cũng được ăn.
Cô Pậu mắt sáng lên, cô liên tưởng tới nhiều giống cây khác có thể trồng được trên vùng đất mới này. Đắp gò cao, xả mặn, thêm nhiều phân lá, là cây ăn trái có thể sống được, dù không tốt như trồng trên đất thuộc bên đình nhưng cũng có trái ăn.
Bữa nay cũng vậy, hai đứa làm việc bên ngoài, ông Sư Từ cúng ngọ trong miễu. Ba thầy trò ăn cơm xong chia nhau ra tiếp tục công việc dở dang ngày hôm trước.
Hơn một giờ sau, Xích Thốn hớn hở tới kiếm ông Sư Từ:
- … Ờ … ờ… gặp cái hang chồn dưới đường nước chỗ con mới đào, chồn cha, chồn mẹ chạy mất để lại bốn con chồn con, Sư Ông tính sao?
- Chồn gì con biết không?
- Dạ chồn đèn, mấy con này mới mở mắt.
Ông Sư Từ suy nghĩ một chút rồi hỏi Xích Thốn:
- Con muốn nuôi không? Loài chồn này nuôi trong nhà được, tụi nó đuổi rắn rít, côn trùng, bò cạp và chuột bọ vô nhà giỏi còn hơn mèo.
Xích Thốn mở lớn mắt, mừng rỡ đáp:
- Dạ muốn… muốn nuôi lắm! Nuôi làm bạn.
Ông Sư Từ nghiêm nghị nói:
- Vậy con bắt hai con về nuôi, còn hai con để lại cho cha mẹ nó nuôi. Bây giờ con ngừng đào để cha mẹ nó về tha hai con kia đi chỗ khác, mơi con hẳn đào tiếp.
Xích Thốn dạ lớn rồi mau chóng biến mất. Cả buổi chiều, anh làm một cái lồng bằng những nhánh cây nhỏ, làm chấn song, bên ngoài anh còn cẩn thận bao thêm một lớp lưới mịn, cắt ra từ miệng xiệp cũ. Xích Thốn sợ chồn cha mẹ tối về tha cặp chồn con của tụi nó đi. Cái chuồng có một cánh cửa lớn, đủ bàn tay anh đút vào. Anh tính rồi, khi nào rảnh anh sẽ bắt hai con chồn ra để chơi, chừng nào quen hơi sẽ thả chúng đi tự do, còn khi ngủ thì chúng ngủ chung với anh.
Xích Thốn bỏ hai con chồn vô lồng, anh lầm bầm một mình:
- Tụi mầy nuôi hai đứa đủ mệt, đủ cực rồi. Để tao nuôi tiếp hai đứa, tới Tết này coi hai đứa con của mầy hay hai đứa con của tao lớn hơn.
Nói rồi anh cười một mình. Cô Pậu thấy Xích Thốn vui, cô cũng vui lây. Hai con chồn đèn thế cho hai con chó trụi cũng hay. Bỗng dưng cô Pậu chợt tỉnh người ra. Cô nhớ lại, nuôi chồn thì không nuôi gà vịt được, nhứt là loại chồn đèn này. Tụi nó rất nhanh nhẹn, giỏi luồn lách hóc kẹt, răng nhọn lại có nọc, cắn một cái là gà, vịt nằm ngay đơ.
Thôi kệ, cô nuôi gà vịt ngoài xóm, ở đây Xích Thốn nuôi chồn giữ nhà, anh sẽ nuôi sáo, nuôi nhồng thế gà, nuôi le le, bồng bồng thế vịt, mấy con này không sợ chồn đèn.
Nghĩ vậy tự nhiên cô mỉm miệng cười.
- Có khi sau này mình nuôi thêm một cặp cò quắm thay chó giữ nhà luôn…
Ông Sư Từ nhìn hai đứa nhỏ quấn quít bên cái lồng mới làm cho cặp chồn, ông chợt thở dài. Đôi khi tự tạo nghiệp, tìm cái bận bịu lại là niềm vui và hạnh phúc. Như cha mẹ nuôi con cực nhọc mà hạnh phúc, cũng như ông cưu mang hai đứa tứ cố vô thân, dị hình dị dạng này ông cũng cảm thấy hạnh phúc.
Hai đứa nhỏ ăn cơm chiều sớm, rồi mỗi đứa đút cho một con chồn ăn. Thức ăn của chúng là cơm, chuối chín và một chút tép luộc. Cũng may hai con chồn này đã mở mắt và biết ăn nên đỡ cực. Sư Ông chỉ dùng một tô nước cơm chắt.
Xích Thốn tiễn cô Pậu một đoạn tới cái mương nước chỗ đám dớn rồi quay lại miễu.
Chiều nay nắng lớn gay gắt, chắc ngày mai có mưa. Ông Sư Từ kêu Xích Thốn tụng kinh chiều với ông. Hôm nay ông tụng thêm kinh Thủy Sám, Phổ Môn và Bát Nhã. Ông đánh chuông, gõ mõ, Xích Thốn quỳ trên cái nóp, chỗ cô Pậu quỳ thường ngày và mọp lạy. Khi lạy hai cánh tay của anh khuỳnh ra, giống như một con gấu đen khổng lồ đang vồ mồi.
Ngày thứ tư, ông Sư Từ nấu nước pha trà và dâng hương cúng như thường lệ. Bữa nay ông cúng trang thứ tư. Đối với ông đó là trang để tôn vinh những con người nghĩa khí nhân hậu, lương thiện có công lập ra vùng đất này. Những ông Hai, ông Tư… và bà Ba, bà Bảy… còn đang sống hay đã mất. Dù không là thần thánh cao siêu nhưng họ đã góp công sức đào kinh, đắp đường, bắc cầu, giúp đỡ xóm giềng khi hữu sự. Họ không có nhiều chữ, nhiều tiền nhưng bằng lời nói, bằng kinh nghiệm của mình, đã dạy lớp trẻ bao điều bổ ích, tạo nên một làng xóm yên bình, phát triển như bây giờ. Đối với ông họ xứng đáng để tôn thờ ngang với các bậc tiền hiền.
Xích Thốn đêm qua vì sợ gặp chồn lớn về tha con nên anh thức canh không dám ngủ, giờ anh nằm say xưa giấc mã…
Ông Sư Từ ngồi uống trà nghĩ lan man về chuyện đạo, đời, chuyện cuộc đời ông và những người dân trong xóm.
Họ với ông đã tới đây gần như cùng một lúc, trong buổi đầu lập ấp. Ông đi đường đạo, họ đi đường đời. Họ siêng năng cật lực làm việc để nuôi gia đình, dựng nhà, khai hoang để lấy đất làm ruộng và để dành cho con cháu khi chúng lập gia đình riêng.
Ông đi đường đạo, tinh tấn sửa mình, không cầu danh lợi, quần áo ba bộ, ăn chay một ngày một bữa, giữ giới luật không thủ hữu, tự làm ruộng, trồng rau để ăn. Vừa làm Sư, vừa làm Từ, không màng cực khổ, chỉ hết lòng làm những gì bà con cần tới ông.
Người dân ở đây đa số làm nghề hạ bạc, đương nhiên phải sát sanh, họ tích lũy cho tương lai. Họ mở đất lập vườn, khẩn hoang làm ruộng. Ruộng đất càng lớn, càng nhiều càng tốt, tới khi không còn đủ sức làm nữa mới thôi. Họ phá rừng, đốn cây về ngâm dưới ao sình dù vài năm sau mới cần tới. Đủ ăn rồi vẫn tiếp tục săn bắt làm mắm, làm khô. Cuộc sống họ là như vậy, biết hay không biết nhân quả, họ cũng phải sống như vậy. Vì họ còn có cha mẹ để phụng dưỡng, con cái để nuôi nấng, phải làm nhà cửa, nộp sưu thuế cho quan và bao chi phí khác không tránh được.
Ông chỉ có một mình, mưa bão tốc mái đình thì làng lo. Ông không có cha mẹ để phụng dưỡng, không có vợ con để nuôi dạy, làng xóm là gia đình của ông, đình là nhà của ông. Mọi thứ đơn giản vậy mà ông còn thấy con đường của mình cũng có nhiều khó khăn dù ông hiểu đạo, có hoàn cảnh và điều kiện tốt hơn.
Đất trời ở đây chỉ có vậy, chỉ có bao nhiêu đó thôi. Mỗi năm biển chỉ bồi thêm chút ít còn con người sanh ra ngày càng nhiều. Người tới trước chiếm giữ đất, những người tới sau phải đi xa hơn phá rừng, khẩn hoang để ở.
Chỉ còn một vạt rừng nhỏ cuối cùng này với một số cây thưa thớt, vậy mà mọi người tranh nhau chặt phá. Đất sao còn? Rừng sao còn? Những lớp người sanh sau, không có đất sẽ phải thiếu ăn, không có chỗ ở, cuối cùng phải bỏ xứ ra đi...
Tình thế như vậy không tranh đấu, không chiếm giữ sao được? Một số người chiếm được nhiều đất thì nhiều người khác không có đất. Một người được thì sẽ có một người mất. Quy luật cuộc sống này thật nghiệt ngã. Lòng tham, sự chiếm hữu sanh ra đau khổ. Mà không tranh đấu, không chiếm hữu cũng sanh ra đau khổ…!
Con người có vẻ ngày càng lâm vào cảnh bế tắc.
Ông Sư Từ thở dài, ông có chiếm hữu không? Có chớ! Ông cũng có riêng hai công đất để làm lúa ăn. Ông cũng có ngâm mấy chục cây rừng để dành vài năm sau sửa đình…!
Buổi sáng trời âm u, mưa rả rít, có thể hôm nay mưa cả ngày.
Xích Thốn thức dậy, việc trước tiên là thăm cặp chồn con của anh. Sau đó anh đi ra cái hang chồn, còn lại hai con chồn ngày hôm qua. Xích Thốn sợ chồn cha mẹ không về đem hai đứa con đi, như vậy thì hai đứa nó sẽ bị nước mưa ngập chết. Tuy nhiên khi ngó vào cái hang thấy trống rỗng, anh thấy nhẹ nhõm trong lòng.
Xích Thốn vô nhà, mưa dòn trên mái lá, gió lúc nhẹ, lúc mạnh tung những sợi mưa nhỏ bay bay...
Ông Sư Từ ngồi im lặng bên bình trà đặt trong vỏ trái dừa bị to tướng. Xích Thốn ngồi cạnh bếp un, chăm chỉ cho hai con chồn ăn. Hai người im lặng, căn nhà bỗng thấy rộng ra. Ngoài trời mưa mù…! Tự dưng ông Sư Từ thấy lòng mình nao nao, ông cảm thấy cô đơn. Ông nhớ cái đình, nhớ xóm Giồng Me, nhớ chòm nhà lá cuối xóm, nhớ ngôi chùa thầy của ông và nhớ gia đình ông, bao năm rồi không gặp…
Xích Thốn vô tư nựng nịu hai con chồn nhỏ. Ông nghĩ mình tu đã lâu, hiểu pháp và cũng đã quen cảnh tịch mịch một mình rồi, vậy mà sáng nay mưa giữa rừng, xa lối xóm, ông còn chạnh lòng thì thằng nhỏ này làm sao nó ở lâu dài một mình được!
Cô Pậu đội nón lá, quấn một tấm vải bố được quét một lớp dầu chai mỏng để vải không thấm nước, bước vô nhà. Bữa nay cô không đem theo cặp gióng gánh. Cô chỉ xách một cái giỏ nhỏ đựng theo ít cá tép hồi tối dỡ vó có được. Cô Pậu nói bớt mưa cô sẽ hái rau sam, đọt choại về luộc cho Sư Ông chấm tương ăn. Còn cô với Xích Thốn thì ăn tép rang và canh chua cá chốt nấu với trái giác, hai con chồn con thì vẫn chuối xiêm chín với cơm nguội.
- Bữa nay mưa, tụi con khỏi ra ngoài làm, ở trong miễu cúng ngọ với ông. Mấy ngày rồi lu bu công chuyện, hai đứa bây không có cúng.
Bữa nay cúng đệ tứ Chúa Bà - Hỏa Tinh thần nữ. Bà này cai quản mọi chuyện liên quan tới lửa, mà trong nhà sớm tối gì cũng cần có lửa, nấu cơm, canh, nấu nước, đốt đèn thắp sáng… Không có lửa người ta khó sống, vậy nên Hỏa Tinh thần nữ rất gần với mọi người.
Cô Pậu mắt sáng lên, cô tỏ vẻ ngưỡng mộ Hỏa Tinh thần nữ. Cô thấy lửa hợp với mình và luôn cần thiết cho cuộc đời cô mãi mãi. Cô chọn Chúa Bà - Hỏa Tinh thần nữ là mẹ độ mạng. Cô Pậu quỳ mọp sát đất và lạy thành tâm. Một tiếng chuông mấy bữa trước cô lạy một lạy, bữa nay gõ một tiếng chuông cô lạy tới ba lạy.
Sư Từ mỉm cười hiền hậu, ông hiểu cô chọn Hỏa Tinh thần nữ là mẹ độ ý là để gia đình cô luôn ấm áp, no đủ và sáng sủa. Cô Pậu không biết trang thứ tư này ông Sư Từ tôn vinh những bậc hậu hiền có công lập nên làng xóm này.
Mưa dứt hột, mặt trời sáng lên trong buổi chiều tháng Chín. Gần cuối mùa mưa không khí mát mẻ, lá rừng còn đọng vài hạt nước mưa, ngậm nắng chiều lấp lánh.
- Chiều nay con về sớm, mai con khỏi xuống miễu. Ông với thằng cao cúng Bà Chúa Thổ xong, qua ngọ ông với nó về xóm.
VIII
Xích Thốn đặt hai con chồn đèn trong lòng bàn tay hộ pháp của anh. Anh có bạn mới rồi, cặp chồn con bắt đầu quen hơi tay. Chúng không còn tìm cách trốn đi mà lại thích nằm yên thưởng thức những cái vuốt ve của người bạn mới. Dường như chúng nó cảm được điện trường hoang dã của Xích Thốn đang giao thoa với điện trường của chúng.
Ông Sư Từ lâu nay cũng nhận thấy vậy, tính hoang dã trong Xích Thốn nhiều hơn tính người. Anh như một con trâu rừng sống hòa thuận với ông chủ “người” nhưng vẫn luôn cảm thấy vui hơn khi được về rừng, được về những cánh đồng hoang, gặp lại con ếch, con cò…
Anh thích những người bạn hoang dã hơn là trở về “chuồng” trong xóm làng sống với người cùng lũ chó, mèo, heo, gà, học đòi tính hơn thua, so sánh phân biệt của con người.
Ông Sư Từ thương Xích Thốn ở chỗ đó, anh có cái chơn tâm, thuần lương nguyên sơ mà con người hiện nay đang mất dần đi.
Ông thấy Xích Thốn hợp với cái miễu và bãi hoang này. Anh là con thú hoang to lớn, vua của các loài động thực vật hoang dã ở đây. Anh sẽ bảo vệ, cai quản những sinh linh ở nơi này vì anh thật lòng yêu thương chúng như ruột thịt của mình.
Vua Xích Thốn sẽ không để cho một loài nào không có nơi ở, không có thức ăn hay để cho loài này ăn hiếp loài khác.
Sư Từ thật vui khi nghĩ vậy, người phù hợp nhứt để bảo vệ các loài vật hiền lành này chính là Xích Thốn. Anh không sợ cô đơn, không sợ sấm chớp mưa bão, cũng không sợ ma cỏ, rắn rít mà có vẻ như còn thương yêu tất cả những thứ đó nữa.
Mấy ngày nay ông Sư Từ nhận thấy như vậy, Xích Thốn là một người khỏe mạnh, chân thật, không biết tới danh lợi, không tham và không có lòng chiếm hữu.
Bây giờ đất còn ngập sình, cây gai, lùm bụi trắc trở khó đi, lại có thêm đạo quân muỗi, bù mắt, rắn rít cản bớt bước chân kẻ săn bắt, và người trong xóm cũng tạm đủ đất, đủ ăn. Mai kia, mười năm, hai mươi năm nữa đất thuộc hơn, dân số trong xóm tăng lên, người ta sẽ tới chiếm đất này. Xích Thốn không đủ khôn ngoan làm sao bảo vệ được các loài ở đây...!
Buổi chiều ngày cuối có một bầy sáo trâu gần hai chục con, không biết từ đâu bay tới. Chúng chia nhau đậu trên ngọn me, trên nóc miễu và trên nóc nhà Xích Thốn. Chúng ồn ào nhảy nhót và tò mò ngóng cổ, nghiêng đầu nhìn ngôi miễu mới có này.
Có lẽ mùa trước chúng đã từng tới đây, đậu trên cây me và đám rừng cóc mà không thấy có ngôi miễu, tự nhiên lần này thấy ngôi miễu mọc lên sừng sững ở đây nên chúng tò mò ghé thăm…
Bỗng dưng cả bầy im lặng, chỉ có một con kêu lớn, phát ra một chuỗi âm thanh trầm hùng mạnh mẽ như hiệu lệnh rồi sau đó vài con cất tiếng cao vút lên họa lại. Kế tiếp những tiếng hót âm vực trung, cao, rồi cả bầy hợp xướng. Gần hai chục con với đủ cả bè cao, thấp, trầm, bổng du dương, tạo thành tấu khúc vui tươi, sống động của thiên nhiên hoang dã.
Ông Sư Từ và Xích Thốn dừng cả mọi chuyện lắng nghe. Hai người im lặng thưởng thức khúc hòa âm hoang dã.
Thật tuyệt vời buổi sáng nay với khúc hợp tấu sáo trâu này!
Sư Từ ở đây nhiều năm, ông quen thuộc với cả ba loài sáo là sáo nghệ, sáo trâu và sáo sậu. Loài nào cũng hót hay nhưng theo ông chuyên hợp xướng và dàn hợp xướng tuyệt vời nhất chính là loài sáo trâu này. Chúng đi thành bầy từ mười đến hai mươi con và khi hợp tấu là có nhạc truởng rõ rệt. Chúng chia thành nhóm, thành bè và đứng ở các vị trí khác nhau, và biết chờ nhau phối âm thật kỹ luật và hợp lý.
Trong nhiều dàn hợp tấu sáo trâu thì có lẽ bầy sáo này theo ông là giỏi nhất. Có thể chúng sống ở gần chùa Miên Hòa Bình, chùa Miên ở Xiêm Cán hay chùa Miên nào đó, tụi nó thường nghe dàn nhạc ngũ âm của người Khmer nên bắt chước những âm thanh rộn rã hân hoan và nhịp nhàng của dàn ngũ âm này. Không có dàn nhạc chim sáo nào hợp tấu đạt đỉnh cao như dàn nhạc sáo trâu.
Sáo nghệ thì giỏi đơn ca nhất, còn sáo sậu thì giỏi nhất “đại hợp xướng”, đinh tai nhức óc...
Sư Từ nghĩ đây là một điềm lành cho ngôi miễu này, Bà Cậu đã cử bầy sáo trâu tới tấu những giai điệu hân hoan để chúc mừng. Bữa nay là ngày vui nhất trong suốt thời gian ông và Xích Thốn vô đây lập miễu. Thật sự trong lòng ông có rất nhiều băn khoăn, lo lắng mà chỉ riêng một mình ông biết.
Ông biểu Xích Thốn vô khai khẩn miếng đất nầy để lập miễu, đó là lý do bề nổi cho làng xã và dân chúng hợp thức vậy thôi. Thật ra ông muốn tạo cho Xích Thốn một cơ ngơi để lập gia đình. Vì ông hiểu anh không thể theo ông và sống như ông mãi được.
Ông ăn chay một bữa, không chiếm hữu, dùng trí tuệ để định hướng đi...
Xích Thốn ăn mặn, ăn nhiều, một ngày ba bữa, sát sinh nhiều, sống theo bản năng. Vậy làm sao anh có thể giữ giới và tu hành được. Xích Thốn chỉ là một đứa nhỏ khổng lồ hiền lành, một con trâu hoang dã sống theo bản năng và làm việc theo lệnh mục đồng. Xích Thốn với ông có duyên với nhau nhưng duyên hai người chỉ ở chung với nhau thôi, còn cái ăn, cái học, tu tập, mục đích sống đều khác nhau. Hai người không thể đi với nhau đường dài được. Lo cho anh ông cũng vướng víu khó tu và ở theo ông hoài thì Xích Thốn cũng không thể chịu nổi.
Ông muốn giải thoát buông xả, Xích Thốn muốn có một gia đình, một người chăn dắt luôn bên cạnh anh.
Ngôi miễu đã làm xong rồi, giờ cuộc đất này Xích Thốn tùy ý, tùy sức muốn làm tới đâu thì tự do làm mương ranh tới đó. Còn cô Pậu một thân một mình bơ vơ, tứ cố vô thân. Con nhỏ cũng hiền lương, biết thân phận, cô như người chết đuối, coi Xích Thốn như chiếc phao cứu mạng.
Từ bữa Xích Thốn vớt cô Pậu về xóm rồi vô đình hỏi ông, ông có lén xin một quẻ xăm Quan Âm thì được quẻ phúc lộc, xăm này nói gả cưới được, có sự nghiệp lâu dài, nên ông cũng yên tâm và âm thầm quan sát tính toán cho Xích Thốn từ đó.
Chỉ có điều, đối với ông đời người đã khổ rồi, muốn đoạn diệt cái khổ thì phải lìa đoạn trước tiên là ái dục. Lập gia thất là tạo nghiệp thêm và sẽ bắt đầu những khổ lụy của kiếp người...
Tuy nhiên đối với Xích Thốn và cô Pậu nếu hai đứa nó không lập gia đình, không dựa vào nhau, không có nhà cửa đất đai thì có khi còn khổ hơn nhiều nữa. Hai đứa nó cần nhau như một người mù cần một người què vậy.
Ông phân vân mãi với hai quan điểm đó, bữa nay ông bảo cô Pậu khỏi vô để ông tiện nói chuyện riêng với Xích Thốn mà chưa nói thì bầy sáo trâu tới tấu nhạc, những giai điệu hân hoan báo điềm lành...
- Nè thằng cao! Con muốn cưới vợ không? Con suy nghĩ và trả lời ông, ông định liệu cho.
Xích Thốn giựt nảy mình. Anh lắp bắp...
- Thưa Sư Ông, con cưới ai? Ai cưới con?
- Thì còn ai vô đây nữa, con nhỏ mầy vớt dưới biển đem về đó. Mầy chịu nó không?
- Dạ con chịu nó.
- Vậy con có nói với nó chưa?
- Dạ chưa! Nhưng nó nói với con là nó muốn sống với con nếu con thề thương và lo cho nó suốt đời...
Ông Sư Từ cười, nụ cười hiền lành cố hữu:
- Trưa mai cúng ngọ rồi, con với ông dìa xóm, ông hỏi ý mấy anh chị trong xóm. Nếu họ cũng thuận ý thì ông kêu vợ chồng Hai Cự làm chủ hôn cho tụi bây.
Chiều xuống thật êm đềm, những đàn chim biển bay về khu lung chà là, từng nhóm nhỏ xếp thành hàng hình chữ V. Những cánh cò trắng lấp lánh trong ráng chiều...
Ông Sư Từ thọ bát quan trai[20], ăn một buổi ngọ, không ăn chiều, Xích Thốn ăn một ngày ba bữa vậy mà chiều nay anh cũng không thấy đói. Anh bỏ cơm luôn, hai tay mân mê hai con chồn đèn con đi loanh quanh trước miễu. Anh muốn chạy mau về xóm để nói với cô Pậu là Sư Ông đã đồng ý cho anh cưới vợ rồi...
Ông Sư Từ tụng thời kinh chiều rồi đi ngủ. Hôm nay ông ngủ ngon hơn các đêm trước một chút, dầu không vẹn toàn nhưng ông cũng chọn lựa được một giải pháp phù hợp, thuận duyên, mà Phật lý thì bất nhị tùy duyên, đúng sai, được mất, có không cũng là một chữ Không mà thôi.
Thời kinh công phu khuya hôm nay là thời kinh cuối ông ở ngôi miễu này.
Ông tụng các kinh Chú Đại Bi, A Di Đà, Bát Nhã Tâm Kinh, cuối cùng là Vãng Sanh Quyết Định Chân Ngôn để cầu siêu thoát cho các loại cô hồn, uổng tử gồm nhiều loại chúng sinh, trước là người và các loại chúng sinh cầm thú, ngư xà, thảo mộc, kim thạch... đã chết trên vùng nê địa này.
Xa chùa lâu quá rồi, lo việc đình riết ông không còn nhớ bao nhiêu loại chúng sinh trong kinh sách mà ông đã học ngày xưa. Ông chỉ còn nhớ một phần, ông thành tâm lẩm bẩm đọc tụng:
- Cầu nguyện cho các vị cô hồn, uổng tử, hồn các vị ngư phủ chưa đầu thai, hồn các loại ma trơi, quỷ không đầu, hồn các vị hành khất không nơi nương tựa, hồn kẻ chết chìm, người sa cội, sa cành mà chết, những người bị yêu tinh quỷ quái giết hại, người bị thú dữ giết chết, bị nạn hồng thủy, lũ lụt mà chết, những linh hồn vất vưởng chốn đồng hoang bãi vắng, những hồn dưới mồ hoang mả lạnh, trên đầu ngọn cỏ, dưới bóng cây hoặc gần miễu, chùa, đình mà không dám vào. Xin hãy vào cửa, hưởng chút khói nhang…
Rồi ông thành kính lạy ba mươi sáu lạy, đủ bốn phương tám hướng.
Cúng đệ ngũ Chúa Bà - Thổ Tinh thần nữ và thập loại chúng sinh rồi là công việc ở miễu đã hoàn mãn.
Ông lại ngồi một mình pha trà sam khô uống chờ sáng, nghĩ ngợi miên mang về đời người vô minh, vô định, vô thường. Ông chắc lưỡi, bưng chén trà uống từng ngụm nhỏ.
Mỗi người một nghiệp, mỗi người một số phận, thuận duyên thì vui mừng còn nghịch duyên thì cũng phải cắn răng sống, không ai biết trước được điều gì sẽ xảy tới với mình...
Dân trong xóm thì lo việc đời, lao lực, cố gắng tích lũy, phòng thủ cho tương lai. Ông lo công việc ở đình và lo cho đạo hạnh của mình, cho kiếp sau.
Xích Thốn và các loại chim thú, rắn rít, thủy tộc… cũng phải lao khổ, lo cái ăn hàng ngày.
Bữa nay ông Sư Từ một mình nấu đồ cúng, Xích Thốn xin phép ông cho anh đi kiếm vài thứ về biếu cho mấy anh chị ở xóm. Anh ăn cơm nguội và gởi hai con chồn cho ông, với tay lấy cây móc sắt, giỏ cá và cây búa bén đi vô lung chà là.
Một lúc sau, Xích Thốn trở về miễu đem về một giỏ cua biển. Cái lung chà là này là một mật khu của cua biển. Chỉ một mình Xích Thốn biết, và anh quyết định giấu kỹ khu vực này để đám cua bình an, sinh sống. Anh chỉ bắt tỉa bớt khi thấy số lượng cua nhiều quá không đủ hang ở, phải nằm bạ ra ở hai bên lạch nước. Xích Thốn lựa hai chục con cua kình càng chắc thịt, trói kỹ lưỡng đem về biếu cho năm anh em kết nghĩa.
Để giỏ cua xuống bên hè miễu, Xích Thốn lấy cặp cần xé và cây đòn gánh trở vào lung. Nửa giờ sau, anh sải bước gánh về hai cần xé đầy đọt chà là. Anh nói với ông Sư Từ:
- Có một mớ chà là bị đuông ăn héo đọt cà bắp. Con đốn xuống chặt củ hủ đem về xóm cho mấy chị xào tép ăn. Trong mớ củ hủ này phần nhiều có đuông, không chặt bỏ cây cũng chết...
Anh nói như phân bua, sợ ông Sư Từ rầy vì anh hủy hoại cây rừng và vô cớ sát sanh.
- Bây giờ con lấy đọt trước, vài bữa nữa trở vô con sẽ lấy cây dìa làm thêm mấy bộ vạt giường để trong miễu, cho bà con đi cúng có chỗ nằm.
Cúng ngọ xong ông Sư Từ và Xích Thốn ăn cơm chay. Không có người ngoài thì Xích Thốn phải ăn chay với ông Sư Từ. Ông nói làm vậy để bớt sát sanh, tốt cho sức khỏe.
Bữa cơm ngon miệng, có đọt choại luộc chấm tương, canh rau sam và củ hủ chà là xào thiệt ngọt. Riêng hai con chồn thì mỗi con được thưởng thức một con đuông chà là vàng lườm ngậm sữa.
Ăn xong ông Sư Từ và Xích Thốn thu dọn trở về xóm.
Đứng trước cửa miễu, ông nói với Xích Thốn:
- Miễu này giao cho con lo nhang khói. Nhà và đất xung quanh là của con. Mỗi tháng ngày mùng hai và mười sáu ông sẽ vô đây tụng kinh và ở với con.
- Bây giờ mình về đình.
Thầy trò kẻ trước người sau rời ngôi miễu, Sư Từ đi trước vai mang tay nải, tay cầm cây gậy cóc mới làm. Ông đặt tên là gậy “đập cỏ đuổi rắn”. Xích Thốn gánh cặp cần xé nhứt, to tướng lình kình đi sau. Qua đám dớn xanh rì, nhìn xa hai người giống như Tam Tạng và Sa Ngộ Tịnh vừa trốn khỏi hang yêu quái, thất thểu đi tìm Bát Giới và Ngộ Không.
Từ miễu vô xóm thì nhà cô Pậu là căn nhà đầu tiên. Xích Thốn ghé vào nhà này trước, cô Pậu ra đón, cúi đầu chào ông Sư Từ.
- Thưa Sư Ông, con có pha trà nóng sẵn, mời Sư Ông nghỉ chân một lát, uống trà rồi về sau.
Ông Sư Từ cười hiền hòa bước vô hàng ba nhà cô Pậu, một ấm trà thơm đã pha sẵn để trên cái chõng tre dưới cửa sổ. Cô Pậu rót một tách trà bốc khói, bưng hai tay mời ông Sư Từ. Đón tách trà thơm có dĩa lót, ông Sư Từ biết cô Pậu mới đi chợ Bạc Liêu sáng nay mua trà và mua bộ bình tách mới này để đón ông và Xích Thốn về. Cô biết ông bỏ được mọi thứ nhưng không bỏ được trà. Mấy ngày ở miễu uống lá rau sam khô, ông đã nhớ trà lắm rồi.
Xích Thốn soạn một mớ củ hủ chà là cho cô Pậu, cô Pậu không lấy cua biển. Ở xứ này thứ quý nhất là trà, trái cây, chè và bánh ngọt kế tiếp là heo, gà, vịt, còn tôm, cua, cá, sò ốc là hạng bét, nhà nào cũng ăn ngán tới cổ. Vì vậy món củ hủ chà là và con đuông là món quà coi được. Còn mấy con cua kình càng chỉ là kèm theo cho lấy có và đủ lễ.
Xích Thốn gửi cô Pậu cái lồng có hai con chồn rồi gánh đồ theo ông Sư Từ qua các nhà khác để chia cua và củ hủ cho mọi người đồng đều.
Ông Sư Từ nói với vợ chồng Hai Cự:
- Chiều nay cơm nước xong, vợ chồng con qua đình, Sư Ông có chuyện quan trọng nhờ tụi con.
Nói xong, ông liếc mắt nhìn về Xích Thốn đang lui cui lấy đồ từ trong cần xé ra. Cái đảo mắt của ông hình như vợ chồng Hai Cự cũng hiểu được ba phần.
- Dạ thưa Sư Ông, chiều cơm nước xong vợ chồng con qua.
Buổi chiều đó, dưới mái đình ông Sư Từ rót trà mời vợ chồng Hai Cự rồi nghiêm trang nói:
- Thằng cao muốn lập gia thất. Ông muốn hỏi ý kiến vợ chồng năm anh em tụi con.
Ngừng một chút rồi ông nói tiếp:
- Nó một thân một mình tới xứ này nên dựa vô mấy anh em tụi con mà sống. Ông thương nó thật thà nên coi nó như con. Nhưng ông là người xuất gia, chỉ lo được việc đạo, không đứng lo việc gả cưới được. Ông chỉ ủng hộ và cầu an cho nó cho thôi.
- Nó với tụi con kết nghĩa anh em, tụi con như anh chị ruột của nó nên tụi con họp bàn và quyết định cho nó.
Hai Cự cẩn thận hỏi lại:
- Thưa Sư Ông? Thằng cao nó muốn lấy ai?
Vợ Hai Cự xì một tiếng lớn:
- Còn ai trồng khoai đất này? Con Pậu chớ ai. Ông còn hỏi nữa, xứ này ai cũng thương và tội nghiệp nó thôi, chớ con gái nào dám lấy nó.
- Mà bà có hỏi con Pậu chưa? Nó chịu không?
- Tôi hỏi rồi, nó tội nghiệp lắm. Nó nói nó không có cha mẹ, người thân, làng xóm. Nó luôn mơ ước có được gia đình, nên khi bị ghe hải tặc chở ra biển, nó sợ bị chở về Tàu. Vừa thấy bờ biển có người Việt thì nó nhảy đại xuống.
- Bây giờ nó có người thân, có anh chị em, có làng xóm rồi, nó muốn ở đây luôn.
- Tui hỏi nó, ở đây rồi em ở với ai? Nó nín thinh rồi rơm rớm nước mắt nói: “Nếu anh chị mà không cho em ở đây thì em sẽ rủ Hia cao ra mé biển cất chòi ở, đi đẩy xiệp, bắt ba khía, móc cua sống”.
Vợ chồng Hai Cự nói như cãi lộn:
- Tui hỏi ông, vậy thì hai đứa nó một bụng từ hồi nào rồi, phải không?
- Ừ, tao hỏi thằng Xích Thốn hôm cất nhà cho con Pậu, “Giờ mầy tính sao với nó?”. Thằng thiệt tình nói: “Tại em vớt cổ dưới biển lên nên giờ có chuyện gì em cũng phải chịu chớ sao. Cổ nói nếu em không lo cho cổ thì đem cổ ra biển, bỏ lại chỗ đã vớt cổ, mà chỗ đó thì sâu ngập đầu…”.
Ông Sư Từ và vợ chồng Hai Cự đều bật cười:
- Vậy Sư Ông và hai vợ chồng con đồng ý rồi. Còn lại bốn cặp kia, tụi con là huynh trưởng lớn nhứt đứng ra bàn với mấy đứa kia.
- Nếu tất cả thuận ý thì ba bữa nữa ông mời đủ năm cặp vợ chồng tới đình để tính công chuyện luôn.
Trước khi về vợ Hai Cự nói hước:
- Con thấy chắc mọi người thuận ý thôi. Vợ chồng mấy đứa em cũng khen con Pậu này “biết thân biết phận”, biết kính trên nhường dưới, biết nghe lời anh chị và có tiết hạnh nữa.
Xích Thốn giờ này đang ở nhà cô Pậu dỡ vó. Con nước này cá đồng bắt đầu chạy. Hễ gió chướng thổi sòng, lúa trổ đòng đòng thì cá trên ruộng bắt đầu xuống kinh tới mùa mưa năm sau thì lại trở lên ruộng.
Mấy con cá rô, trê, sặc, chạch, lóc đương sống trong nước ngọt lúc mới xuống nước mặn thì bị dạ nước, lờ đờ vài ngày rồi mới quen nước. Nước ngọt trên ruộng đổ xuống kinh Giồng Me pha với nước mặn từ sông Bạc Liêu đổ vô tạo thành một khúc kinh nước lợ có độ mặn thấp. Tụi cá đồng tập trung ở khúc kinh nước lợ này cho quen rồi mới ra sông nước mặn, sau đó đi tứ tán sống qua mùa nắng, chờ tới mùa mưa năm sau trở về đồng.
Vào mùa gió chướng con kinh Giồng Me và mấy kinh xương cá[21] hay mương cựa gà[22] của kinh xáng Bạc Liêu - Cà Mau thành vùng có rất nhiều cá đồng. Có những khúc kinh cá gom lại ăn móng liên tục như là cơm sôi. Nơi cá đồng tập trung lại, dân ở đây gọi là chỗ “nước gọt”, là chỗ nước lợ nằm giữa vùng nước mặn và nước ngọt.
Thời gian này là năm tháng đẹp nhứt trong đời của Xích Thốn và cô Pậu. Từ bơ vơ không quê hương, không người thân, không biết mình là ai, không đủ cơm ăn, áo mặc... bây giờ hai đứa nó có đủ mọi thứ. Quê hương của tụi nó giờ là dòng kinh nhỏ chạy thẳng từ chợ về rừng, một bên đồng, một bên biển, đồ ăn bốn mùa, con người nhân hậu. Họ không cần biết hai đứa nó là ai, chỉ thấy khổ là cứu, thấy chân thật thì kết nghĩa anh em.
Ngày nào hai đứa chỉ có một bộ đồ dính da, quần ống thấp ống cao, bụng đói, miệng khát, lếch thếch tới vùng đất này mà bây giờ Pậu đã có nhà, có hai con chó trụi, còn Xích Thốn cũng có cái miễu, có vạt rừng cóc đẹp và hai con chồn đèn.
Miền đất này, xứ này đối với hai đứa nó là một thiên đường trong mơ, đẹp hơn bất cứ vùng đất nào trên trần gian này.
Chòm nhà lá cuối xóm Giồng Me từ ngày dựng căn nhà đầu tiên tới giờ chưa có “hỷ sự”. Nơi này toàn những cặp vợ chồng trẻ bồng, dắt con tới đây dựng nhà làm ăn và sanh con. Chờ đám con nít này trưởng thành chắc cũng mười năm nữa mới có đám cưới. Vậy mà bây giờ tự nhiên lại sắp có đám cưới, không vui sao được.
Sau ba ngày, năm cặp vợ chồng lội qua, lội lại con kinh, lén lén, lút lút, bàn ráo riết. Cả năm nhà đều thống nhất cho hai đứa em khổ này cưới nhau. Tất cả kéo tới đình gặp ông Sư Từ bàn chuyện lập gia thất của hai đứa em kết nghĩa nghèo, không chút máu mủ nào với mình.
Ông Sư Từ rất ngạc nhiên và cảm động. Ở quê ông, nơi ruộng vườn phì nhiêu còn chưa có chuyện này. Cái gì đã làm nên điều tuyệt vời này? Bốn anh em ruột người Việt và một anh hàng xóm người Miên bỏ công, bỏ sức, bỏ tiền ra lo cưới vợ gả chồng cho hai đứa em người Tiều lưu lạc, nghèo khổ bằng cả tấm lòng chân thành, như lo cho người thân ruột thịt.
Phải chăng là từ cảnh bơ vơ lưu lạc mọi người thật lòng thương yêu nhau và điều đó lâu ngày dài tháng đã kết lại thành một tính cách độc đáo. Sống chân thật thương yêu chia sẻ với mọi người thì mọi người cũng sẽ thương yêu lại mình.
Anh Hai Cự đại diện thưa với ông Sư Từ:
- Tụi con có năm gia đình, mười người lớn bàn kỹ với nhau rồi, đồng ý thuận tình cho thằng Xích Thốn và con Pậu lấy nhau. Gặt lúa xong, Sư Ông coi ngày làm đám.
Ông Sư Từ hoan hỷ ra mặt, chuyện của người dưng như vậy mà cả chòm nhà lá này đồng thuận như chuyện của mình. Ông nhìn từng người rồi ôn tồn nói:
- Năm cặp vợ chồng tụi con là những người tốt, nghĩa khí. Hai đứa khổ này cuối cùng cũng gặp phước. Ông xuất gia rồi, không đứng ra làm đám cưới được nên chuyện này giao cho vợ chồng Hai Cự làm chủ hôn.
- Ba căn nhà bên tay mặt kinh là nhà Hai Cự, Tư Thắng, Năm Mãi làm đàng trai. Hai nhà bên tay trái kinh là Ba Phách, Năm Cò làm đàng gái. Đám cưới làm tại nhà cô Pậu, rồi đám tụi nó vô miễu ở.
- Thời gian tụi con định như vậy cũng hợp lý, ngày giờ cụ thể ông sẽ coi, rồi báo sau.
- Mọi chuyện còn lại anh em tụi con bàn bạc với nhau. Cái gì chưa thuận thì Hai Cự quyết định. Tụi con muốn mời ai thì mời cho vui, quyền của tụi con nhưng liệu cơm gắp mắm.
Tất cả mọi người đều vui, có gì làm nấy mà.
Xong mùa lúa mọi người được rảnh một thời gian lo việc nhà. Vợ chồng Hai Cự, Tư Thắng và Năm Mãi sẽ lo cưới vợ cho Xích Thốn. Còn vợ chồng Ba Phách, Năm Cò sẽ lo gả chồng cho Pậu. Mọi chuyện được phân công rõ ràng, tới cuối tháng Mười một âm lịch làm đám rồi ăn Tết luôn.
IX
Giữa tháng Chín, gió chướng thổi sòng, trời khô ráo, ngoài đồng lúa đã trổ đều. Những đám ruộng cấy sớm, bông lúa đã cong trái me, hương lúa dìu dịu trong gió, thơm cả cánh đồng xa.
Cỏ trên đường bờ và hai bên con kinh đã trổ bông kết hột.
Đây là mùa chim manh manh về, chúng kéo từng bầy nhỏ độ mươi con, kêu “le te, lít tít, le te”. Những tiếng kêu nho nhỏ, thì thầm trộn lẫn trong tiếng gió xào xạc. Lũ manh manh nhỏ xíu với bộ lông nhiều màu, đỏ vàng thật đẹp. Bầy chim nhiều màu sắc chuyền từ đám cỏ này, bụi cỏ kia hay treo mình trên những ngọn lau sậy để ăn những hột cỏ, hột lau sậy vừa mới chín. Một số con màu xám, vài con màu nâu đỏ, riêng các con màu ngũ sắc giống một chùm bông trâm ổi gọi là con manh manh vũ. Trong nhóm manh manh vũ này, không biết con nào là công chúa, con nào là công nữ, con nào là tướng quân, chỉ thấy con nào cũng dễ thương và tuyệt đẹp.
Vào mùa lúa chín, chim manh manh là nhóm chim tiên phong trong các loài chim di trú và sau nó là chim áo dà đầu đen với từng bầy lớn, số lượng áp đảo tới khi lúa chín rộ.
Lũ chim manh manh nhỏ xíu, mỏ chúng không tách nổi vỏ trấu để ăn hột gạo bên trong và cũng không nuốt trọng hột lúa được như đám chim áo dà, vì vậy chúng chỉ ăn hột cỏ.
Lũ chim áo dà, một đàn từ vài chục tới cả trăm con đáp xuống đám ruộng lúa chín vừa ăn, vừa líu “tít tít… te te… tíu tíu…” rộn rã. Thân hình chúng bằng con sẻ nhà nhưng mỏ chúng cứng và bén hơn đám sẻ. Chúng gấp một cái có thể tách được vỏ trấu và nuốt hột gạo mau lẹ.
Mùa lúa chín cánh đồng thật đẹp, lúa vung mâm xôi. Mỗi một ngày màu lúa vàng càng đậm hơn, mọi sinh vật đều rộn ràng đón mùa lúa chín. Đám chuột đồng, đám chim di trú manh manh, áo dà, le le, bồng bồng từ các nơi kéo về ăn lúa. Đám chim ăn cá như cò, diệc, điên điển, còng cọc, giang sen và đôi khi cũng có một cặp chằng bè kéo tới săn lũ cá đồng đang tháo chạy xuống sông.
Đám chim địa phương thì kinh nghiệm hơn, chúng bình thản chờ lúa chín trên vùng định cư thân thuộc của chúng. Chim cu ngói, cu cườm đóng quân trên những tàn cây tra, me keo cao ngất trong xóm. Đám cu xanh bay qua khu rừng cóc chờ lúa chín. Mỗi ngày lũ chúng nó bay về đậu trên ngọn tre, mái đình, quan sát lũ chim di trú tới ăn ké. Thi thoảng có lũ chim di trú phạm luật thì mấy con cu xanh bay xuống đánh đuổi, rồi lại bay lên trên ngọn tre rúc mấy hồi “cúc cúc… cu ru…cu ru…” vang dội cả cánh đồng.
Họ hàng chim ăn đêm như chim heo, chim mèo, chim cú, chim ụt cũng chuẩn bị cho một mùa săn bội thu no nê sắp tới.
Ruộng khô, cá xuống kinh bị dại nước thì bị đám vạc đón.
Lúa gặt hết, đồng trơ, không có hang trốn, chuột đồng leo lên cây có chim heo, chim mèo, chim cú, chim ụt chờ đón.
Nông dân mừng vì có lúa, cánh thợ gặt từ các nơi tới vui vẻ vì có công chuyện làm, có tiền.
Xích Thốn mừng nhất vì anh sắp cưới vợ.
Chỉ có các loài thủy tộc, rắn, chuột đồng và ếch nhái thì buồn nhiều. Chúng phải di tản vô các lùm bụi bên rừng hay xuống dòng kinh nước mặn, chịu sần mình và cố thích nghi để tồn tại chờ mùa mưa năm sau.
Ông Sư Từ không vui cũng không buồn. Ông biết đây là quy luật của chúng sinh, những chu trình lặp đi lặp lại hàng năm. Mưa thuận lợi cho một số loài thì sẽ làm khó khăn cho một số loài khác và ngược lại. Một quy luật luân lưu cố định, mưa tốt cho cây lúa thì nắng tốt cho cây dưa, cây cà. Mưa thì nông dân vui còn nắng thì diêm dân mừng.
Cuộc đời thường được này mất kia, người cười vào ngày thứ sáu thì sẽ khóc vào ngày chủ nhật, một người được điều gì thì sẽ có một kẻ khác mất đi thứ đó, ông tin như vậy.
Ở con kinh Giồng Me nói riêng và ở xứ Bạc Liêu nói chung, theo ông là được “Bà Cậu đãi” nhiều hơn những xứ khác. Xứ nước ngọt cây trái xum xuê, nhìn qua tưởng chừng là nơi tốt nhứt, thiệt ra cũng không sung túc bằng xứ Bạc Liêu sình lầy này.
Mùa mưa làm ruộng lúa, ăn cá đồng. Mùa nắng làm ruộng muối, ăn cá biển. Những lúc rảnh chuyện lúa, chuyện muối thì đi mua bán trên sông và đi làm biển.
Sản vật rất phong phú, vô chợ Bạc Liêu thì cái gì cũng có, trừ thịt trâu và thịt chó vì người dân ở đây coi trâu, chó là người bạn của cha ông mình. Họ tuyệt đối không ăn thịt trâu và thịt chó.
Chợ Bạc Liêu những năm 1920s. Nguồn: https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/49025219577/
Thủy hải sản thì vô chợ, có bốn khu riêng biệt, một khu bán các loại hải sản ở bãi sình, nước cạn như ốc len, ba khía, sò huyết, cá kèo, cua biển…; một khu bán các loại hải sản nước sâu như cá mập, cá xà, cá bớp, cá thu, cá lem, cá chẽm, cá mú, cá bè, cá đường... đủ loại. Khu kia thì bán các loài nước lợ như cá ngát, cá út, cá tra, cá chốt, cá rúng, tép đất, tép bạc... không thể kể hết. Khu còn lại bán các loại trên đồng như cá lóc, cá rô, cá trê, cá sặc, cá chạch, tôm càng xanh v.v...
Các loại trái cây từ vùng Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang đưa xuống là có chất lượng cao, còn ở Bạc Liêu chỉ có nhãn và mãng cầu ta là đặc sản. Nhãn da bò Bạc Liêu là loại nhãn được cho là ngon nhứt miền Nam.
Ông Sư Từ rất thích thú và lấy làm lạ về địa lý của Bạc Liêu. Hai cửa biển và sau này có thể là ba cửa biển hội tụ vào trung tâm tỉnh. Một bên là ruộng lúa mênh mông phì nhiêu, một bên là biển rộng với các sản vật phong phú. Thật là một vùng đất lớn, biển rộng, sông dài hội tụ, phong thủy hiếm có.
X
Anh Hai Cự là một người biết tính toán và chỉ huy giỏi, ông Sư Từ đúng là có con mắt nhìn người.
Trước tiên Hai Cự tính nhẩm số người dự đám cưới này!
Ông Sư Từ và hai đứa dâu rể không ai có người thân. Vậy khách mời để chứng kiến đám cưới này sẽ gồm những ai?
Hai Cự lấy giấy viết cẩn thận ghi:
1. Đàng trai có ba gia đình, đàng gái có hai gia đình, năm nhà này gồm cha mẹ, sui gia, anh chị em, con cháu... Mỗi gia đình trung bình mười người.
2. Bà con và bạn bè xóm trên, mời đại diện hai mươi người.
3. Hương chức hội tề, làng xóm đại diện mười người.
4. Bà con xóm ruộng sau đình, đại diện mười người.
5. Ông Từng Khạo và anh chị em làm ruộng muối, mười người.
6. Anh chị em làm lưới biển bên xóm Cây Bàng, mười người.
7. Bạn hàng cá tép của con Pậu, mười người.
Các nhóm khách tính sơ đã tới một trăm hai chục người. Theo phong tục, tập quán xứ này thì vợ chồng đi dự thường dẫn theo con nít trong nhà. Áng chừng số khách ăn phải dự trù tới hai trăm người. Thời gian đó lại còn có cánh thợ gặt tới nữa, không thể keo kiệt không mời những người tới làm cho mình. Thói quen đãi đám ở xứ này chỉ tính theo ngày, chứ không tính theo giờ.
Hễ mời ngày nào thì cứ sáng sớm ngày đó là đãi. Nếu khách ở xa tới trước vài ngày cũng được. Đúng ngày làm đám, ai tới trước thì đãi trước, cứ đủ một bàn mười người là dọn ăn. Cứ như vậy, đãi từ hừng đông cho tới khuya. Khách nào muốn ở lại ăn nhậu tới rồi đám, thì gia chủ cũng không phiền hà gì.
Vậy nếu mời một trăm hai mươi khách thì dự trù hai trăm rưỡi người ở lại ăn, mà ăn ba bữa. Gia chủ cần chuẩn bị ít nhất năm trăm phần ăn. Tuy nhiên bàn ghế thì không cần nhiều, chỉ cần năm bộ. Mỗi bộ gồm một cái bàn và mười cái ghế đẩu, mỗi nhà đang có sẵn một bộ, nếu thiếu thì dọn lên chõng, bộ ngựa hay trải đệm, trải chiếu dưới đất cũng được.
Vợ Hai Cự tính, đồ ăn cần chuẩn bị là sáu con heo, một trăm con vịt, một trăm con gà, rau cải mua ngoài chợ. Nước uống có nước mưa, nước chanh đường, hột é, lười ươi. Rượu công xi ai uống nấy mua. Ngoài ra cần một số tiền để mua gia vị và lễ vật.
Tối bữa đó, Hai Cự triệu tập cuộc họp năm gia đình lại để phân công cụ thể. Hai Cự hắng giọng rồi nghiêm trang lên tiếng:
- Bây giờ đàng trai là vợ chồng Hai Cự, vợ chồng Tư Thắng, vợ chồng Năm Mãi ngồi một bên, còn đàng gái là vợ chồng Ba Phách, vợ chồng Năm Cò ngồi một bên, rồi mình bàn chuyện.
Sau khi mọi người yên chỗ, Hai Cự bắt đầu:
- Thằng Xích Thốn và con Pậu tứ cố vô thân tới đây, anh em mình nhận tụi nó là em kết nghĩa, giờ tụi nó thành gia thất thì mình phải lo cho em út hết lòng, mới xứng đáng làm anh chị, còn để cho chòm xóm ngó vô và để làm gương cho con cháu sau này. Các em thấy phải không?
Anh Ba Phách nói với giọng nghiêm nghị:
- Dạ anh Hai nói phải lắm! Một tiếng kêu là anh chị thì mình cũng phải ăn ở cho đúng đạo lý làm người.
Thật cảm động khi cả năm cặp vợ chồng ít học, sống nơi hoang dã này lại cùng một suy nghĩ như vậy.
- Giờ anh tính như vầy, anh nói các em nghe rồi cho ý kiến.
- Anh tính đám này mời khoảng một trăm tới một trăm hai mươi người chớ không ít. Theo lệ thường mời một trăm khách thì tới dự khoảng hai trăm người. Dân của mình ai tới mình cũng đãi hết. Có người không được mời mà tới, mình không thể từ chối. Cứ hai trăm khách ăn ba bữa thì phải chuẩn bị ít nhất năm trăm phần ăn.
- Ước tính từ bây giờ mình phải nuôi sáu con heo, một trăm gà, một trăm vịt sen, vài chục vịt xiêm. Tới đó thêm vài cần xé tép để lăn bột chiên. Gia vị, nước non, lễ lộc, rau cải thì đi chợ mua, cần một số tiền mặt. Mấy em thấy sao cho ý kiến?
Ba Phách đại diện đàng gái nói:
- Anh Hai tính số khách mời và số heo gà vịt cũng đúng rồi. Giờ đàng gái xin lãnh phần nuôi heo và nuôi vịt sen thả đồng. Còn vịt xiêm với gà thì chia nhau sáu nhà cùng nuôi, tới đó góp lại là đủ số. Chỉ có tiền mặt thì chưa biết tính sao đây.
Hai Cự trả lời mau lẹ:
- Tiền chợ tất nhiên đàng trai phải lo rồi. Thằng Xích Thốn nó có sức khiêng vác, mùa lúa này nó đi vác lúa mướn. Hết lúa thì qua vác muối lấy tiền mặt. Với lại mùa rồi nó cũng còn để dành được một mớ. Hai món đó cộng lại nếu còn thiếu thì anh chị ứng trước cho nó mượn rồi từ từ nuôi heo trả lại sau. Các em thấy sao, cho ý kiến?
Mọi người xì xầm bàn tán nhau một hồi, Ba Phách đứng lên thay mặt mọi người:
- Anh Hai, chị Hai định liệu như vậy tốt rồi, giờ còn tiền bắt heo, gà, vịt giống về nuôi lấy ở đâu ra?
- Được rồi, chuyện này anh chị cũng có tính rồi. Bên nhà ông bà già vợ anh có hai con heo nái, đẻ được hai bầy. Nhưng đợt này vô mùa gặt, nhiều công chuyện, thiếu người làm nên bà ngoại bán bớt một bầy, chỉ giữ nuôi một bầy thôi. Anh chị mua chịu cho tụi em nuôi, lựa bầy lớn, biết ăn rồi. Nuôi tới đó chắc được cả tạ một con.
- Còn vịt sen thì ra lò ấp mua giống. Gà thì dồn trứng lại đầy ổ cho mấy con ấp, còn lại cho ấp trứng vịt xiêm.
- Đồ ăn nuôi heo ra công xi rượu chở hèm về, ngoài đó họ cho không. Rau cho heo ăn thì thằng Xích Thốn đi làm muối chiều cắt rau sam về. Vậy được chưa? Các em có ý kiến gì thêm?
Vợ Ba Phách đưa tay lên, rụt rè nói:
- Đàng gái muốn xin cho cô dâu một đôi bông, năm phân hay một chỉ vàng được không? Một đời con gái có một lần, nếu mình ráng được thì nó mừng lắm.
Mọi người bất chợt yên lặng, xúc động... Lời của vợ Ba Phách thiệt chí lý, thấu tim gan mọi người. Chuyện tốt đẹp và ý nghĩa như vậy mà sao mọi người lại quên!
Lần lượt vợ Hai Cự, vợ Tư Thắng, Năm Mãi và Năm Cò đưa tay tán thành:
- Chị Ba nói đúng, mình có đủ cha mẹ hai bên mà hồi đó lấy chồng, mẹ chồng cho đôi bông mà mình còn rưng rưng nước mắt, vui sướng gìn giữ tới bây giờ. Huống chi con Pậu, nó tứ cố vô thân như vậy mà khi lấy chồng được đôi bông, chắc sẽ mừng phát khóc.
Mọi người tính sẽ dành ra một khoảng tiền mua một đôi bông tai cho cô dâu. Nhưng bằng vàng chín hay vàng mười, năm phân hay một chỉ gì thì chưa tính, sẽ tùy vào tiền có lúc đó.
Buổi họp tới đó có vẻ hết ý và chu đáo rồi, Hai Cự định nói lời kết thúc, bỗng dưng vợ Năm Cò rụt rè đưa tay lên:
- Em lấy anh Cò Chiên có bốn mặt con rồi mà em cũng chưa có đôi bông…!
Các chị em ồ lên một tiếng, trố mắt nhìn Năm Cò. Năm Cò lúng túng đỏ mặt, ngọng nghịu nói:
- Hồi đó tui mồ côi đi ở rể mà! Bên vợ lo hết, tui chỉ lấy công làm. Sau này có đồng nào đưa vợ con hết, có biết tiền bạc gì đâu!
Vợ Năm Cò là người Khmer nên cô thật thà, nghĩ gì nói nấy, không biết kiêng cữ, cô nói những lời thiệt tình tự đáy lòng mình.
Vợ Hai Cự lên tiếng:
- Ở đây tui là chị lớn, tui xử như vầy. Chú Năm Cò kỳ này nuôi thêm vịt, thêm heo để sắm cho cô Năm một đôi bông tai bù lại.
- Thím Năm hồi trước làm đám cưới hồi tháng nào?
- Dạ cũng tháng Mười một, sau mùa gặt.
- Vậy thì kịp thời, chú Năm lo nuôi thêm vịt, thêm vào một cặp heo đi. Tới đó tui bán heo sắm bông luôn cho thím Năm.
Vợ Năm Cò sáng mắt, rạng rỡ cười, đưa đủ ba mươi hai cái răng trắng sáng trên nền da nâu bóng của cô gái Khmer. Mấy chị kia, ai cũng cười vui vẻ.
Họ nói với nhau về những kỷ niệm đám cưới của mình, ngày xưa mẹ chồng cho loại bông gì và tới giờ họ vẫn giữ kỹ. Dù cũng có lúc khó khăn phải bán ruộng, bán xuồng.
- Vậy giải tán nha, mọi người dìa bàn với nhau cách làm.
Buổi tối thật đẹp, chan chứa tình người.
Ngày hôm sau chương trình hành động được tiến hành theo kế hoạch định sẵn. Hai Cự truyền đạt kế hoạch với Xích Thốn. Chị Hai Cự sắp xếp cho cô Pậu làm chuồng nuôi heo. Công việc được phân chia rõ ràng, cô Pậu nuôi sáu con heo con. Năm Cò gửi thêm hai con để mua bông cho vợ, đồng thời anh lãnh nhiệm vụ đi chở hèm và cám. Xích Thốn được giao nhiệm vụ cắt rau sam biển, cô Pậu đặt vó lấy thêm cá tép, nấu với muối tẩm bổ thêm cho bầy heo. Và đương nhiên nhiệm vụ quan trọng nhất của cô Pậu là nuôi heo.
Pậu vui lắm khi thấy các anh chị chu đáo như vậy. Chỉ có điều cô chưa biết là cô sẽ có một đôi bông tai vào ngày cưới. Vợ Hai Cự dặn mọi người giấu kín chuyện này.
Vợ chồng Năm Cò bắt một trăm con vịt sen về dí bồ nuôi, vài chục trứng vịt xiêm thì cho mấy con gà ấp. Mỗi con gà ấp hai chục trứng gà, còn trứng vịt thì mỗi con gà ấp mười hai trứng. Vài bữa thăm thấy trứng nào không có trống, vữa thì loại bỏ.
Pậu thầm tính trong bụng, tới mùa gặt cho heo ăn xong nó sẽ đi vác lúa để kiếm tiền phụ với Xích Thốn, thêm được đồng nào đỡ đồng nấy.
Tháng Mười âm lịch đã gần hết mùa mưa, lúa đã chín vung mâm xôi. Trên cánh đồng, một màu vàng ấm áp chạy tới những hàng cây xa cuối chân trời. Buổi sáng mặt trời mọc trễ, bảy giờ sáng ruộng lúa vẫn còn chìm trong sương mù. Ban đêm lành lạnh và đêm dài hơn ngày, “Tháng Mười chưa cười thì tối”. Cánh rừng cóc bên kia kinh đã trổ bông mãn khai, nhìn từ xa rừng như được phủ một lớp sương muối long lanh.
Những tia sáng yếu ớt của mặt trời đang cố gắng đẩy lui màng sương mù trên ruộng lúa. Không gian phút này trở nên huyền ảo, lớp sương mù phủ dày nằm im trên đồng bỗng chuyển động rồi cuồn cuộn quấn quýt nhau tỏa lên rồi tan dần. Mặt trời ló dạng, chiếu những tia sáng rực rỡ đầu tiên. Lũ chim bìm bịp bỗng dưng đồng thanh cất tiếng kêu “bịp bịp…” vang động một vùng.
Bên kia dòng kinh, cánh đồng muối cũng bắt đầu vào vụ. Diêm dân đi từng nhóm phát quang những lùm bụi mọc trong mùa mưa. Họ dọn cỏ, vét mương, làm nền đất trên các khuôn lắng nước, dọn lớp rong rêu trên sân, ghè, nện, đầm, trục mặt sân phơi chuẩn bị cho một mùa muối mới.
Xích Thốn lêu nghêu, đen thui làm chung với nhóm diêm dân này. Anh đang kiếm tiền theo kế hoạch của anh Hai Cự. Tháng này muối chưa vô vụ, công việc chưa có gì nặng nhọc, chỉ là vét mương, làm sân phơi, đắp lại bờ, diêm dân làm tính theo công ngày và làm sáu tiếng, từ năm giờ sáng tới mười một giờ trưa thì nghỉ. Tháng sau vô vụ, có thu hoạch muối thì làm một ngày ngoài nắng gắt, cào muối gom đống, vác muối về tu thì được tính theo sản lượng, tiền công của anh cao gấp ba lần người khác.
Đầu phơi nắng, trên vai ba giạ muối, hai bàn chân đạp trên những hột muối bén nhọn mới kết tinh, đối với anh không hề hấn gì. Tựa như con trâu đi trên đồng cỏ hay như một nho sinh du xuân trên cỏ non.
Buổi trưa, xong việc trên ruộng muối, Xích Thốn đi cắt một bao cà ròn[23] rau sam vác về để cô Pậu cho heo ăn.
Cơm trưa xong, anh lội qua bên ruộng. Anh khoái lội nước cho mát vì đi cầu khỉ thì phải trở lên ngang đình mới có cầu, đường xa hơn, có khi vì anh nặng quá, bị gãy cầu...
Bên ruộng lúa nông dân đang gấp rút chuẩn bị cho mùa thu hoạch. Mọi người mau chóng vét lại các đường nước để xuồng lòi lúa về sân phơi. Họ sửa lại sân phơi, đầm ghè cho láng mặt sân, chuẩn bị mấy cái cộ cho trâu kéo lúa, làm thêm đòn xóc gánh lúa. Một cây đòn xóc hai đầu nhọn, dài từ một sải tay tới hai sải tay. Mỗi đầu xuyên được từ ba đến sáu bó lúa, cứ “ba bó thì vô một giạ”.
Cô Pậu làm đủ thứ việc, hừng đông cho heo ăn rồi đi chợ bán cá tép, xong rồi thì về lo cơm nước. Nước lớn phơi lưới thì đi đươn mê bồ kiếm tiền công. Nước ròng về đặt vó, thời gian chờ dỡ vó thì cho heo gà ăn, cô làm liền tay mà không biết mệt.
Mấy chị em khác cũng vậy, lớp lo nhà cửa, con cái, heo gà, lớp thì chuẩn bị cho mùa gặt sắp tới trong một hai tuần nữa.
Vậy mà buổi tối còn thức đêm đặt vó vì tháng này cá đồng đang xuống kinh, cá chạy nhiều, dỡ vó phát ham.
Anh Hai Cự mùa này lên chức Từng Khạo ruộng muối, Xích Thốn làm cu li. Anh Ba Phách thì chỉ huy việc gặt lúa cho cả năm nhà. Năm Cò chăn bầy vịt sen và chở hèm nuôi heo, thời gian còn thì phụ việc cho anh Ba Phách.
Tư Thắng và Năm Mãi đi bạn ghe biển hàng khơi kiếm tiền ăn Tết nên không ở nhà.
Ông Sư Từ cũng lo gặt hai công lúa của đình, vài ngày ông vô thăm miễu một lần và ngủ lại cho ấm khói nhang. Hai con chồn đèn đã lớn bộn, Xích Thốn để đồ ăn sẵn cho tụi nó và mở cửa chuồng cho hai đứa tự do. Nhưng hai con chồn này quen hơi Xích Thốn rồi nên chúng nó đi đâu chỉ một lát cũng trở về chui vào lồng, nằm trên cái áo màu phá lấu của Xích Thốn, chờ chủ về vuốt ve.
Các nhóm thợ gặt miệt trên xuống gặt lúa mướn, vai mang vòng hái, lưng quảy nóp, đầu quấn khăn rằn đã lác đác kéo về xóm ruộng.
Họ xin ngủ nhờ trong đình như mọi năm, có nhóm thì ngủ nhà chủ ruộng. Làm ở đâu thì ngủ gần đó cho đỡ tốn thời gian đi lại. Có hai dì cháu thợ gặt ở làng An Trạch thấy cô Pậu ở một mình nên tới xin ngủ nhờ. Cô Pậu vui vẻ chấp thuận ngay. Đây là lần đầu tiên trong đời cô có nhà và cho người khác ở nhờ nhà mình. Cô Pậu đối xử thật trân trọng với hai người khách này. Hai dì cháu cảm được sự chân thành của cô Pậu nên khi rảnh cũng tiếp làm mọi thứ việc nhà. Ngôi nhà trở nên rộn ràng sinh khí.
Lúa chín “đông ken”[24] khắp cánh đồng. Mọi người tất bật với vụ mùa.
- Không chỗ nào công chuyện làm nhiều như ở xứ này.
Hai dì cháu thợ gặt ở nhờ nhà cô Pậu chép miệng nói.
Kế hoạch nuôi heo gà vịt diễn ra đúng tiến độ. Bầy vịt sen giờ đã “mặc áo lá lành”[25], cũng gần tới lứa.
Bầy heo khi mới bắt về một con chưa tới hai chục ký, cô Pậu khéo nuôi giờ tròn trịa ú nu. Gà, vịt xiêm thì chạy lung tung, nhà nào cũng có. Mùa gặt này chúng ăn cào cào, châu chấu, lúa rụng, bông cỏ, tép trấu và cá lòng tong nhảy hầm… con nào con nấy mập mạp và mau lớn.
Việc làm công của Xích Thốn cũng thuận lợi. Anh nôn có vợ nên ra sức trâu làm được bộn. Tiền công được bao nhiêu anh gửi vợ chồng anh Hai Cự cất giùm hết. Vợ chồng Hai Cự ghi chép sổ sách rất minh bạch và mỗi tuần báo con số cho mọi người biết.
Ông Sư Từ lặng lẽ quan sát mọi việc, ông rất vui mừng.
Xứ này là đất lành, không nóng, không lạnh, thuận lợi cho dân chúng làm ăn, công việc nhiều làm không hết. Con người thiệt thà ngay thẳng, nghĩa khí.
Ông tới đây gần ba chục năm rồi nên ông hiểu rõ. Ông nghĩ thầm tương lai vùng đất này sẽ rất trù phú và sẽ sanh ra nhiều hiền nhân tài giỏi. Ông cười vui một mình.
Ông coi ngày đám cưới cho Xích Thốn và cô Pậu là 20 tháng Mười một âm lịch. Lúc đó lúa cũng dí bồ rồi, việc thu hoạch cũng tạm xong, mọi người có thời gian rảnh, mọi nhà bán lúa có tiền.
Coi ngày cưới gả cũng phải theo mùa vụ và theo hoàn cảnh thôi, chớ ngày nào cũng của trời đất, ngày nào cũng tốt hết. Ông tự nhủ như vậy.
Tháng chẵn thì chọn ngày lẻ, tháng lẻ thì chọn ngày chẵn, khác một chút cho vui vậy thôi chớ cuộc đời của tụi nó sau này là do phần phước và nhân quả của tụi nó, đâu do ngày tháng tốt xấu mà mê tín.
Đầu tháng Mười một ghe biển hàng khơi trở về nhà, tới mùa lên nề tu bổ ghe hàng năm.
Mùa này gió bấc thổi, sóng lớn hơn mùa chướng. Gió bấc là gió anh cả, nó không thổi nhiều liên tục như gió chướng, nhưng khi thổi thì gió lớn, lạnh, xoáy và giựt. Thật nguy hiểm cho những chiếc ghe nhỏ và vỏ yếu, nên ngư dân đều về nghỉ ngơi lên nề, sửa ghe.
Mùa này cũng là mùa gặt lúa, về nhà tiếp vợ làm lúa và sửa nhà ăn Tết. Một năm đi biển tới tháng này cũng đã rồi.
Anh Tư Thắng và Năm Mãi trở về nhà, cả chòm nhà lá sáu căn cuối xóm ai cũng vui mừng. Nhưng vui nhất là chị Tư và chị Năm vì có người xúc lúa đổ vô bồ cho mình rồi. Hai chị tươi tắn cười nói suốt ngày.
Bên ruộng muối cũng bắt đầu có muối, diêm dân cào đống trên sân kết tinh, chờ vài hôm ráo nước ót rồi vác xuống xuồng, lòi về tu muối. Anh Hai Cự và Xích Thốn làm việc từ sáng tới tối mới về nhà.
Anh Ba Phách xấp mặt trên sân đập chỉ huy công việc phơi và giê lúa, lấy lúa chắc về cho năm gia đình.
Lúa của ruộng ai thì chị đó cho người vác về nhà mình.
Năm Cò cầm cây sào tre, đầu đội nón lá rách te tua, chăn vịt chạy đồng. Anh lùa bầy vịt từ đám ruộng này qua đám ruộng khác để chúng nó ăn lúa rớt, ốc, cua, cá tép còn mắc kẹt lại trên ruộng. Tối anh lật nóp ngủ ngoài ruộng với bầy vịt. Sáng sớm và chiều tối vợ anh xách cơm nước ra cho anh, hai lần một ngày. Năm Cò Chiên cũng đen thui, vợ anh thì đen bóng.
Bầy vịt sen gần tới lứa, con nào con nấy bự xự, trắng mướt. Còn chừng hai tuần nữa tới rằm lùa về dí chuồng cho ăn thúc là làm thịt được.
Cô Pậu cũng đạt kế hoạch nuôi heo, nhờ hai dì cháu thợ gặt ở đậu cắt rau, nấu cháo tiếp cho heo ăn thêm một cữ chạng vạng. Vợ Năm Cò thay chồng đi chở hèm ngoài công xi rượu. Chị mượn chiếc tam bản một trăm giạ để chở được nhiều hơn. Mỗi lần chở, bầy heo ăn được ba ngày. Vợ Năm Cò giỏi tính toán và khéo léo hơn Năm Cò xa, cô nhỏ nhắn hơn nhưng đi lấy hèm lại được nhiều hơn gấp ba lần chồng mình.
Hình như chị nào cũng giỏi hơn chồng về chuyện tính toán, sắp đặt.
Ông Sư Từ đen thui, ông cầm cây cào đứng phơi lúa trên sân đình. Năm nay lúa trúng, hai công ruộng của đình được gần bốn chục giạ.
Năm gia đình như thường lệ, hàng năm mỗi nhà cúng cho đình mười giạ lúa. Ông Sư Từ làm cái bồ dí một trăm giạ là đủ ăn, đủ cúng suốt năm.
Mọi chuyện từ gặt, lòi về sân đập, giê lúa, ông Sư Từ đều tự làm. Ông nói:
- Có ăn thì có làm, còn sức thì phải tự làm. Nếu để người khác cung phụng cho mình thì kiếp sau sẽ đầu thai trả lại cho họ.
Ông tuyệt đối tin vào nhân quả.
Cái bồ lúa của ông đẹp và gọn. Vách mê bồ, ông trét cứt trâu, trộn đất sét hai lớp trong ngoài. Đáy bồ để một lớp rơm dầy cao lên ba tấc rồi trét đất, trộn cứt trâu cho liền láng, viền chân đánh một con cúi rơm, tết bính thiệt ngộ. Bên trên đánh hai cái đai bằng trúc lục bình đập dập, niền lại để cho bồ lúa đừng bị sạt. Ông nói:
- Làm bồ như vậy mới giữ được hai ba mùa. Lúa không bị ẩm, bị lọt kẽ rớt ra ngoài và cũng không bị mối mọt, gà vịt, chuột bọ phá.
Ông Sư Từ là người miệt trên, ông đem những cái hay của vùng quê ông xuống dạy cho người dân miệt dưới này. Ông rất giỏi về làm vườn và trồng cây thuốc nam. Dân ở đây chỉ giỏi làm muối, đi rừng, đi biển và bắt cá thôi.
X
Gần tới ngày đám cưới, anh Hai Cự cử người qua đình đốn tre về dựng rạp, anh biểu anh em đốn loại tre mỡ cho nó suôn và thẳng. Tre mỡ làm rạp đẹp hơn tre gai. Tre gai tuy cứng hơn, xài bền hơn, thịt dày hơn tre mỡ nhưng việc dựng rạp này thì không cần đến tre gai. Tre gai để làm đòn gánh, kèo mui ghe thì bền nhứt.
Anh cho người khác lấy ghe tam bản đi đốn lá dừa nước về xé đôi trải trên mái rạp che nắng, tháng này hết mưa rồi. Lá dừa nước cứ đi dọc theo kinh, chỗ nào có thì đốn, đa phần các đám lá đều mọc hoang, đám lá nào có chủ thì hỏi xin, người ta cho liền.
Dây buộc thì vô rừng cóc, rút mây dóc và dây choại về buộc.
Bữa sau, một cái rạp tre lá tươm tất đã được dựng lên trên sân trước nhà cô Pậu. Các anh còn trang trí cổng vòng nguyệt bằng lá tàu dừa xé đôi và tề bớt ngọn, chân rạp bắt chéo dấu nhơn dưới cây đà ngang, không cần vải màn, bông hoa gì hết, tất cả đều thay thế bằng lá dừa, coi cũng đẹp mắt và tươm tất. Nghề dựng rạp tre lá này ở nông thôn ai cũng biết làm. Nền đất được rải thêm muối đen và đầm nện lại cho bằng phẳng. Dân ruộng muối ai cũng biết làm nền bằng muối đen là đẹp nhất.
- Bàn tròn, bàn dài và ghế đẩu mỗi nhà cho mượn một bộ, ai cho mượn thì nấy đem qua, còn thiếu bao nhiêu thì lên đình mượn.
Anh Ba Phách nói gọn như vậy.
Chuyện bếp núc thì năm chị tập trung lại lo, mỗi người phụ trách một việc. Người phụ việc mượn ở xóm trên và xóm ruộng qua tiếp. Dân quê mà, đầu trên xóm dưới hữu sự thì mọi người tự động tới dùm, không có ai lấy tiền công bao giờ.
Thực đơn mới đầu mấy chị tính chỉ làm ba món: canh, món mặn và món xào để ăn cơm, đồ nhậu thì mấy ông nhậu tự lo. Nhưng để lâu ngày và càng bàn thì càng cãi… bên đàng gái đòi thêm một món thì bên đàng trai thêm một món, rốt cuộc thành bảy món, cũng không thua bất cứ đám cưới nào.
Chị Hai Cự nói:
- Thôi kệ, tụi mình “làm lớn thì phải làm láo thôi!”. Với lại chòm nhà cuối xóm này mới có tiệc vui lần đầu, làm lớn cả xóm ăn nhậu một bữa cho đã đời.
Cuối cùng thực đơn được các chị quyết định như sau:
- Tôm lăn bột chiên
- Cải xanh gà luộc
- Vịt khìa phá lấu
- Thịt heo kho tàu
- Ba rọi xào cải rổ
- Giò heo nấu củ cải sa pấu (xá bấu)
- Cơm trắng
Chợ Bạc Liêu cách đình Giồng Me độ chừng ba cây số đi bộ, qua đò công xi rượu vài trăm thước tới bệnh viện tỉnh, qua bệnh viện một đỗi thì tới chợ nhà lồng.
Chợ Bạc Liêu khoảng những năm 1921-1935. Nguồn: https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/5576120988/
Còn đi xuồng nếu nước ròng thì từ đình chèo xuôi nước dọc kinh Giồng Me ra vàm Cầu Kè khoảng hai cây số, từ vàm vô sông Bạc Liêu chỉ vài trăm thước là tới nhà công tử Bạc Liêu, qua nhà công tử là tới cầu Quay và chợ. Thật tiện lợi cả hai đường thủy bộ, đường nào cũng chỉ tốn chừng nửa tiếng đồng hồ.
Chợ Bạc Liêu rất sung túc, món gì cũng có bán, sợ không có tiền mua thôi.
Chỉ cần một buổi chợ là chị Hai Cự đã có đủ mọi thứ cần dùng cho tiệc cưới.
Chiều 19 làm heo gà vịt, nấu sẵn một vài món như vịt khìa, thịt kho tàu, củ cải sa pấu hầm giò heo,… còn lại các món xào, chiên thì sáng 20 dậy sớm nấu cơm và làm luôn cho ngon.
20 tháng Mười một là ngày trọng đại đối với cuộc đời Xích Thốn và Pậu, hai đứa được tất cả anh chị ở chòm nhà cuối xóm Giồng Me, đại diện cho gia đình và xóm làng công nhận chính thức thành vợ chồng.
Điều này cũng có nghĩa là hai đứa thành công dân Giồng Me chính danh và Giồng Me chính thức là quê hương của hai đứa nó.
Đám cưới này không giống như những đám cưới khác, có đủ bà con họ hàng và “môn đăng hộ đối”. Xích Thốn và Pậu là hai kẻ cô độc, không có gia đình, nhà cửa tài sản gì. Chúng nó chỉ có hoàn cảnh đáng thương, tánh tình thực thà, ngay chính. Dân xóm này thấy tụi nó xứng đáng được cứu giúp, cần thiết cứu giúp thì giúp tới bến thôi.
Mặt trời lên chừng một sào, trời sáng tỏ và mát mẻ, khách khứa tề tựu khá đủ.
Nhà cô Pậu không có bàn thờ tổ tiên nên anh Hai Cự cho đặt hai cái bàn hình chữ nhật trước nhà, trên bàn đặt một khay trầu rượu, hai bên mỗi bên tám cái ghế đẩu. Bên trái là họ đàng trai gồm vợ chồng Hai Cự, vợ chồng Tư Thắng, vợ chồng Năm Mãi, ba má vợ Hai Cự ngồi làm trưởng lão, bên phải là họ đàng gái gồm vợ chồng Ba Phách, vợ chồng Năm Cò, ba má vợ Ba Phách và ba má vợ Năm Cò làm trưởng lão.
Cha mẹ của Hai Cự, Ba Phách, Tư Thắng và Năm Mãi đã mất lâu rồi. Năm Cò mồ côi từ nhỏ nên số người lớn ngồi họ chỉ có vậy. Bốn cặp lão niên và bốn cặp trung niên tổng cộng 16 người cũng đủ cân xứng và đẹp.
Anh Hai Cự làm chủ hôn đứng ở đầu bàn. Xích Thốn và Pậu đứng kế anh Hai Cự, hai đứa nó bận quần áo cũ thường ngày, đứng im như trời trồng.
Anh Hai Cự dõng dạc tuyên bố, đúng kiểu “Từng Khạo” hơn là kiểu chủ hôn:
- Bữa nay ngày lành tháng tốt, tui thay mặt bác Sư Từ, họ đàng trai và họ đàng gái tuyên bố hai em Xích Thốn và Pậu chính thức thành vợ chồng.
Anh Hai Cự dừng lại một chút, mọi người vỗ tay chúc mừng nồng nhiệt. Sau tiếng vỗ tay dứt, Hai Cự nói tiếp:
- Đám cưới này, do hoàn cảnh hai em thật đặc biệt nên phần lễ lộc, nghi thức anh em tụi tui cũng bàn nhau chế lại cho phù hợp, xin các bậc cô bác, trưởng thượng thông cảm châm chước cho vì hai em không có gia đình. Nhưng từ nay về sau, các đám cưới khác đều phải làm theo đúng phong tục của ông bà để lại, không được làm khác.
Hai Cự dõng dạc giải thích thêm:
- Thứ nhứt, đám cưới này tất cả các lễ sơ vấn, trình ngày, đám hỏi, đám cưới đều gom lại một lễ trong hôm nay, không có lễ khác; thứ hai, đám này không có lễ lên đèn, không có lễ gia tiên và lạy ông bà cha mẹ, hai em chỉ thắp ba cây nhang và xá bà con cô bác, anh chị em có mặt hôm nay ba xá là đủ; thứ ba, đám không có rước dâu, đưa dâu, không có đòi vòng vàng, tiền bạc, lễ vật, chỉ có trầu rượu mời bậc trưởng thượng và cô bác chứng kiến là đủ; thứ tư, người ở bên này bờ kinh là họ đàng trai, người ở bên kia bờ kinh là họ đàng gái. Hai bên chia ra ngồi và tiếp đãi nhau chu đáo. Bà con ai tới chúc mừng cũng quý, cũng được mời cơm ba bữa, ai uống rượu thì mang rượu tới, ai muốn ăn bánh, uống trà thì mang tới, ai cột tay hay không có tiền cột tay cũng ngồi ghế đẩu như nhau, cũng được quý trọng, đối đãi như nhau, không phân biệt.
Mọi người vỗ tay đôm đốp cười vang.
Anh Hai Cự đúng là người có tài ăn nói, ông Sư Từ dặn anh có mấy câu mà anh nói ra tràng giang đại hải hay hơn ông Sư Từ gấp mấy lần.
- Bây giờ dâu rể dâng ba cây nhang kính tổ tiên trời đất, tiếp theo là phần dâu rể ra mắt dâng trầu rượu cho bậc trưởng thượng.
Anh Hai Cự rót rượu vô hai cái ly trong khay trầu rượu rồi chị Hai hướng dẫn cô dâu chú rể đi mời trầu rượu mười sáu người ngồi bàn đại diện cho hai họ.
Xích Thốn khom người xuống lóng ngóng như con ngỗng đực, mời rượu các ông, còn Pậu nhanh nhẹn bưng dĩa trầu đã têm sẵn mời các bà.
- Lễ dâng trầu rượu xong, quý vị trưởng thượng đã hoan hỉ nhận lễ rồi, chủ hôn xin tuyên bố, lễ thành, phần còn lại xin mời cô bác muốn tặng quà hay nói lời giáo huấn gì cho dâu rể thì mời nói. Nếu không có ai nói thì dọn đồ ăn lên khai tiệc.
Bỗng dưng chị Hai Cự đứng lên hấp tấp la lớn, đầy xúc động:
- Khoan, chờ tui một chút, phần này trong chương trình không có tính, nhưng giờ chót chị em tui đại diện đàng trai thấy thương em Pậu quá nên tui nói với vợ chồng chú Tư Thắng, vợ chồng chú Năm Mãi hùn tiền sắm cho cô dâu một đôi bông vàng y một chỉ và sợi dây chuyền hai chỉ.
- Bây giờ mời thím Tư và thím Năm lên, mỗi người một bên, đeo bông cho cô dâu, còn chị đeo sợi dây chuyền cho cô dâu.
Cả đám cưới bỗng dưng im lặng, ai nấy có vẻ sững sờ trước diễn biến này. Ba bà chị nhà quê lam lũ bữa nay làm người lớn nở mặt nở mày, cầm chiếc hộp kim hoàn hình trái cau đỏ bước lên mỗi người một bên cô dâu, mở hộp ra mỗi người một chiếc bông cầm trên tay, chị Tư Thắng đưa tay vén tóc Pậu, chị thảng thốt kêu lên:
- Chết mẹ rồi, nó chưa xỏ lỗ tai.
Pậu bỗng òa khóc, cả bàn hai họ đều lúng túng. Chị Hai Cự nhanh trí nói nhỏ với Pậu:
- Em cúi xuống, chị đeo dây chuyền cho.
- Nín khóc mầy, đeo dây chuyền rồi, mầy đưa hai bàn tay ra hai bên, chị Tư và chị Năm nhét vô tay mầy mỗi bên một chiếc bông. Mai mốt mầy rảnh, qua tao xỏ lỗ tai đeo cho.
Pậu làm theo lời chị Hai Cự như một cái máy. Nó thiệt xúc động, nó hoàn toàn bất ngờ trước món quà tặng quý giá được các anh chị kết nghĩa bí mật chuẩn bị cho nó vào giờ phút này.
Chị Hai Cự, chị Tư Thắng và chị Năm Mãi bước xuống trở lại chỗ ngồi. Các anh nhìn nhau kín đáo, mỉm cười. Cả tiệc lúc này nhốn nháo, mọi người bất ngờ bàn tán sôi nổi.
Bỗng dưng chị Ba Phách đứng lên, trịnh trọng nói:
- Vợ chồng tui, vợ chồng chú Năm Cò đại diện đàng gái cũng có chút hồi môn cho cô dâu.
Nói xong chị Ba Phách liếc mắt nhìn vợ Năm Cò, hãnh diện nhìn qua các chị đại diện đàng trai cười mỉm chi một cái:
- Hai chị em tui cũng dành dụm mỗi người một chút mua được hai chiếc cà rá, mỗi chiếc một chỉ vàng mười, làm của hồi môn cho hai em.
Nói rồi chị Ba Phách và chị Năm Cò bước lên móc trong túi áo bà ba ra mỗi người một cái hộp trái cau lấy ra hai chiếc cà rá. Chị Ba Phách đeo cho Xích Thốn còn chị Năm Cò thì đeo cho Pậu vô ngón áp út.
Chuyện này đã được hai chị đo đạc tính toán kỹ nên hai chiếc nhẫn vừa y vô tay dâu rể.
Pậu khóc nữa, lần này không có tiếng, nó bậm môi lại, nước mắt giàn giụa và thi thoảng nấc trong cổ họng. Xích Thốn cũng khóc, nhưng không có nước mắt và cũng không có tiếng, cái mặt nó co rúm lại, miệng mếu một bên, trông thật xấu và tức cười.
Cả đám cưới lại một phen nữa vỗ tay reo hò, đám cưới này thật nhiều bất ngờ, vui quá. Chị Ba Phách và chị Năm Cò về tới chỗ, ngồi xuống thì anh Hai Cự đi ra giữa bàn, chỗ chủ hôn đứng lúc nãy.
Bỗng dưng anh vỗ mạnh tay một tiếng rồi nói lớn:
- Còn nữa nè, bây giờ tới chú Năm Cò lên đứng đây.
- Chú Năm Cò cưới thím bao năm nay, ở với người ta có bốn mặt con rồi mà còn thiếu đôi bông. Năm Cò có hứa đi chăn vịt kỳ này mua đôi bông cho vợ, tui làm chứng vụ này, bây giờ nhân lúc này lên tặng bông chơ vợ đi.
Mọi người lại ồ lên, có mấy người cười lớn và la ó:
- Vui quá chời tụi mầy ơi...
Năm Cò với vợ khép nép đi lên đầu bàn, đứng kế ông chủ hôn.
- Bây giờ Năm Cò đeo bông cho vợ, trả nợ ân tình đi.
Mọi người cười ồ, Năm Cò run run đeo bông cho vợ. Anh lúng túng, bối rối và mếu như Xích Thốn lúc nãy, còn chị Năm Cò khóc, chảy hai hàng nước mắt sung sướng.
- Thím Năm bằng lòng rồi hé, thôi xuống bàn đi.
Đám cưới của Xích Thốn và Pậu tuy đơn giản mà thiệt là vui, có lẽ vì không bị ràng buộc bởi các nghi thức lùm xùm không cần thiết nên mọi người cảm thấy thoải mái và nhẹ nhàng.
Trên gương mặt của năm cặp vợ chồng đại diện hai họ, người ta thấy ngời lên vẻ hân hoan hạnh phúc. Trong ánh mắt của họ sáng lên vẻ đẹp thánh thiện, một thứ hạnh phúc trọn vẹn, của sự chân thành cho đi, không vụ lợi, không tính toán và so bì.
Gương mặt của Xích Thốn và Pậu cũng tràn ngập hạnh phúc nghẹt thở, nghẹn ngào. Nhưng thứ hạnh phúc này có vẻ nặng nề ân nghĩa chớ không nhẹ nhàng thoải mái.
Mới thấy, niềm vui và hạnh phúc của người cho đi bằng lòng chân thành, không vì danh lợi, lớn lao và quý giá hơn hạnh phúc của người được nhận.
Có thể nói kẻ cho lời hơn người nhận gấp mấy lần.
Anh Hai Cự bắt chước mấy ông quan viên trong các tiệc cưới của người Tiều lai ngoài chợ Bạc Liêu, anh kết thúc văn vẻ:
- Lễ thành hôn và vu quy đã hoàn mãn, mời quý vị quan khách khai tiệc.
Thiệt ra, hồi nãy giờ ở trên làm lễ thì ở dưới mọi người đã khai tiệc rồi. Hễ khách tới đủ bàn là dọn ăn, tục lệ như vậy lâu rồi. Mấy anh diêm dân ngồi chung với mấy anh ngư dân nhậu nhẹt vui vẻ, vừa ăn, vừa nhậu, vừa nghe, vừa chứng kiến…
Một tay lầm bầm nói vừa đủ cả bàn nghe:
- Vu quy, hoàn mãn cái con c…., Từng Khạo Cự bữa nay xổ nho chùm nói chữ quá xá!
Cả bọn cười ồ nâng ly lên mời Hai Cự. Chủ hôn Hai Cự không nghe được gì hết, chỉ thấy mọi người nâng ly lên vui vẻ nhìn mình cười, tưởng họ tán dương mình nói hay, anh cũng đưa tay lên vui vẻ chào đáp lại nói:
- Cám ơn, cám ơn…
Chị Ba Phách và chị Tư Thắng dẫn cô dâu chú rể đi chào bàn, đi tới đâu chị toàn giới thiệu thực đơn phong phú của mấy chị chứ không nghe chị giới thiệu câu nào về dâu rể.
Anh Hai Cự có nói, người không “cột tay”[26] cũng được tiếp đón trân trọng nhưng thực tế đa phần ngoài chuyện đem bánh rượu tới, mọi người đều chuẩn bị một bao lì xì nhỏ nhét vô túi của tân lang và tân nương. Cái túi áo bự tổ bố của Xích Thốn gần đầy luôn.
Không ngờ dân Bạc Liêu hào phóng như vậy, từ mấy đại ca khuân vác ngang tàng ngoài chợ, mấy anh chị diêm dân, ngư phủ, nông dân, thậm chí mấy anh chị thợ gặt ai cũng thủ trong tay một gói lì xì.
Xích Thốn và Pậu thật là sung sướng và cảm động. Hai đứa thầm cảm ơn Trời Phật, Bà Cậu đã đưa đẩy tụi nó tới vùng đất của những con người rộng rãi hào hiệp này.
Đám cưới nghèo không ngờ lại chật cứng người, có lẽ nhờ hội đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Thiên thời là trúng mùa gặt xong, mùa muối tới và ghe biển lên nề, mọi người tụ về.
Địa lợi là xóm này mới có đám cưới lần đầu tiên, ai cũng muốn tham gia một cuộc vui lâu rồi chưa được hưởng.
Nhân hòa là hoàn cảnh hai đứa đáng thương và người dân xứ này tốt bụng, sẵn sàng cưu mang cứu giúp.
Ông Sư Từ là người nhìn xa thấy rộng, liệu việc như thần. Chắc giờ này ông cũng đang vui âm thầm một mình trong đình. Chương trình ông tính cho hai vợ chồng Xích Thốn sau buổi trưa khi khách về hết thì vợ chồng qua đình để ông tụng một thời kinh cầu an cho tụi nó, đặng đời sống vợ chồng hạnh phúc. Sau đó hai vợ chồng dắt nhau về miễu lo nhang khói và ở đó luôn, coi như miếng đất khẩn ở miễu là để cho vợ chồng tụi nó lập nghiệp.
Gần trưa khách cao niên đã về hết, khách đàn ông, thanh niên hình như còn tới nhiều hơn, họ đem rượu tới, đồ ăn, mồi nhậu thì còn quá nhiều.
Phía bờ kinh gần cái cổng chào có mấy bàn nhậu ồn ào xôm tụ. Trước cửa nhà có một bàn nhậu khác tài tử hơn, đủ đờn kiềm, đờn cò, đờn lục huyền cầm và bộ nhịp song lang đàng hoàng. Đám con gái thích đờn ca ngồi quanh bàn văn nghệ để nghe ca hoặc chờ tới phiên mình khoe giọng. Đám con trai, mấy đứa thích con gái tụ lại sòng này.
Bên mấy sòng nhậu thì các tay hảo hớn anh hùng gom lại ngồi chung bàn, không còn phân biệt tuổi tác, già trẻ nữa. Họ thoải mái với những câu chuyện tiếu lâm và các trò vui, tự biên tự diễn của họ.
Anh Hai Cự, anh Ba Phách, anh Tư Thắng, Năm Cò và Năm Mãi cũng nhập vào đám nhậu này, vui bất biết.
Chị Hai Cự kêu vợ chồng Xích Thốn tới chào mọi người rồi qua đình cho Sư Ông tụng kinh cầu an.
Chị nói với hai đứa:
- Đừng chờ nữa, khách chưa về đâu, họ ở luôn tới tối, tiếp khách và dọn dẹp để mấy chị lo cho.
- Hai em qua đình rồi dìa miễu luôn đi.
Hai vợ chồng Xích Thốn tới chào sòng văn nghệ xong rồi qua chào sòng nhậu.
Mấy ông bà văn nghệ đang mê đờn ca nên chỉ gục gặc đầu từ giã chớ không lôi kéo chọc ghẹo tụi nó.
Chừng qua chào sòng nhậu thì một lão ngà ngà say kêu hai đứa đứng khoanh tay nghe lão dạy cho cách cư xử trong cuộc sống vợ chồng.
Giọng lão lè nhè:
- Nè con dâu, bữa nay mầy có chồng rồi để bác dạy cho mầy mấy câu để vợ chồng mầy về ăn ở cho hạnh phúc, mầy muốn nghe không?
- Dạ con muốn nghe bác Hai chỉ dạy.
Pậu mau mắn trả lời.
- Nè, phận đàn bà con gái thì xuất giá tòng phu, mầy biết không? Nghĩa là mầy lấy chồng rồi thì phải theo chồng và nghe lời chồng. Hồi chưa chồng ở nhà thì mầy theo cha, nghe lời cha mầy. Nên sách ghi là “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”, biết chưa con?
Cả bàn vỗ tay rần rần, ông già say lè nhè này thường khi say nói bậy bạ không ngờ bữa nay lại nói ra chữ nghĩa thánh hiền.
- Dạ con cảm ơn bác Hai, con nghe lời bác Hai dạy.
Ông già Hai hít một hơi sâu, ưỡn ngực, vênh mặt lên nhìn Xích Thốn và nói lớn:
- Còn thằng chồng, mầy biết mầy phải làm gì không?
Xích Thốn đực mặt ra, không biết trả lời sao, ông già Hai tỉnh bơ phán tiếp:
- Đờn bà thì xuất giá tòng phu, còn đờn ông thì “chổng khu, đẩy ghe vô ụ” …
Sòng nhậu vỗ tay cười rần rần.
Chị Hai Cự kéo tay Pậu và Xích Thốn đi, chị háy mắt, lầm bầm chửi:
- Đéo mẹ, uống ba cái thuốc điên đó vô, giờ tới cữ, nói bậy rồi.
Hai vợ chồng Xích Thốn thoát khỏi đám nhậu đi mau về phía đình, lòng nhẹ nhõm.
Chị Hai Cự quay trở lại đám để chỉ huy dọn dẹp mọi thứ ngổn ngang.
Đúng như chị dự đoán, buổi tiệc tới cao trào, chủ xị lại là anh Hai Cự và anh Ba Phách mới hết chỗ nói chớ.
Hồi nãy mỗi anh làm chủ xị một sòng, bây giờ hai sòng nhập lại càng tưng bừng hơn thập bội. Mấy ông say bắt đầu xổ ra những bài hát chế lời, chay mặn đủ kiểu với các điệu Xuân tình, Kim tiền bản, Cao phi ….
Một ông gõ bàn theo nhịp song lang rồi hát một ca khúc chế lời, điệu Khổng Minh tọa lầu với giọng nghiêm nghị và tình cảm nghe nổ đầu!
Kế Khổng Minh rất cao… (gõ song lang cụp cụp…)
L… bên Tàu thẹp thấp, thẹp cao… (cụp cụp…)
Còn… bên mình hai thẹp nó bằng nhau… (cụp cụp…)
Khi nào anh thấy, chị đái tui dòm
Đó là không phải tui muốn coi L… (cụp cụp…)
Mà là tui chỉ… muốn so sánh bên nó với bên mình… (cụp cụp…)
Mấy ông say ngúc ngắc đồng thanh hát theo.
Chị Hai Cự và chị Ba Phách lùa mấy đứa con nít ra sau nhà rồi biểu vợ Tư Thắng và vợ Năm Cò dẫn tụi nhỏ về trước, đừng để tụi nó nghe, tụi nó hư hết.
Chị chửi lầm bầm:
- Đéo mẹ, thuốc điên ngấm rồi, mấy thằng cha Hà Bá, Thủy Quan này tới cơn lảm nhảm rồi… hai thím lùa tụi nhỏ dìa hết đi. Mấy cha này càng ngày càng bậy bạ, miệng thúi lắm, đừng nghe.
Chị Hai Cự biết, còn rất nhiều bài hát chế lời kiểu tiếu lâm mặn chát đó sắp được tung ra và cũng được cả đám vỗ tay tán thưởng. Bây giờ trời cũng không cản được mấy cha nội say này.
Xứ thuộc địa Nam Kỳ này Tây cấm rượu lậu, người dân nấu rượu lậu bị phạt rất nặng. Toàn xứ Nam Kỳ chỉ có hai nơi được phép sản xuất rượu là nhà máy rượu Bình Tây ở Chợ Lớn và công xi rượu của ông hội đồng Trạch nằm bên bờ sông Bạc Liêu, gần ngoài vàm kinh Giồng Me này.
Từ Giồng Me đi ra xóm Cầu Kè quẹo trái vài trăm bước là tới công xi rượu, còn quẹo mặt đi một đỗi không xa là tới nhà bác Sáu Lầu, ông tổ của bài Dạ cổ hoài lang.
- Vì vậy dân Giồng Me ai cũng hát hay và nhậu giỏi là phải rồi.
Có người nhìn đám nhậu ca hát vui vẻ nói vậy.
Chị Ba Phách hứ một tiếng đốp chát:
- Xóm này mần cái gì cũng không hơn người ta, chỉ có đờn ca nhậu nhẹt là không ai bằng...!
XI
Xích Thốn gánh cặp cần xé trên cây đòn xóc dài của riêng mình. Bên trong hai cái cần xé nhứt này đựng đủ thứ đồ, áo quần, gạo thóc của Pậu.
Dầu gì cũng xuất giá theo chồng mà, cái gì quen xài cũng muốn đem theo, chỉ có hai con chó trụi là phải bỏ lại. Sư Ông không cho tụi nó nuôi chó mèo, gà vịt, heo cúi trong đất miễu, sợ làm khuấy động cuộc sống của muôn loài trong đó. Trước khi hai vợ chồng từ giã đi về miễu, ông Sư Từ đã dặn kỹ:
- Vợ chồng con phải thương nhau hết lòng, đói no gì cũng không được bỏ nhau, làm ăn siêng năng thật thà, tránh sát sanh, chỉ bắt đủ ăn thôi, đừng sát sanh khi không thiệt cần thiết. Vô đó tụi con trồng cây rừng, trồng tre, trồng lá và nuôi cua giống bán kiếm đủ sống. Đừng tham lam chiếm hữu thừa thãi cho riêng mình, vừa đủ thôi. Chia sẻ cuộc sống với muôn loài, như vậy loài nào cũng thương tụi con hết.
- Ông chúc cho tụi con mạnh khỏe và hạnh phúc…
Vợ chồng Xích Thốn đi về phía miễu, nước lớn từ ngoài vàm Cầu Kè đổ vô, gió bấc cũng từ phía sau lưng hai đứa mát dịu đưa tới, mặt trời thấp dần xuống cánh đồng vàng rạ bên tay mặt tụi nó, ráng chiều vàng rực rỡ, từng bầy nhỏ chim biển cũng bay về phía rừng cóc.
- Nước xuôi, gió xuôi, chim bay cùng hướng với tụi mình, trời chiều thiệt đẹp trên cánh đồng vàng xám trơ gốc rạ. Đẹp quá Hia Cao “thấy không”?
Pậu âu yếm nói với chồng theo cách gọi thân mật của ông Sư Từ.
Bóng hai đứa đi bên nhau qua bãi hoang về rừng cóc, ngó từ xa như một cây mắm đen thấp lùn, tròn và mạnh mẽ, mọc bên cạnh một cây đước cao lêu nghêu trên bộ trang chưn nôm vững chắc. Cây nào cũng xanh mượt, lá dày vươn thẳng lên trời mạnh mẽ và đầy sức sống.
Dường như trời sanh hai đứa nó là một cặp đôi, dành riêng cho nhau và cho riêng vùng đất này.
Tụi nó là một phần hoang dã của vùng đất hoang dã này. Sứ mệnh tụi nó cùng các loài động thực vật ở đây là làm thuộc đất, làm cho bãi hoang này trở thành xóm làng mai sau.
Tới miễu, vợ chồng Xích Thốn không che giấu được nỗi vui mừng, hai đứa reo lên những tiếng u, ơ, u, ơ thích thú như con nít được cho kẹo bánh. Hai con chồn đèn đã lớn, kêu rít liên hồi chạy ra ôm chưn chủ. Xích Thốn cúi xuống hai tay chụp hai con chồn đèn đưa lên miệng hun hít liên hồi.
Pậu gieo mình lên cái chõng tre, mở trừng mắt nhìn lên những nuột lạt trên mái lá, hai giọt nước mắt hạnh phúc ứa ra.
Hai vợ chồng vui mừng khi ngửi được mùi sình, nghe được tiếng chim rừng, tiếng lá rụng ngoài sân, tiếng gió rít qua liếp cửa.
Hai đứa lên miễu thắp nhang trang Năm Bà Ngũ Hành. Hai vợ chồng cung kính quỳ lạy với lòng biết ơn. Giờ đây ngôi miễu này là nhà của vợ chồng nó. Trời Phật là Cha, các bà Ngũ Hành là Mẹ, ma quỷ và các muôn loài ở đây là anh em, bà con láng giềng và bạn bè của vợ chồng tụi nó.
- Vợ chồng con thờ Cha Mẹ và sống thuận với tất cả anh em, bạn bè. Cầu xin Cha Mẹ cho vợ chồng con được bình an cùng mọi loài trên đất này.
Xích Thốn và Pậu nghĩ vậy nên tụi nó không biết sợ ma quỷ, côn trùng hay độc vật gì. Vợ chồng nó và hai con chồn đèn là một gia đình thành viên của đất này như bao gia đình cò, vạc, chồn, cáo, tôm cua, rắn rít và cây cỏ khác. Tất cả mọi gia đình tôn trọng nhường nhịn chung sống với nhau.
Có một điều không giải thích được là Xích Thốn và hai con chồn đèn ngại gặp người. Tụi nó sợ cái nhìn, tiếng nói, dù chỉ là những cái nhìn thăm dò và những câu chào hỏi thông thường. Hễ cứ gặp người là tụi nó sợ sợ, tụi nó e dè dù người khách chỉ muốn hỏi thăm và làm quen với nó. Có lẽ ở người có một điện trường phát ra siêu sóng vô hình nào đó khắc chiếu làm muôn loài đều e sợ.
Sức mạnh tiềm ẩn đó hình như có lần ông Sư Từ nói đó là trí khôn và trí khôn của con người là một vũ khí mà các loài đều sợ.
Nó cũng không hiểu tại sao nó với hai con chồn đèn lại không sợ ánh mắt và tiếng nói của ông Sư Từ, ông cũng là người như mọi người khác mà.
Chỉ có Pậu là không sợ người lạ, cô chững chạc và mạnh mẻ khi có người đi vào đất nhà của mình.
Bãi hoang là địa đàng của các loài động thực vật nê địa. Đất là của chung, ở đây không có vua, không có chủ đất. Mọi sinh vật sống theo bản năng, theo nhu cầu của mình, không có quản lý, không có chiếm hữu… Nhưng đằng sau bề mặt thanh bình đó vẫn có một bề trái cạnh tranh sinh tử.
Các loài là một chuỗi thức ăn của nhau.
Con tép ăn con phù du, cá ăn tép, cua ăn cá, chồn ăn cua, người ăn chồn…
Mỗi loài chỉ có một thời, gồm sinh, trụ, hoại, diệt. Sống cần cái ăn, chỗ ở, trần gian này có đủ vui buồn sướng khổ, địa ngục và thiên đường, nơi chỉ toàn khổ hoặc toàn sướng là không có thật.
Những ngày đầu trong miễu, vợ chồng Xích Thốn với hai con chồn đèn sống hồn nhiên theo bản năng, đói ăn, khát uống. Trời mát ra ngoài chơi, trời mưa nắng thì chui vô nhà, như con chồn, con cua no rồi chui vô hang ngủ, đủ rồi thôi, không cần dư để dành. Một cái hang là đủ, không cần đào thêm một cái hang chỗ khác làm gì.
Tuy nhiên cũng có lúc con Pậu lo lắng, bầy chồn con khi lớn biết kiếm ăn sẽ tự đi tìm nơi sống khác, đám cua con khi sinh ra sẽ theo lạch nước trôi về biển khơi hoặc tìm một bãi lầy khác để gầy đàn mới. Còn con của nó sẽ đi đâu để sống, bấy giờ đâu còn đất nào bỏ hoang mà tới khẩn.
Sư Từ dạy vợ chồng nó không nên chiếm hữu vì chiếm hữu sẽ làm người khác khổ vì thiếu, chiếm hữu là nguyên nhân của chiến tranh.
Nó thật mơ hồ, không hiểu lời dạy này. Tuy nhiên nó sẽ nghe lời Sư Ông không chiếm nhiều đất hơn nhu cầu của vợ chồng nó. Nó chỉ khẩn 10 công này để nuôi cua, trồng cây, trồng rẫy là đủ cho vợ chồng nó và con của nó sau này thôi. Phần còn lại để cho người sau có đất sống.
Nghĩ tới có vuông nuôi cua, có miếng rẫy, vườn tre và có con ẵm bồng Pậu bất giác mỉm cười hạnh phúc.
Tối nay là đêm đầu tiên của vợ chồng nó. Dù hai đứa đã ở gần nhau nhiều ngày tháng nhưng chưa có đám cưới con Pậu cũng luôn giữ gìn. Nó sợ mấy anh chị chòm xóm nghĩ nó không đàng hoàng rồi đuổi nó đi. Còn Xích Thốn thì tánh nhút nhát từ mẹ đẻ. Nó luôn mặc cảm tránh xa, không dám đụng tới những thứ gì không phải là của nó. Nó cũng không dám lấy món gì dù mọi người nói là cho nó. Dù có ai đó cầm cho nó thứ gì, nó cũng không dám lấy trừ khi ép nó lấy vài lần.
Kinh nghiệm hồi nhỏ còn ở chợ bị hiếp đáp đã làm cho nó luôn ám ảnh về điều đó. Tụi nhỏ ở chợ cho nó cái bánh, nó lấy cái bánh thì lát sau có đứa khác tới lấy lại và sau đó một đứa khác tới đòi nó phải trả tiền mua cái bánh…!
Nó sợ và bị ám ảnh luôn tới bây giờ. Nó sợ xóm chợ, người ở đó khôn lanh, quỷ quyệt quá.
Vì vậy đêm nay dù là đêm hoa chúc mà nó vẫn không dám cầm tay vợ của mình!
Pậu đứng lên bộ vạt bằng cây chà là bự chảng ngoại khổ do Xích Thốn tự đóng, cái mùng vải nó may đo theo kích thước bộ vạt. Cái mùng lớn quá, Pậu lúng túng kêu Xích Thốn tiếp nó giăng mùng.
- Hia Cao, hia tiếp giăng mùng coi…
Xích Thốn rời bếp đi tới, cầm dây mùng giăng lên cột mà mặt ngó chỗ khác. Nó mắc cỡ đen cả mặt mày. Con Pậu cũng run, nhưng nó có chuẩn bị tinh thần cho ngày này từ lâu rồi. Nó luôn tự an ủi mình, cuộc đời nó khổ quá, duyên số run rủi cho nó gặp người chồng “quá khổ” nên chắc nó chịu đựng được.
Cảnh đồng khổ và tình yêu chân thành sẽ giúp cho người ta ăn ở với nhau được, hiểu được bản chất đời sống vợ chồng là đau đớn và vui sướng luôn pha trộn, thì khôn ngoan nhứt là nên chỉ nghĩ tới cái vui sướng mà quên đi cái buồn đau mà sống.
Hai con chồn đèn mau lẹ chui vô mùng nằm lên cái áo bành tô của Xích Thốn. Pậu thẹn thùng kéo tay chồng mình…
Vô ngủ đi, hai đứa con của Hia chui vô mùng rồi kìa!
XII
HAI MƯƠI NĂM SAU
Con nước lớn chảy dài từ cửa Mỹ Thanh qua chợ Bạc Liêu tới ngã ba vàm Cầu Kè chia làm hai nhánh, một nhánh nhỏ chảy thẳng vô kinh Giồng Me, nhánh lớn quẹo tay mặt chảy về xóm Trà Kha, Cái Tràm, Láng Dài và gặp ngọn nước sông Gành Hào đổ lên. Hai con sông gặp nhau tại làng Hòa Bình, chỗ này là giáp nước, xuồng ghe qua được Hòa Bình thì đi thuận luôn hai con nước không phải chờ. Vì vậy khúc kinh xáng Bạc Liêu tới Hòa Bình và nhánh kinh Giồng Me nước chảy chậm, trái mắm, trái cóc kèn, trái dừa nước ở hai bên bờ các xóm gần cửa biển Vàm Lẻo, Năm Căn, rụng xuống sông, trôi lờ đờ trên hai nhánh kinh cuối nguồn gần tới giáp nước này.
Chị Hai Cự và chị Ba Phách đứng trước nhà, mỗi người cầm một cây vợt tre vớt trái dừa nước để trồng phía sau ranh đất nhà.
Một đám học sinh mặc đồng phục trường công lập Bạc Liêu tung tăng qua cây cầu xi măng mới, chạy về phía hai chị:
- Thưa má, thưa bác Hai con đi học mới về.
- Thưa má, thưa thím Ba con đi học mới về.
Đám học trò này là con của anh Hai Cự, Ba Phách, Tư Thắng, Năm Cò và Năm Mãi.
Năm gia đình chòm nhà lá cuối xóm này coi như đã ổn định và có cuộc sống sung túc.
Mấy đứa lớn học hết tiểu học ngoài đầu xóm rồi nghỉ, nối nghiệp cha làm ruộng, làm muối, làm biển được vài năm thì lập gia đình, cha mẹ chúng cho đất ra riêng cất nhà.
Mấy đứa nhỏ sanh sau này may mắn hơn vừa học hết tiểu học thì tỉnh mở trường trung học công lập bên chợ nên tụi nhỏ học tiếp lên luôn.
Ba đời rồi, đời ông bà Tám mù chữ, đời anh em Hai Cự được làng mướn thầy về dạy tại đình cho con nít sau mùa gặt lúa, mỗi năm học được chừng một tháng là nhiều.
Thế hệ của ông biết đọc, biết viết và làm toán cộng trừ là giỏi rồi.
Bây giờ nhà cửa đã khang trang và đầy đủ, chòm nhà cũng mọc lần thêm gần kín đất, đám con nít sanh sau chắc sẽ học được hết trung học.
Tội nghiệp đám con của Xích Thốn, cuộc sống thiếu thốn lại tự ti mặc cảm vì dị hình dị dạng, không đứa nào đi học được. Năm anh chị luôn cố giúp chúng nó bằng mọi cách mà họ có thể làm được. Từ giúp tiền, gạo, áo quần, tới đem mấy đứa con của Xích Thốn về nuôi nhưng tất cả nỗ lực đều thất bại.
Những đứa nhỏ cao kều tương tự, hoang dại ngày càng xa với những đứa nhỏ trong xóm, lòng hướng vọng kinh thành.
Thiệt ra đám con cháu của năm anh em cũng chia thành nhiều nhóm khác nhau.
Nhóm sanh ra trong thời kỳ đầu cực khổ, ít học chọn ở lại quê nhà kế tục những công việc của cha mẹ, nhóm sinh ra trong thời kỳ nghiệp nhà dư ăn dư để, được ra chợ học thì chúng muốn ở lại chợ hoặc có đứa còn muốn lên Sài Gòn học cao hơn nữa, ít đứa nào muốn trở về xóm nghèo của cha mẹ mình. Những đứa con của Xích Thốn và Pậu, chúng ngày càng gần với hoang dã, thiếu thốn và tự ti. Những đứa nhỏ đời thứ ba của chòm nhà lá cuối xóm Giồng Me giờ không còn là anh em của nhau nữa. Chúng chỉ coi nhau như người thân quen thôi.
Như những trái mắm, trái đước, trái dừa nước ở cửa Mỹ Thanh lìa khỏi cành, rời khỏi gốc trôi theo sông Bạc Liêu về sông Gành Hàu. Con nước đưa chúng đi ngày càng xa rồi dạt vào một bãi bờ nào đó mọc lên thành những cây mới, cũng có những trái trôi tới cửa Ông Trang, cửa Bồ Đề hay trôi tuốt ra Biển Đông… Nhưng dù những hột giống đó có trôi dạt tới đâu và tấp vô một vùng đất nào đó thì cây mọc lên những đời sau vẫn mang hình dáng của cây đời trước.
Sáu mái nhà lá đơn sơ của ngày đầu giờ đã thành mười lăm căn nhà với gần phân nửa là nhà lợp tole fipro ciment khang trang, con đường đất trước nhà sát bờ kinh “nắng bụi mưa sình” nay thành một con đường đất đỏ ngay ngắn hai bên trồng bông mười giờ nhiều sắc màu tươi vui trong nắng sáng.
Tuy nhiên những người lớn vẫn buồn buồn khi nhớ lại những ngày gian khổ ban đầu.
- Làng xóm ngày càng lớn, áo quần ngày càng đẹp thì lòng người ngày càng nhỏ hẹp, tình người ngày càng xấu hơn…
Anh Hai Cự thường thở than với mấy người em của mình như vậy!
Vạt rừng cóc giờ không còn nữa, chỉ còn trơ vài gốc cây lúp lúp sát mặt đất, lung chà là cũng không còn. Tất cả đã biến mất, chỉ còn trơ trọi sừng sững một cây me già sau nhà Xích Thốn, trên nền đất cũ. Có lẽ người ta sợ năm bà Ngũ Hành nên không ai dám đốn cây me này. Với lại cây me cũng không dùng làm nhà được, cây me chỉ có cưa làm thớt thôi, nhưng thớt đâu ai cần, thớt mù u, thớt đước có khi còn tốt hơn. Cây cóc và cây chà là thì làm nhà tốt, làm đòn tay, nằm vách, cột phụ hay sàn đều tốt, vì vậy cây cóc và chà là chết sớm. Trong rừng mà cây nào ngay, cây nào tốt thì chết trước. Cây vô dụng cong queo thì sống lâu. Lẽ đời thường khi như vậy.
Bà Hai Pậu dẫn hai đứa con lớn về lại nền nhà cũ với ý định dựng lại nhà để gom các con về sống chung, giờ bảy đứa con của bà lớn rồi, đứa nhỏ nhất cũng được năm tuổi, biết bắt cá, bắt cua. Bảy đứa con của bà với Xích Thốn lạ kỳ là đều giống cha, đứa nào cũng cao lêu nghêu, tuy đứa con trưởng thành có vẻ không cao bằng cha chúng ngày trước.
Bà bần thần hồi tưởng lại…
Hai mươi năm qua nhiều thứ đã thay đổi, trên rừng cóc cũ những đám cây mù u, cây bình bát mới mọc lên mạnh mẽ. Chỗ đám chà là ngày trước là cái lung nuôi cua giống cung cấp nguồn sống cho gia đình bà giờ thành một khoảng trống với những cây ngày trước không có như nhàu, giá, bần, quao. Còn bãi rau sam, bồn bồn, dớn, ráng, dây choại, mây dóc giờ được thay bằng ô rô, cóc kèn, rau mác, cây lứt. Đám lá dừa nước cũng biến mất, người sinh ra nhiều quá, cái gì ăn được, cây gì xài được họ đều đốn chặt phục vụ cho nhu cầu của riêng mình, không chừa gì cho các loài khác.
Trong hai mươi năm bà và ông Xích Thốn sống nơi này có lẽ chỉ được khoảng nửa thời gian là yên ổn, còn lại cũng vất vả chạy vô xóm, ra mé biển lánh nạn theo thời cuộc, không có ruộng làm căn bản, con đông, ăn nhiều, lại có chiến tranh nên gia đình bà lâm cảnh nghèo đói.
Khi Xích Thốn và bà vô miễu Cây Me này ở được vài năm thì Nhựt đảo chánh Pháp, khoảng nửa năm sau thì Nhựt đầu hàng rồi tới tản cư.
Gia đình năm anh chị kết nghĩa ngoài Giồng Me ai nấy trở về quê của mình hoặc về quê vợ tạm thời lánh nạn. Gia đình Xích Thốn mặc cảm dị dạng lại ăn nhiều nên ông bà dẫn con ra mé biển, dựng chòi ở tạm, bắt cua bắt cá để sống. Ông Sư Từ trở về chùa lớn ngoài chợ Bạc Liêu và đi tản cư theo các tu sĩ ngoài đó, nghe đâu trong khi hồi cư thì không thấy ông Sư Từ về nữa.
Xích Thốn có đi kiếm Sư Ông nhưng không gặp, anh trở về nhà thờ thẫn mấy ngày như người mất hồn.
Cuộc sống của gia đình Xích Thốn từ năm đó càng lúc càng khó khăn thêm vì bà Hai Pậu sanh thêm nhiều con. Một mình Xích Thốn đi bắt cua cá loanh quanh đủ ăn nhưng không bán hay đổi chát lấy các thứ cần thiết khác được. Thỉnh thoảng các anh chị ngoài Giồng Me đem vô tiếp tế quần áo cũ, gạo, dầu lửa, nước mắm nhưng vẫn không đủ sống.
Anh Hai Cự và anh Ba Phách dặn:
- Em đừng có đi kiếm cá xa nhà quá, chỉ đi gần nhà thôi. Bây giờ tình hình không ổn, lính hay đi bố, mầy cao lêu nghêu đi ra chỗ vắng tụi nó thấy mầy, tụi nó bắn đó.
- Còn như ở ngoài này, chịu không nổi thì vô xóm, mấy anh chị gần gũi tiếp cho vợ chồng mầy nuôi con.
Xích Thốn và Pậu cúi đầu. Giờ ai cũng trung niên hết, ai cũng có phận riêng của mình, làm sao như ngày còn trẻ luôn dựa vào nhau được.
Thôi đèn nhà ai nấy sáng, số mình như vậy, phận mình như vậy thì phải cắn răng thôi.
Hai vợ chồng và bầy con nheo nhóc ở miễu thêm vài năm, ngày càng khó khăn thêm. Mấy đứa nhỏ thiếu ăn, thiếu mặc nên đau bệnh thường xuyên. Những khi con đau, nóng như lửa đốt không có thuốc men gì, bà Hai Pậu chỉ biết kêu ông Xích Thốn hái lá nhàu, lót cho con nằm để hút nhiệt và lấy gừng tươi cắt lát dán lên thái dương, lên trán mấy đứa nhỏ. Nhìn con nằm mê mang, lưng lót lá nhàu, trên ngực đắp lá, nóng tới nỗi những chiếc lá héo teo lại, vợ chồng Xích Thốn xót xa rớt nước mắt…
Cảnh khổ tới tận cùng, con nóng thì lót lá, dán gừng. Vợ chồng cảm lạnh thì rang muối bọc trong vải chườm, đau bụng thì nướng cục gạch tàu gói trong quần áo cũ dằn lên bụng, cho qua cơn đau.
Trong tận cùng khó khăn, trong thâm tâm của Xích Thốn luôn nghĩ tới ông Sư Từ. Thời gian anh sống với ông no ấm, đầy đủ không thiếu một thứ gì, ước gì bây giờ có ông, các con của anh sẽ không khổ như vậy…
Trong một lần vô nhà các anh chị mượn gạo ăn, Xích Thốn nghe nói ông Sư Từ sau hồi cư, ông trở về chùa lớn thì bị Pháp bắt bỏ tù, có lẽ khi ở tù bị tra khảo, đánh đập nhiều nên khi ra tù ông về chùa Tổ trị bệnh, chưa trở lại Giồng Me lần nào.
- Mà sao ông không trở về Giồng Me một lần để từ giã mọi người?
Hơn mười năm rồi mà trong lòng Xích Thốn vẫn còn trăn trở câu hỏi trên, anh muốn đi tìm ông Sư Từ để nghe Sư Ông trả lời. Anh luôn tin là Sư Ông không bao giờ bỏ anh và các con của anh, nếu Sư Ông còn sống chắc chắn Sư Ông sẽ trở về Giồng Me một lần.
Những năm tiếp theo đó, tình hình chiến sự càng lúc càng leo thang, rối rắm.
Anh Hai Cự nói với Xích Thốn:
- Sắp có giặc rồi, vợ chồng con cái em thấy không xong thì dời vô xóm ở đi. Ở ngoài này hai bên đánh nhau, tên bay đạn lạc thì khổ.
Xích Thốn lòng rối bời, bây giờ anh cũng lớn tuổi rồi, sức đã xuống, sáng ngủ dậy đã thấy mình mẩy đau nhức. Không tiền, không gạo, đông con, dời về xóm không lẽ ở đậu rồi lấy gì mà ăn…?
Và anh mãi mãi không trả lời được câu hỏi tại sao ông Sư Từ không về nữa và tương lai vợ con anh sẽ ra sao?
Một buổi sáng cuối năm Xích Thốn dậy sớm khi vợ con còn ngủ, anh lặng lẽ đi về phía đình, qua khỏi ranh đất miễu anh đứng lại bên cây bình bát cao lớn với nhiều chùm trái xanh vàng trên cành.
Mấy cây bình bát này mọc lên từ hột giống của mấy trái bình bát chín anh hái ở đình đem về tặng vợ từ hồi nẳm. Cô Pậu đứng chỗ này ăn ngon lành và phun hột chung quanh chỗ cô đứng.
Xích Thốn hái mấy trái bình bát chín vàng bỏ vô túi áo kaki màu phá lấu cũ nát của lính Pháp bỏ mà ai đó cho anh vài năm trước. Chỉ có cái áo trận này anh bận mới vừa, bình thường anh ở trần hoặc bận áo bà ba mấy chị trong xóm may, còn các quần áo của người bình thường không cái nào anh bận được.
Anh nhìn ngôi miễu, căn nhà của anh, cây me rồi lặng lẽ đi…
Anh đi kiếm ông Sư Từ để cầu Sư Ông cứu các con mình… nhưng anh không nói với vợ là mình đi đâu, anh không có tiền dằn túi, không mang hành lý và cũng không có giấy tờ tùy thân. Nồi cơm nguội và ơ cá kho trên bếp để dành ăn sáng anh cũng không ăn. Anh đi với mấy trái bình bát chín làm lương thực trên đường.
Lần ra đi đó anh không bao giờ về nữa… Bà Hai nhớ mang máng Tết năm đó anh 39 tuổi…!
Bà Hai ở miễu chờ ông Xích Thốn thêm một năm thì lính ngoài chợ vô kêu bà dời nhà vô xóm ở. Họ đào hào, làm hàng rào ở cuối Giồng Me và lập đồn lính gác, dân được ra ngoài chài cá, móc cua ban ngày, tới chiều phải về xóm. Ban đêm không ai được ở ngoài hàng rào.
Bà Hai và các con bồng chống nhau về cất chòi ở đậu sau đất của Tư Cò, bước đầu ai cũng giúp bà và mấy đứa nhỏ mọi mặt, cái ở thì tạm yên chớ cái ăn thì càng ngày càng khó khăn thêm, không kiếm được cua cá bán, không lẽ nhận gạo anh chị cho mà ăn hoài.
Bà dọn vô xóm ở chừng một thời gian thì lính đồn đốt luôn ngôi miễu và căn nhà của ông bà.
Từ đó bà Hai và mấy đứa con không đi mò cua bắt cá nữa mà đi làm mướn trong xóm.
Ai mướn gì thì làm cái đó. Nghề muối cũng nghỉ luôn, cánh đồng muối mênh mông giờ cây mọc thành rừng, cá tép sanh sôi và các loại chim rừng, chim biển lại về nhưng người dân cũng không ai dám ra soi bắt.
Đứa con gái lớn của bà dẫn hai đứa em của nó đi làm lò gạch còn đứa con trai lớn thì đi giữ trâu. Trong nhà có bốn người đi làm giảm được bốn miệng ăn, số tiền đem về cũng nuôi được bốn người còn ở nhà.
Năm nay cái bót cuối xóm không còn, lính dời đi hết. Dân Giồng Me tiếp tục đi chài, đẩy xiệp, đi soi ban đêm. Cuộc sống bắt đầu hồi phục nhưng vẫn còn nhiều khó khăn.
Bà Hai nói với hai đứa con lớn:
- Tháng sau mình dìa đây cất lại nhà trên nền cũ của ba tụi mầy. Má muốn ở đây để chờ ổng. Nếu ổng về ổng thấy má còn ở trên đất này thì chắc ổng mừng lắm.
- Còn tụi con đứa nào có công chuyện làm thì cứ ở lại trong xóm. Tụi con cũng lớn rồi, rồi cũng phải dựng vợ gả chồng, nhưng mà cũng khó kiếm được người…!
Bà Hai Pậu nhẹ thở dài, mấy chục năm rồi từ ngày cha mẹ bà xuống xuồng theo con nước xuôi đi bà chưa một lần gặp lại họ, bà luôn mong có tiền để đi Rạch Gòi tìm cha mẹ, nhưng bà không biết Rạch Gòi là ở đâu và bà cũng chưa có dư tiền và thời gian để đi tìm nguồn cội của mình.
Bà kẹt lại đất này hơn hai mươi năm, giờ người bạn đời đồng cam cộng khổ với bà cũng đi đâu mất biệt. Những ước mơ ngày đầu của hai người khi đến khẩn đất này thật đơn giản, nhỏ bé mà cũng chưa làm được.
Mặc dầu những ước mơ của bà vẫn chưa thực hiện được nhưng bà vẫn thấy cuộc đời của bà không đến nỗi tệ.
Bây giờ bà cũng có một quê hương, một nơi để trở về và những người thân sẵn sàng cưu mang gia đình khi hoạn nạn. Bây giờ bà có bảy đứa con. Trong chúng nó có huyết thống, có dáng dấp, có tính cách của cha mẹ bà và của chồng bà. Bà không thấy cô đơn nữa. Bà sẽ nói với chúng nó có một sứ xở tên là Rạch Gòi, ở đó có vợ chồng ông Ba Hương đi ghe hàng bông bị lạc một đứa con gái mười tuổi dưới miệt rừng Cà Mau, đứa con gái đó là mẹ của chúng và ông Ba Hương ghe hàng bông là ông ngoại của chúng…
Còn ông Xích Thốn, mấy mươi năm cơ cực trên bãi hoang này tới ngày ông biến mất, ông còn để lại được gì trên cuộc đời này?
Ông không để lại đất đai, nhà cửa như những người khác trong xóm, ngoài chợ. Nhưng đối với bà, ông là người chồng chân thành và có trái tim nhân hậu, luôn yêu thương duy nhất bà và con cái, luôn làm mọi thứ cho vợ con mình được ấm no.
Ai rồi cũng phải chết, mỗi người chỉ đi với nhau một quãng đường, không ai đi cùng mình suốt cuộc đời này. Bà đi với cha mẹ được mười năm, ông Sư Từ và các anh chị Hai Cự, Ba Phách, Tư Thắng, Năm Mãi, Tư Cò đi với vợ chồng bà chỉ một đoạn đường vài năm. Ông Xích Thốn luôn sát cánh bên bà cũng hơn hai mươi năm, thương nhiều thương ít gì rồi đều cũng phải xa lìa nhau…
Buổi chiều xuống chầm chậm trên bãi hoang, bà Hai đứng im dưới bóng cây me già, bầy chim vành khuyên ẩn mình trong tàn lá kêu những tiếng ríu rít nho nhỏ thánh thót.
Từ phía ranh đất chỗ mấy cây bình bát lớn và hàng mù u con mới mọc, đứa con gái lớn của bà và thằng em trai tươi cười đi về phía bà, trong vạt áo hai chị em bọc đầy những trái bình bát chín vàng tươi.
Hai đứa đều giống cha từ nét mặt, màu da và chiều cao quá khổ. Thằng con trai tới bên bà, chìa bàn tay khổng lồ cầm lọt gọn ba trái bình bát về phía bà:
- Má, con cho má nè.
Nó sừng sững và vạm vỡ như một cái tượng đồng, y như một bản sao của cha nó. Nó chưa hết lớn mà bà đứng còn chưa tới ngực nó.
Bà ngước mắt lên, hai tay cầm mấy trái bình bát chín vàng đứa con cho, hai đứa khổng lồ cúi xuống nhìn. Bà cười, tụi nó cười theo. Mới đầu tiếng cười nhỏ khúc khích, sau đó cả ba mẹ con cười càng lúc càng lớn vang cả một vùng bãi hoang.
Bà Hai Pậu cười vì bà nghĩ ra một điều thiệt hay là ông Xích Thốn cơ cực ở trên đất này mấy chục năm không phải là không có gì để lại.
Cái ông để lại có ý nghĩa lớn, quý hơn tất cả những người đàn ông khác, ông đã để lại nòi giống khổng lồ của tổ tiên ông trên bãi hoang này, và nòi giống đặc biệt khác thường đó biết đâu sẽ làm được những việc đặc biệt và khác thường sau này nếu gặp cơ hội.
Ông cũng đem được hột giống bình bát và mù u vô đây; và hai loại cây này đang phát triển tốt, dấu hiệu đất đã gần thuộc. Nay mai bà về cất nhà lại, bà sẽ tháp ngọn mãng cầu xiêm vào gốc bình bát và ngọn xoài vô gốc mù u. Biết đâu còn sai trái và tốt hơn là trồng thẳng từ hột mãng cầu và xoài xuống đất mới.
Bà Hai theo hai đứa con đi về xóm, ba mẹ con đi cặp theo kinh Giồng Me, con đường bờ mà bà và ông Xích Thốn qua lại hơn nửa đời người, nghèo túng, sanh đẻ nhiều, không đủ ăn và cực khổ đã biến bà thành một bà già tiều tụy, tóc xơ xác hai màu. Bà bước chậm, hai đứa trẻ khổng lồ đi chậm theo. Bỗng dưng bà nhớ lại những ngày đầu bà theo ông Xích Thốn và ông Sư Từ vô Giồng Me để cất nhà…
Bà chợt nhớ lời ông Sư Từ:
“Con người ta sống để kiếm ăn, kiếm ăn để sống, cuối cùng ai cũng chết hết, đâu có để lại gì…”.
Ông Xích Thốn với bà không hiểu gì hết và thấy hoang mang.
Bà cũng có nghe những người khách của ông chủ vựa khô nói với nhau:
- Đàn ông, nam tử trước khi chết phải để lại cho đời một cái cây, một cuốn sách và một đứa con trai.
Câu này bà hiểu lờ mờ…
Vậy ông Xích Thốn không mất đi, ông cũng đã làm xong nhiệm vụ của mình.
Nếu ông không trở về nữa, ông cũng đã để lại được hai thứ, mấy đứa con trai giống hệt ông và cây bình bát với cây mù u. Về cuốn sách, do ông không biết chữ nên được miễn tính.
Như vậy là cuộc đời của bà và ông Xích Thốn không phải là không có ý nghĩa và không để lại được gì…!
Mà thiệt sự là ông và bà đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa…
[1] Ngũ ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ngũ ấm = ngũ uẩn: (1) Sắc: thân xác, tứ đại; (2) Thọ: cảm xúc (khổ, lạc, không khổ, không lạc); (3) Tưởng: suy nghĩ (tưởng tượng, mơ mộng, hồi tưởng); (4) Hành: lưu chuyển, biến dịch, thay đổi; (5) Thức: hiểu biết, phân biệt. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thức… Có 8 thức.
[2] Tiếng Triều Châu, âm Hán Việt là đồng khảo có nghĩa là người quản lý, giám sát công việc thay chủ.
[3] Kho muối.
[4] Nước màu đỏ còn lại trên ruộng muối sau khi thu hoạch.
[5] Cúng cô hồn ngày mùng 2 và 16 âm lịch hàng tháng của người làm ăn.
[6] Một loại sình còn lỏng bỏng, lềnh lềnh chưa kết dính. Sình có thể chia thành các loại sau từ mềm tới cứng: (1) Sình còn trôi theo nước: phù sa, huyền phù (lớp lắng dưới đáy khi nước đọng); (2) Thào lềnh cháo -> thào lềnh -> sình non -> sình lầy -> sình bùn.
[7] Dọc theo bãi biển (gió rọc bãi là gió dọc theo bờ biển). Gió Nam ngoài là gió Nam thổi từ bờ biển vào, gió Nam trong là gió Nam thổi từ trong đất liền ra.
[8] Kiểu ghe.
[9] Chiều chìm dưới nước khi chở đầy của một chiếc ghe, thâm là sâu.
[10] Tiếng Triều Châu, âm Hán Việt là huynh = anh.
[11] Tiếng Triều Châu, âm Hán Việt là đại ngưu, con trâu lớn.
[12] Tiếng Triều Châu, âm Hán Việt là tẩu = chị dâu.
[13] Tính nhẩm bằng cách đếm các ngón tay của người không có học toán.
[14] Nghĩa là đi ở đợ không có lương, coi như tiền lời bù vào tiền lương, khi nào có tiền trả cho chủ thì chuộc con về.
[15] Từ gọi vui những cây không bị đốn mà chết, chết khô trong rừng. Họ nói những cây này chết vì nghe tiếng búa tiều phu đang đốn các cây gần đó; chưa bị đốn, chỉ nghe tiếng búa đã chết nên gọi là “chết nhát”
[16] Một rào cắm dưới nước để chặn tôm cá lại.
[17] Dây lạt để lợp nhà làm từ đọt cây dừa nước.
[18] Một loại canh bí đỏ nhưng nấu ngọt và béo như chè.
[19] Củi miểng dài 25 cm, củi đòn dài 50 cm, củi đòn đôi dài 1 m.
[20] Tám giới của nhà Phật: (1) Không sát sinh; (2) Không trộm cắp; (3) Không tà dâm; (4) Không nói dối; (5) Không uống rượu và chất gây nghiện; (6) Không ăn quá giờ ngọ; (7) Không múa hát, kèn trống, trang điểm, dùng hương liệu; (8) Không ngồi hay nằm vào chỗ quá cao sang.
[21] Một nhánh kinh, chi lưu của sông hay kinh lớn giống như hình xương cá và dòng chảy thông suốt.
[22] Một nhánh kinh nhỏ, là kinh cụt như hình cựa gà.
[23] Một loại bao bằng cỏ lát hay cỏ bàng.
[24] Rất nhiều người, lúa chín đông ken nghĩa là lúa chín đều khắp, sắp gặt.
[25] Vịt con mới mọc lông chưa đều khắp đã giống chiếc áo lá, áo lá rách, chỉ có vào mảng lông như chiếc áo rách.
[26] Tặng quà hay tiền cho dâu rể.