THÁI QUỐC MƯU
NGƯỜI BẠN VONG NIÊN
Truyện ngắn
NGƯỜI BẠN VONG NIÊN
Truyện ngắn
Ông Ba định nhấp hớp rượu, nhưng lại để ly xuống, bảo tôi:
- Nữa! tui đã nói với chú bao nhiêu lần rồi! Đừng gọi tui bằng bác nữa. Gọi bằng anh đi! Anh, a..a.. anh, có gì thiệt thòi cho chú đâu? Bộ tui hổng đáng làm anh chú sao?
Tôi cười cười. Ông Ba nhỏ hơn cha tôi con giáp và chỉ lớn hơn chị Hai tôi năm bảy tuổi. Nếu là con trưởng, tôi gọi ông Ba bằng anh chẳng có gì đáng nói. Đàng nầy, tôi lại là đứa con thứ mười hai trong gia đình, tính ra tôi nhỏ hơn ông Ba gần đến ba mươi tuổi và, con gái đầu lòng của ông Ba còn lớn hơn tuổi tôi, lại có con cái đùm đề. Tôi gọi bằng anh coi sao được? Lẽ ra, tôi gọi ông Ba bằng chú là hợp lý nhất. Nhưng tôi vẫn ngại, vì đã gọi ông Ba bằng bác từ lâu rồi, nó đã thành “cái lệ”. Đổi lại cách xưng hô coi nó thật kỳ khôi!
Những lần trước - khi mới quen, tôi gọi ông Ba bằng bác, ông rất hài lòng, nhưng mấy lần sau nầy - nhất là hôm nay, dứt khoát ông không chịu mà cứ nằng nặc bắt tôi phải gọi bằng anh. Lý do rất đơn giản. Ông nói:
- Hổng phải là tui muốn mần... nhỏ đâu chú. Tui đã nói với chú rồi, tui hỏng có em. Em ruột đó, chứ ba cái thứ em bà con lấy giạ (1) đong cũng hổng hết. Nhưng tụi nó, có đứa nào biết chữ biết nghĩa gì đâu! Chữ Hán đó mà! Dốt như vậy làm sao tui tâm tình được? Còn nhỏ mà thông hiểu chữ nghĩa như chú, bây giờ hiếm lắm. Bởi vậy, tui rất khoái chú. Ý tui, tui muốn kết nghĩa đệ huynh với chú.
Tôi sượng sùng:
- Dạ!... Thôi để con gọi bằng chú coi được hơn đó... bác! Con còn nhỏ hơn...
Ông Ba gạt phắc:
- Đâu được, nhỏ lớn gì cũng dzậy (2). Bộ chú nhỏ tuổi rồi tui hổng kết nghĩa đệ huynh với chú được sao? Trong truyện Tàu biết bao nhiêu người kết nghĩa bằng hữu mà tuổi tác cũng như tui với chú, có sao đâu? Ăn thua ở cái tình cái nghĩa với nhau thôi. À! khi kết nghĩa anh em mà tuổi tác chênh lệch như tui với chú, người ta gọi là gì hả chú?
- Dạ! Bạn vong niên.
Ông Ba búng tay không cần kêu:
- Thấy chưa! Biết ngay mà! Nói ra là chú biết liền. Thôi, uống đi chú. Uống đi. Đừng bỏ bụng tui nghen!
Kể từ giây phút đó, về vai vế, tôi đã “có hạng” trong gia đình nầy. Tôi nghiễm nhiên là chú của “bầy trẻ” bốn đứa, mà đứa lớn nhất hơn tôi bốn năm tuổi.
Hứng chí, ông Ba quay ra sau nhà bảo “sắp nhỏ”:
- Thiếu Phương đâu rồi! À! con lựa coi con cá lóc nào trọng trọng nướng cho ba mấy con nữa đi con. Để ba với chú Út bây nhậu cho thỏa tình thỏa chí bữa nay coi!
Tôi nhìn ông Ba ái ngại. Ông lại giục:
- Ăn đi chú. Nè! ăn cá phải ăn như vầy mới đã.
Đoạn, ông vói tay lấy chén của tôi để trước mặt, rồi dùng hai ngón tay kẹp đầu cá, tay kia dùng đũa tuốt hai bên mình cá từ trên xuống dưới, rồi bỏ phần còn lại vào cái chậu đựng xương mấp mé đầy. Ông đẩy cái chén đầy cá về phía tôi. Tôi nhìn chậu xương cá, tự nhiên “phát ngán”. Dường như đoán được ý tôi, ông Ba bảo:
- Ăn đi! Mần gì mà chú ngồi thừ ra đó vậy? Ăn xong, mình đem chậu xương nầy đổ xuống mương nuôi cá. Cá lớn nó lại nuôi mình. Vòng quanh như vậy đó mà...
Ông Ba thích tôi vì ba cái vốn liếng chữ Nho của tôi. Còn tôi thích ông vì nhiều lý do lắm. Thích thì nhiều mà không có cái gì đậm nét, rõ ràng nên rất khó diễn tả. Đầu tiên có thể là sự hoạt bát, cởi mở, phóng khoáng của người dân miền Tây Nam Bộ. Họ hiếu khách, thật thà, nghệ sĩ tính. Bất cứ lúc nào cũng có cái gì tiềm ẩn trong họ như một bản sắc anh hùng! Ngoài những thứ ấy ra, tôi còn nhận thấy ở ông có “cái gì” thật là trí thức nữa...
Quả vậy, ở trong cái vùng khỉ ho, cò gáy nầy mà có một người “thông kinh điển” và “biết chữ nghĩa” như ông Ba quả là hiếm lắm.
Gia đình ông Ba lại là người trụ trì tại ấp số 3 nầy kỳ cựu nhất, nên mọi chuyện xưa, chuyện nay ở vùng nầy không điều gì ông không biết. Chẳng phải chỉ biết khơi khơi mà còn biết tường tận nữa. Tôi nghĩ, ông Ba là “pho tự điển sống” ở mảnh đất nầy. Điều đó làm cho tôi thích nhất, bởi tính tôi ưa tò mò, thích “khảo cổ”. Những gì “pho tự điển sống” ấy có thì tương lai tôi cũng có như thế. Và, sự hiểu biết ấy sẽ giúp cho tôi rất nhiều trong việc viết lách sau nầy. Tôi khoái chí ra mặt. Mãi suy nghĩ, tôi quên hẳn có ông Ba ngồi bên cạnh, cho đến khi:
- Chú nó thấy tui đặt tên cho mấy nhỏ được hôn?
Tôi như chợt tỉnh:
- Em nghĩ, đặt tên con như anh Ba thì quá khiêm nhường. Người ta đặt tên con thường chọn chữ lót nghe cho nó gồ ghề lẫm liệt. Còn anh, anh chỉ dùng chữ “Thiếu” làm tên lót cho “tụi nhỏ” ở nhà.
- Hỏng phải khiêm nhường đâu chú! Đó là thật tâm tui nói lên “cái thiếu” của tui đó thôi. Chú nghe nè! Thiếu Tài, Thiếu Đức, Thiếu Phương, Thiếu Danh. Với tiền bạc, mình biết đủ thì nó đủ, “tri túc tiện túc, hà thời túc” mà chú. Còn tài, đức biết sao cho đủ? Tiếng thơm (Phương Danh) cũng vậy. Cả đời tìm hoài cũng hổng có, lấy đâu mà hổng thiếu? Chú nghĩ có phải hôn?
Rồi ông cười buồn:
- Mình thiếu thì mình chịu thiếu. Mình đặt tên con là “Thiếu”, để lớn lên nó biết gìn giữ, tiết kiệm vậy mà...
***
Có lần, tôi thấy một thửa ruộng cỏ năng mọc bạt ngàn. Tứ bề chạy tít chân trời, tôi lấy làm tiếc; vì, nếu thay vào đó là lúa thì người dân ở đây được no ấm biết bao nhiêu. Tôi nói lên ý nghĩ của mình thì được ông Ba đáp:
- Chú nói đúng đó. Hồi tui còn nhỏ, ở đó là lúa chứ đâu phải năng. Lúa ơi là lúa, bốn bề nhìn mút mắt. Chú thấy hôn, bên nầy là kinh Chủ Chí, bên kia là kinh Thầy Cai... đủ hết, họ đào ngang xẻ dọc ngó như màn nhện. Hồi đó, đất của chủ điền nào thì người đó cho đào kinh, nên người ta lấy tên của họ đặt cho con kênh họ đào, miết rồi thành địa danh luôn. Mấy ông chủ điền họ cho đào kinh để rỏ phèn, mà cũng để chở lúa cho tiện, chứ quân ngũ nào cộ (3) cho xuể? Lúc chở về, phơi khô cho vào “lẫm” (4). Chà ! chà! chắc chú chưa biết “lẫm” là cái gì nên nghe lạ tai lắm phải hôn? Lẫm lúa là những dãy nhà cất để vựa lúa, nó cũng giống như nhà mình ở vầy nè, nhưng vách được mần kiên cố hơn, để chứa lúa không bị sạt. Người ta chứa lúa vào đó chứ hổng mần bồ (5) mần biết gì cả. Ở miệt Gành Hào còn có “lẫm chiếc” và “lẫm đôi” nữa. Lẫm chiếc, chỉ chứa chừng mười mấy ngàn giạ lúa. Lẫm đôi thì chứa bằng hai hoặc ba lần lẫm chiếc. Bây giờ người đông, đồng ruộng bị chia năm xẻ bảy. Mỗi mùa người nào nhiều lắm cũng chỉ có khoảng vài ngàn giạ là quá mức rồi, nên họ xây bồ chứa lúa chứ hổng còn cất lẫm như trước nữa.
- Như vậy, đời sống người dân lúc đó chắc khỏe lắm, hả anh?
Tôi hỏi xong chợt thấy mình ngớ ngẩn. Nhưng câu trả lời của ông Ba đã đánh tan ý nghĩ ấy.
Ông Ba cười dễ dãi:
- Khỏe sao mà khỏe! Cái thứ mần tôi mọi thì đời nào cũng như đời nấy. Ruộng lúa nhiều, nhưng là ruộng lúa của chủ điền, chớ nào phải của tá điền đâu! Thời nào cũng vậy, chỉ có “dân ngu cu đen” là phải cảnh “trên răng dưới dái” đó chú! Họ mần quần quật suốt năm chỉ tổ mần công không cho chủ. Người nào gặp vị điền chủ nhân đức thì đỡ khổ, hỏng may gặp bọn cường hào ác bá thì nó bốc lột tận xương tủy, chẳng khác gì bọn thực dân bốc lột người bản xứ. Vậy mà mỗi lần Tết đến, tá điền còn phải “Tết” cho chủ điền nữa đó chú. Lễ vật Tết ít nhất cũng là cặp gà hay cặp vịt. Một lão chủ điền có chừng trăm tá điền trở lên, chú thử làm con tính coi, mỗi kỳ Tết đến họ được bao nhiêu gà vịt. Ăn cả năm không hết.
À! chắc chú đã nghe nói về công tử Bạc Liêu chớ gì? Đó là cậu ba Trần Trinh Huy, con của ông hội đồng Trần Trinh Trạch đó chú. Ở Vĩnh Châu còn hai con kinh mang tên hai ông nầy. Mấy ngôi nhà đồ sộ nằm dọc theo bờ sông, gần cầu Quây đều là của họ Trần hết đó chú! Đời sống của dòng tộc nầy chẳng khác gì vua chúa hết. Tá điền của họ Trần may hơn tá điền của các địa chủ khác. Họ Trần không đến nỗi bạo ngược.
Ở vùng nầy, chỉ có lão điền chủ họ Hoành thì đáng ghi vào sách “tang thương ngẫu lục” lắm.
Tôi hỏi:
- Chuyện đó như thế nào vậy anh Ba?
Ông kể:
- Khoảng năm 1924, ông địa chủ họ Hoành có mấy trăm mẫu ruộng, dưới tay có cả trăm tá điền. Ngoài lệ đóng lúa ruộng hàng năm, họ còn phải đóng vai “lính” mà ông “quan Hoành” muốn kêu gọi bất cứ lúc nào lão ta nổi hứng. Lão ta tự đặt cho mình cái tục lệ rất kỳ cục, là những tá điền trong tay lão ta cai quản, phải tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh của lão ta. Lão Hoành coi điền thổ của y như là lãnh địa của một sứ quân (6). Nhà lão có hai mươi nam nữ gia nhân phục dịch trong ngoài ngoài. Ngoài ra, còn có mười tên lực điền vừa mần “lính gác”, vừa mần bảo vệ khi lão ta ra ngoài. Đứng đầu những tên lực điền là một võ sư gốc người Xiêm La (7).
Chủ Hoành có hai đời vợ rồi, hổng hiểu sao hai bà vợ của lão đều chết sớm. Người vợ cả hổng có con nối tự. Bà thứ hai thì có hai người con. Thằng con trai lớn là Hai Thọ, cô con gái kế là Ba Hưởng. Thằng Thọ giống cha nó như hai cái bánh đúc cùng khuôn. Vì là con trai một nên từ cái mánh khóe gian ác nhỏ nhặt nhất, lão Hoành cũng hổng quên truyền lại cho thằng con trai cưng của lão. Nhưng Hai Thọ còn trội hơn lão về tính láu cá và cách vung vãi tiền. Cũng may, trong cọng rau sâu vẫn còn một lá nguyên vẹn. Đó là cô Ba Hưởng, một bông hoa ngọt ngào nhân ái trong một gia đình nực mùi gian ác.
Nhấp xong miếng rượu, ông tiếp:
- Út Tiên là vợ thứ ba của lão Hoành, nhưng kẻ trên người dưới đều kêu Út Tiên bằng “bà Tư”, chớ hỏng kêu bằng “bà Ba” như cách kêu bình thường để chỉ ngôi thứ những bà vợ lẻ của các điền chủ thời đó. Tiền thân của Út Tiên là gái hạng sang ở tỉnh, tính nết bà Tư trước kia như thế nào chẳng ai biết, song từ khi về mần vợ nhỏ lão Hoành thì Út Tiên ít nói, bàng quan trước mọi sự, nên khó ai hiểu được lòng bà. Có điều, mọi người biết chắc chắn là, bà Tư rất ngán cô Ba Hưởng, vì phẩm hạnh của cô. Ngán Hai Thọ vì tánh ẩu tả và ba trợn. Và, ngán lão Hoành vì ông ta có quá nhiều... tiền! Bà Tư cùng lứa tuổi với cô Ba, và có lẽ vì ngại cách xưng hô nên người ta ít khi thấy bà Tư nói chuyện với hai đứa con chồng.
Trong nhà lão Hoành, còn có một nhân vật đáng nhắc tới nữa đó là Năm Văn, trạc tuổi Hai Thọ. Năm Văn là quản gia và mà cũng là “con cưng” của lão Hoành. Lão ta tự hào về người giúp việc đảm đang, cần mẫn của mình. Ban đầu, chủ Hoành hổng biết Năm Văn “tài giỏi” như vậy, đến một bữa có quan Tây đến nhà, trong khi chờ dự tiệc, thì thầy thông ngôn xin vắng mặt để “đi ngoài” (8). Trong khi đó, quan Tây cứ xổ ào ào tiếng Phú Lang Sa (9) mần cho lão Hoành cứ đờ mặt ra chịu trận. May sao, Năm Văn bèn bật tiếng Tây rôm rốp, rồi còn dịch tiếng Tây ra tiếng ta cho lão Hoành nghe, khiến lão ta muốn chóng mặt.
Sau đó, lão ta mạnh dạn tuyên bố rất hách xì xằng, “trong triều” có văn võ song toàn, bên ngoài thì có xã, huyện bạn bè vây cánh, thì lo gì “vương quốc” ta không cường thịnh đời đời.”
Lão Hoành vì quá chủ quan mà tuyên bố như vậy, nhưng hỏng biết rằng với cái “vương quốc” được xây dựng trên mồ hôi nước mắt của người khác, thì chú nghĩ coi với “nhân tài” lão ta đang có, liệu có thể gìn giữ được bao lâu?
Tôi khẽ gật đầu tán đồng nhận định của ông Ba, trong khi ông tiếp:
- Trong đời sống, nếu không gieo cái đức, thì cái họa tất nhiên sẽ tới gần. Chú còn nhớ câu, “Hành thiện chi nhân như xuân viên chi thảo; Hành ác chi nhân như ma đao chi thạch” hôn?
Tôi gật đầu, nói:
- Làm điều thiện, điều lành như cây cỏ mùa xuân (không thấy tốt mà tốt lúc nào không hay); Làm điều dữ, điều ác cho người, giống như cục đá mài dao (không thấy mòn mà nó mòn, hết lúc nào không biết).
Ông Ba cười đắc ý:
- Giải nghĩa như chú mới thật là đúng là “người thông thái chữ nghĩa”. Tui biết, tui kết nghĩa với chú là trúng phóc mà...
Nhấp một hớp rượu, khà một tiếng to, ông tiếp:
- Cái họa của lão Hoành chính là Hai Thọ, thằng con cưng của lão ta. Tui nghĩ, trời cao có mắt đó chú! Mần cha mẹ mà ác đức, bốc lột của người, lấy công sức của người để mần giàu, cậy thế quyền, dựa vào của cải chèn ép, lấn áp người thì trời nào để yên phải hôn chú? Nói nôm na, gieo thứ nào thì gặt thứ đó, có ai cấy lúa mà hái đậu bao giờ đâu chú! Lão Hoành mần quá nhiều điều ác thành thử trời cho Hai Thọ đầu thai mần con lão để phá banh cái sản nghiệp ấy đó chú. Chú biết hôn, Hai Thọ có cái tính thật là ác ôn, khi đi đâu thì nó hay kêu tá điền cõng nó đi.
Rồi như không kềm chế được sự nóng giận, ông Ba hằn học, tiếp:
- Nó bắt người ta mần ngựa cho nó cỡi (cưỡi). Chú thấy khốn nạn chưa? Chỉ trừ khi nào nó lên tỉnh đánh bài hay chơi đĩ thì tá điền mới thoát khỏi cảnh mọi rợ ấy thôi!
Ngừng một chút, ông Ba vừa lấy mấy đọt xoài cuốn với mấy cọng rau thơm, vừa tiếp:
- Đến mùa thu lúa ruộng, thì y như rằng, phải có nhiều điều xảy tới tá điền. Mỗi khi có người đem lúa đến, Hai Thọ bèn hốt một nắm lúa bỏ vào chậu nước, nếu chìm hết thì thôi, nếu còn hột nào nổi lên thì nó nói với tá điền ấy, “mầy nộp trấu hả mậy? Mầy ăn trấu được không mà đem nộp cho tao?”
Cứ mỗi mùa đong lúa ruộng như vậy, ít nhất có hàng chục người “nộp trấu” bị cha con lão Hoành giải quyết, “tạm trời tha tụi bây. Để chuộc tội mỗi đứa lau cột nhà mười lần.”
Chuyện hỏng mới lạ gì, nên sau khi nghe lệnh truyền ra, mỗi tá điền bèn lấy một bao bố, vào nhà chánh, leo lên mấy cây cột nhà to như cột đình làng, rồi ôm bao tuột xuống. Mới nghe coi bộ chẳng ăn thua gì. Thiệt ra, khi tuột xuống thì khỏe lắm, chớ khi leo lên thì phải biết, vì cột nhà lau như vậy đã hàng mấy chục năm rồi, nó bóng láng và trơn như thoa mỡ, leo lên tuột xuống mấy lần là thở hổng ra hơi. Nhưng họ cứ phải “vui vẻ” mần, vì thà mần như vậy còn hơn đem lúa về mần lại. Mà mần lại có yên đâu, vì mần lại tức là chọc giận cậu Hai rồi, mà khi cậu Hai giận thì hậu quả sao mà lường trước được chú?
Hai Thọ ngoài thú cỡi ngựa người, có cái thú khác ác nghiệt hơn, là nó không thèm lấy vợ, mà lại thích chim vợ tá điền. Vô phúc tá điền nào có vợ coi được, bị nó để ý, thì sớm muộn gì nó cũng cuỗm vợ người ta.
Để tui nhớ lại coi... À! À... có lần nó thấy vợ của Tư Cung, là con gái của ông Ba Hóa. Vốn là một võ sĩ, từng mãi võ Sơn Đông bán thuốc khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh. Sau đợt tranh tài với hai anh em võ sĩ Huỳnh Phi Long, Huỳnh Phi Hổ ông Ba Hóa bị thua, bèn về ẩn dật ở xóm trên đây. Thằng Thọ nó thấy mát mắt, bèn thả dê. Dụ dỗ không được, nó dọa dẫm, nhưng cũng không được. Nó bèn cùng lũ bộ hạ đến nhà làm càn, ôm đại vợ người ta. Vợ Tư Cung đang chống trả dữ dội thì Tư Cung về tới. Nóng lòng, máu giận trào lên. Tư Cung sinh liều, bất kể trời đất nữa chớ Hai Thọ thì nhầm nhè gì phải hôn chú? Tư Cung vung tay đấm vào mặt Hai Thọ một cú như trời giáng. Hai Thọ sặc máu mũi. Máu me chảy tùm lum. Trong khi Tư Cung định bồi thêm mấy cú nữa thì y bị đám thủ hạ đầu trâu mặt ngựa của Hai Thọ ập vào bắt trói rồi đánh nhừ tử.
Nhấp thêm hớp rượu cho thấm giọng, ông Ba tiếp:
- Vài ngày sau, tai họa đổ xuống đầu gia đình Tư Cung, hắn bị bắt vì tội trộm với tang vật còn giấu dưới gầm giường trong buồng của vợ chồng y. Chuyện xảy ra, đứa con nít cũng biết đó là âm mưu thâm độc của cha con lão Hoành. Nhưng vì sợ tai bay họa gởi, chẳng ai dám nói lời nào. Chú coi, ăn ở thất nhân sát đức như vậy thì trời đất nào dung tha! Phải hôn chú?
Tôi phụ họa:
- Bày mưu lập chước hại người như vậy là quá vụng về, trân tráo. Chẳng khác gì chuyện Thạch Sanh ăn cắp vàng trong chuyện cổ tích.
- Nhưng đời đâu có như tôi với chú tưởng. Hiệu quả của nó làm cho Hai Thọ rất hài lòng. Sau đó Tư Cung bị đày đi biệt xứ bỏ lại con vợ trẻ măng mà Hai Thọ đang thèm muốn. Nhà giàu mà thèm ăn thì hỏng bao giờ để chảy nước miếng. Lòng dâm trong thằng Hai Thọ cũng vậy, nó hỏng bỏ bất cứ cơ hội nào! Thế là nó kéo bọn ma vương đến túp lều của vợ Tư Cung. Lần đó, Hai Thọ bị vợ Tư Cung phản đối quyết liệt. Phần quyết giữ gìn trinh tiết, phần quyết trả thù chồng. Trong cơn nguy ngặt, vợ Tu Cung vớ ngay cái phảng (10), vốn là con gái của võ sĩ, đã từng theo cha đi tám phương tứ xứ, cô nàng vung tay múa phảng vù vù. Hai Thọ ỷ có đám thuộc hạ, lại khinh thường đường (11) bà, hắn định nhào vô cướp phảng rồi ôm đại, ai dè bị vợ Tư Cung cho một phảng vô ngay ống quyển, làm nó sụm bà chè (12).
Bọn tay sai của Hai Thọ thấy “chủ tướng” lâm nguy bèn gậy gộc hè nhau nhào vô. Vợ Tư Cung chống trả dữ dội, nhưng “mãnh hổ nan địch quần hồ” mà chú! Với lại, vợ Tư Cung là thân phận đường bà sức yếu, nên bị đám lâu la của Hai Thọ bắt trói lại. Hai Thọ lấy phảng giết chết vợ Tư Cung rồi phóng lửa đốt nhà. Vậy là vợ Tư Cung chết vì hỏa hoạn.
Ông Ba đăm chiêu một lát, rồi mơ hồ:
- Luật pháp thời đó là như vậy. Chắc chú cũng nhớ câu của thánh hiền, “Kiến nghĩa bất di vô dõng giả.” Vậy mà, tui biết tất cả tội lỗi của Hai Thọ mà tui lại làm thinh. Tui tự thấy mình quá nhu nhược, yếu hèn phải hôn chú?
Tôi đáp:
- Anh nghĩ chí phải, nhưng cũng có câu, “Mãnh hổ nan địch quần hồ.” Lại có câu, “Đa kim ngân phát luật lệ.” Thời đó, anh im lặng là phải. Vả lại, anh không phải là mãnh hổ mà chỉ có lương tâm thì anh làm gì được? Lúc đó, anh im lặng là anh “biết sống” chứ chẳng phải hèn. Anh chứng tỏ sự hiểu biết của anh trong hoàn cảnh đó, tức là anh vào bậc “trí giả” rồi! Nếu ai mà biết chuyện đó như anh thì họ cũng đành im lặng thôi!
Ông Ba ngậm ngùi:
- Hổng phải vậy đâu chú! Tui biết chú thương tui mà nói như vậy, an ủi tui như vậy để tui cảm thấy lương tâm mình hỏng bị cắn “gứt” (13) dày vò. Chú biết hôn, trong lòng dạ tui, lúc nào tui cũng tự thấy mình thiếu trách nhiệm mần người! Đã vậy, mà còn dung túng cho kẻ sát nhân ác đức sống ngoài vòng pháp luật. Tui thấy tui không xứng đáng làm một CON NGƯỜI.
Tôi cảm thông nỗi lòng của ông Ba, có lẽ vì anh ngại thân phận tôi đòi của mình mà không dám nói ra! Và, tôi xua đuổi nó, bằng cách:
- Chuyện cũ đã qua rồi. Anh không nên băn khoăn. Bây giờ “dzô” một cái rồi kể tiếp chuyện bà Tư đi anh!
Sau khi nhấp ngụm rượu, ông Ba chiều ý tôi:
- Một điều hết sức bất ngờ với mọi người là ông Chủ Hoành đột nhiên ngã ra chết bất thình lình. Cái chết dù là của một tên bất nhân, mà lại là chủ một cơ ngơi đồ xộ, có nhiều tiếng tăm ở đây, lại còn là cái chết bất ngờ nữa, nên ai nấy cũng bàn tán xôn xao. Giới tá điền thì có người mừng người lo. Họ mừng vì một tên ôn dịch đã chết. Họ lo vì sợ thằng Hai Thọ có toàn quyền nó còn ác độc hơn thằng cha của nó. Lão Hoành chết chưa được bao lâu thì gia đình lão ta xảy ra nhiều biến cố. Đầu tiên là Hai Thọ ở với... Bà Tư.
Tôi ngạc nhiên:
- Sao loạn luân vậy?
- Loạn luân? Nhưng vẫn có thể giải thích được mà chú! Út Tiên là dân chơi có tiếng tăm. Biết đâu trước lão Hoành, Hai Thọ đã từng ăn nằm với cô ta rồi. Điều nầy có lý lắm chú, vì Hai Thọ là tay ăn chơi bạt mạng chẳng những ở tỉnh thôi mà luôn ở Sègòn nữa đó. Chỗ nào có động, có hang ổ là nó biết hết ráo! Nó biết những chỗ ăn chơi như mình biết hai bàn tay của mình có mấy ngón vậy đó chú!
Bây giờ hai người ở chung nhà, cái gai trước mắt hổng còn nữa. Mà hổng chừng cái gai đó do chính Hai Thọ nhổ nữa đó nghen chú! Chú nghĩ coi, một bên là thằng đường ông háo sắc, một bên là con mẹ đường bà từng là gái giang hồ thì tụi nó ngại gì loạn luân với hổng loạn luân chú?
Tôi hỏi để câu chuyện thêm phần hấp dẫn:
- Sau đó rồi như thế nào anh?
Ông Ba ra dấu như bảo tôi đừng nôn nóng, vì câu chuyện còn dài:
- Lại một điều lạ nữa là từ khi chánh thức ăn ở với Út Tiên, Hai Thọ trở nên đứng đắn với mọi người. Hắn không còn lăng nhăng với vợ tá điền, cũng không còn ăn chơi trác táng như trước. Người ta bảo nhau, Hai Thọ “cúi đầu chịu phép” Út Tiên như con dê con trước bầy sói dữ.
Sau năm 1930, phong trào “nông dân nổi dậy” đã đánh dấu ngày tàn của Hai Thọ. Không phải vì điền sản bị phân chia mà vì cả hai vợ chồng đều thấy có triệu chứng bệnh cùi (14). Vừa đau đớn, vừa xấu hổ, nên họ vào ẩn cư ở một xóm nhỏ trên bờ sông Trèm Trẹm.
- Sao họ phát cùi vậy anh?
- Hai Thọ nghĩ rằng người tá điền nào đó hận thù gia đình nó nên “thuốc” để trả thù hành vi ác độc của ông già nó đối với họ. Nhưng mà theo tui nghĩ, có lẽ đó là do hậu quả của một thời trác táng của Hai Thọ. Nhưng hết thảy đều là đoán mò, trật lất. Sự thật là Út Tiên có sẵn dòng máu cùi trong người, chú biết mà, hầu hết người con gái nào mang dòng máu cùi trong người thì dung nhan rất đẹp đẽ, đôi má luôn luôn hồng hồng khêu gợi. Đặc biệt là máu dâm kèm theo. Bà Tư của lão Hoành bước vào làng chơi là do dòng máu đó. Nhưng Út Tiên là người khôn ngoan, có học nên biết nghĩ đến tương lai u ám của mình. Nếu cô ta cứ sống kiếp giang hồ thì khi cuộc đời về chiều mà nhất là khi bệnh cùi bộc phát, thì đời cô sẽ “tiêu tùng xíu quách” (15), chỉ có nước đi xin ăn. Vì vậy cô ta mới bằng lòng nhận lão Hoành, một lão già lớn hơn cô ta tới ba con giáp mần chồng, trong khi cô ta còn xuân sắc biết bao kẻ thèm thuồng.
Tôi lại hỏi:
- Em nhớ hình như xóm Trèm Trẹm trước kia ở...
Ông Ba cướp lời tôi:
- Đúng rồi! Nằm cách đây (cách ấp 3), khoảng hơn một giờ chèo xuồng. Nói là xóm là hồi trước kia kìa, chứ bây giờ là rừng tràm nước ngập lúp xúp. Chiến tranh liên miên người dân ở đó họ đi tứ tán hết. Bây giờ, giả sử họ đứng trên nền nhà cũ của họ, họ cũng hổng biết đó chú! “Thương hải biến vi tang điền” là vậy phải hôn chú? Ở đó chỉ có hai vợ chồng Hai Thọ, đầu bạc răng long, tay chân lở loét. Họ sống trong ngôi nhà nhỏ như hai cái bong ma!
Ông Ba chép miệng:
- Cái kiếp nhân sinh nghĩ cũng thảm thương!
Đoạn ông thở dài, nét mặt dàu dàu. Tôi cũng cảm thấy cái buồn len vào lòng, khi nghĩ đến cuộc đời tạm bợ nầy!
Tôi hỏi:
- Ở như vậy, họ sống bằng cách nào anh?
- Việc đó chú khỏi lo. Như đã nói, Út Tiên đã tính được nước cờ của mình. Họ sống mấy đời cũng không hết.
- Thế còn cô Ba Hưởng thì sao?
Ông Ba trầm ngâm một lát mới trả lời.
- Ba Hưởng là một phụ nữ tiến bộ, giàu lòng nhân ái. Một buổi sáng, cô mời Năm Văn vào phòng cô, rồi nói:
- “Việc đại sự mà sao anh hớ hênh vậy?”
Trong khi Năm Văn tròn xoe đôi mắt thì cổ (16) tiếp:
- “May mà tôi gặp, nếu chẳng may ai thấy thì tính mạng anh không còn. Khuya hôm qua anh mần gì trong phòng?”
Cô Ba Hưởng càng nói thì mặt Năm Văn càng tái mét. Sau đó ba Hưởng xuống giọng:
- “ Tôi hỏi thiệt, mà anh cũng phải nói thiệt cho tui nghe đó! Anh làm quốc sự (17) bao lâu rồi?”
Năm Văn cúi mặt đáp:
- “Dạ! Mấy năm nay rồi cô Ba.”
Cô Ba Hưởng cười duyên dáng:
- Ngoài việc để tâm trí vào chuyện quốc sự, anh còn nghĩ gì khác nữa không?”
- Dạ! Tôi nghĩ đến cô Ba. Tôi nghĩ về con người nhân ái của cô Ba.”
- “Có vậy thôi sao...”
- “Dà! Dà!...”
Cô Ba Hương thở dài:
- “Tôi biết anh nói dối. Tôi cũng biết anh thương tôi mà không dám nói. Có lẽ vì anh ngại thân phận tôi đòi của mình. Nhưng lòng tôi không khi nào nghĩ về người chồng tương lai của mình phải có thật nhiều tiền bạc hay giàu có. Điều đó đối với tôi không quan trọng. Không phải vì tôi đang sống trên nhung lụa hay trên đống vàng. Tôi nghĩ, con người cần phải có đức tính cao quý đối với con người, nhất là trong hôn nhân tình yêu phải trên hết, những thứ khác chỉ là thứ yếu. Khi yêu nhau, người ta chấp nhận tất cả, đôi khi còn phải chấp nhận đối phó với hoàn cảnh cay nghiệt nhất để được gần nhau, sống bên nhau cho hai con tim cùng hòa nhịp thở.
Bỗng cô đổi giọng:
- “Anh làm quốc sự, mà tính khí hèn yếu như vậy thì không thể mần nên đại sự.”
Năm Văn thấy tự ái bị va chạm, nhưng giọng không khỏi ấp úng:
- “Thưa cô Ba, làm quốc sự thì khác, còn chuyện tình cảm thì khác. Hai thứ đó không thể sánh nhau đâu! Với thực dân Pháp - kẻ thù của dân tộc mình, những người làm quốc sự như chúng tôi không bao giờ khiếp sợ. Nhưng với cô Ba, không hiểu sao cứ mỗi lần gặp cô, muốn nói với cô điều gì thì tim tôi đập loạn xạ lên. Thiệt thình, tôi rất quý trọng cô Ba, thương yêu cô Ba, nhưng bảo nói với cô Ba những điều đó thì tôi không dám.”
Cô Ba Hưởng cười dễ dãi:
- “Tôi biết! Tôi nói ra điều nầy không khéo người ngoài nghe được sẽ bảo “trâu tìm cột, chớ thuở đời nào cột lại tìm trâu”. Từ lâu, tôi biết anh có nhiều tình cảm đặc biệt với tôi. Dầu anh không nói ra, nhưng qua ánh mắt, cử chỉ của anh tôi đều biết. Chẳng dấu gì anh, cứ mỗi lần thấy anh nhìn tôi như vậy, lòng tôi cũng xao xuyến rung động. Lâu dần, tôi thấy thèm ánh mắt ấy của anh và tôi biết mình đã thương anh. Tôi nói bằng sự thật lòng mình. Anh có khinh tôi không?”
Năm Văn hoảng hốt:
- “Dà! Dà…! Không bao giờ tôi dám khinh cô Ba đâu! Cám ơn cô Ba đã nghĩ tới thân phận thấp hèn nầy.”
Cô Ba Hưởng mời gọi:
- “Anh lại học tính khách sáo ở đâu đó rồi! Anh Năm Văn, tại sao anh không dám chứng tỏ tình yêu của anh trước người con gái đã nói tiếng thương anh? Anh ngại gì?”
Bị Ba Hưởng tấn công bất ngờ khiến Năm Văn cuống quýt:
- “Không! Thưa cô Ba, tôi không ngại gì cả. Tôi còn trách nhiệm với tổ quốc.”
Cô Ba Hưởng tiếp:
- “Tổ quốc là của cả dân tộc, chẳng phải riêng của một cá nhân, hay của một tổ chức, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo nào.” (*). Trong đó, (rồi bỗng nhiên cô đổi cách xưng hô) em cũng có phần trách nhiệm, chớ chẳng riêng gì anh. Trong tình yêu, khi chúng ta cùng chung nhìn về một hướng, cùng có một lý tưởng với nhau thì tình yêu càng gắn bó, càng dâng cao. Anh đừng tưởng chỉ có bọn mày râu như các anh mới làm được việc lớn lao. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh hùng hồn những tấm gương oanh liệt của các bà Trưng, Triệu anh không biết sao?”
Năm Văn mừng rỡ, hắn tiến gần sát người cô Ba Hưởng, để hai tay lên đôi vai mềm mại của cô:
- “Anh để ý thương em vì lòng phúc hậu chứ không vì nhan sắc của em. Mặc dầu em rất đẹp. Đẹp từ trong ra ngoài. Việc em lén lúc cho người cung cấp tiền bạc nuôi dưỡng cha mẹ hai vợ chồng Tư Cung làm anh rất xúc động và càng quý trọng em nhiều hơn. Em là một trái ngọt trên cây đắng. Những người thân của em là những con ác quỷ trong xã hội loài người. Anh xin lỗi em vì đã nói những lời ấy. Anh đã tính kỹ rồi, nếu em đáp lại tình yêu của anh, chúng mình sẽ cùng nhau xây dựng một cuộc sống mới. Một cuộc sống trong đại gia đình xóm làng biết thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, để chúng ta chuộc lại phần nào lỗi lầm do cha, anh chúng ta đã gieo rắc từ bấy lâu nay.”
Cô Ba Hưởng thổn thức vì cảm động:
- “Anh nói đúng. Chúng ta phải làm điều đó. Nếu chúng ta không làm được chuyện ấy thì chúng ta không thể làm được việc lớn lao hơn. Chúng ta bắt tay vào việc ấy ngay từ giờ phút nầy, không cần phải chờ đến sau ngày cưới nhau.”
Năm Văn vui sướng vô cùng, hắn ôm chặt vòng lưng thon nhỏ của cô Ba Hưởng để tỏ lòng yêu thương lẫn tôn phục.”
Đặt ly rượu xuống, ông Ba nhìn tôi tiếp:
- Từ đó, những người tá điền cùng cực ở ấp 3 nầy được vợ chồng Năm Văn chiếu cố đặc biệt, họ tự chia cắt phần ruộng đất của mình cho những gia đình nghèo khổ nhất. Những tá điền khá hơn một chút, họ chỉ lấy phần nhỏ lúa ruộng tượng trưng. Những ai khá giả thì được cô Ba Hưởng bán đất cho trả dần. Đời sống người dân ở đây thay đổi hẳn. Sau “Ngày nông dân nổi dậy”, biết bao điền chủ độc ác bị tán gia bại sản, có kẻ còn bị giết chết. Chỉ có vợ chồng Năm Văn vẫn bình an vô sự. Họ sống an nhàn trong ngôi nhà ba gian hai chái với đâu hơn mươi mẫu ruộng làm kế sinh nhai.” Kể một hơi dài đến đây, chợt ông Ba ngập ngừng, giọng trở nên xúc động:
- Nhưng trời già cay nghiệt, nở phụ lòng nhân từ của người có đức. Cô Ba Hưởng mất vì bị làm băng (18) sau khi sanh đứa con thứ tư. Bệnh không ngặt nghèo lắm, không đến nỗi vong mạng, nếu thuốc thang đầy đủ. Nhưng chú biết mà, thời đó, vùng nầy xa xôi hẻo lánh...
Tôi nín lặng, cảm thông với nỗi buồn của ông. Người quá cố chắc đã cho ông nhiều ân nghĩa.
Ông Ba tiếp giọng nghẹn ngào:
- Đám tang cô Ba, tá điền ở đây và các nơi khác quy tụ về cả ngàn người. Họ tự động để tang cô. Họ thành tâm tưởng nhớ người đã cứu vớt họ thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Tôi liếc sang, thấy trên má của ông Ba long lanh hai dòng lệ. Tôi tìm lời an ủi:
- Có thể giờ đây, hương hôn cô Ba Hưởng đang ở một nơi nào đó, chắc sẽ thanh nhàn hơn cõi trần tục nầy. Và, chắc cô cũng mỉm cười sung sướng vì biết còn có những tấm lòng nghĩ đến cô.
Ông Ba lại than thở sau tiếng thở dài:
- Lão trời già thật cay nghiệt, không buông tha cho người nhân hậu, khi cô Ba Hưởng chết rồi thì Năm Văn cũng chết theo.
Tôi sững sờ, hỏi:
- Ông Năm Văn sao chết vậy anh?
Ông Ba nghẹn lời:
- Trong một chuyến sang sông thăm một người tá điền cũ bị bệnh nặng, Năm Văn bị xuồng chìm trong vùng nước xoáy...
***
Hai mươi năm sau.
Hai mươi năm trôi giạt xứ người. Mái tóc tôi đã pha màu sương tuyết. Một hôm tôi trở về thăm quê hương, nhớ lại người bạn vong niên, tôi quyến định tìm về ấp 3 để thăm viếng ông Ba. Mặc dầu với tuổi đời, tôi tin rằng ông Ba khó thể còn sống được. Nếu quả vậy, ít ra tôi cũng viếng được mộ phần của người bạn già đáng kính đó. Hai mươi qua, cuộc đời biết bao thay đổi thăng trầm. Nhưng ở vùng quê nầy, tôi cũng không có khăn tìm lại ngôi nhà của người bạn cũ.
Tôi đứng tần ngần trước trước ngôi nhà, lòng bồi hồi ray rức, ngôi nhà vẫn như xưa, tuy nét rêu phong đã phủ mờ màu khói đỏ. Vài bụi cỏ dại mọc trên mái ngói. Đầu hiên và trước sân nhà, từ trong lỗ ngói vài tổ chim se sẻ lòng thòng những cọng cỏ khô. Những con chim sẻ ríu rít bay là đà, khi chui vào tổ lúc liệng trên không rồi đậu trên mái ngói.
Một người đàn bà xấp xỉ tuổi tôi, từ đâu bước tới, nhìn tôi trân trân rồi mừng rỡ kêu lên:
- Chú! Có phải chú là chú Út Toàn hôn?
Tôi ngỡ ngàng:
- Tôi đây! Xin lỗi...
Người đàn bà đon đả:
- Chèn ơi! Chú về hồi nào? Con (19) là con Thiếu Phương nè. Chú quên con rồi sao chú?
- Trời đất! Chú không thể nào nhìn ra cháu.
Nói xong, tôi nhìn đứa bé, chừng bốn năm tuổi đang sợ sệt nắm tay Thiếu Phương, hỏi:
- Con của cháu phải không? Đứa thứ mấy rồi?
Thiếu Phương cười, đáp:
- Thằng nhỏ nầy là cháu nội của con. Nó là con đầu lòng của thằng thứ ba đó chú. Mời chú vô nhà mình!
Một cảm giác đi vào lòng tôi. Ở quê, đời sống, tính tình con người rất bình dị. Họ thật thà chất phác và răm rắp tuân theo lễ giáo của ông bà, cha mẹ. Tôi còn nhớ, Thiếu Phương là người con thứ ba (20) của ông Ba. “Nó” bằng hoặc nhỏ hơn tôi một tuổi là quá mức. Vậy mà khi nói chuyện với tôi, một điều chú, hai điều con. Thật ra, cách xưng hô như vậy, lâu rồi đã không còn làm tôi ngượng ngùng. Điều làm cho tôi nghĩ là trên dải đất thân yêu của chúng ta ngày nay còn được mấy nơi giữ gìn được nền phong hóa tốt đẹp ấy?
Tôi nhìn gian giữa của ngôi nhà, trên bàn thờ, tấm ảnh bán thân của ông Ba đang nhìn tôi mỉm cười. Có lẽ ông hài lòng vì còn có thằng em biết nghĩa tình đến thăm ông. Cũng như khi xưa, khi kể chuyện về lão Hoành cho tôi nghe mà ông nhỏ lệ khóc vợ chồng cô Ba Hưởng.
Tôi hỏi Thiếu Phương:
- Ba cháu mất bao lâu rồi? Ảnh (21) đau sao vậy cháu?
Thiếu Phương buồn bã:
- Sau khi chú giã từ gia đình con ra đi. Ba con vẫn thường hay nhắc chú. Mỗi lần nhậu, ba con đều biểu tụi con phải dọn thêm phần chén đũa và ly rượu cho chú. Ba con nói, “làm như vậy để lúc nào tao cũng nhớ chú Út tụi bây!”
Tôi thấy mắt mình cay xè. Tôi thật không ngờ người anh kết nghĩa với tôi lại trọng nghĩa tình và thương tôi đến mức đó. Thiếu Phương cũng rơi nước mắt. Nó tiếp:
- Khi ba con lâm bệnh nặng, lúc nào ba con cũng nhắc đến chú, còn dặn tụi con sau nầy gặp chú phải kính trọng như lúc ba con còn sống. Trước khi nhắm mắt, ba con cũng gọi tên chú, rồi hỏi một mình, “Út Toàn, chừng nào em về?”
Nghe Thiếu Phương kể xong, nước mắt tôi nhòa mặt, tôi bước đến bàn thờ thắp nhang quỳ lạy, chịu lỗi với người anh quá cố. Thấy vậy, Thiếu Phương òa lên khóc. Nó nghẹn ngào:
- Bây giờ chắc ở nơi chín suối ba con cũng mãn nguyện rồi phải hôn chú?
“Phải hôn chú?” Từ miệng Thiếu Phương buông ra làm tôi thêm nhớ hình ảnh ông ba. Mỗi lần nói hoặc kể chuyện với tôi, ông Ba thường hỏi ba tiếng “phải hôn chú?”
Tôi lại chợt nhớ câu chuyện giữa tôi và ông. Chúng tôi cùng luận về hai chữ “Tri kỷ”. Kẻ tri kỷ, khi chưa trả lời được câu hỏi của bạn mình cũng lấy làm khó chịu trong lòng.
Khi xưa, có hai người bạn sắp chia tay, người ở lại làm lươn để đãi người ra đi. Người ra đi hỏi:
- “Thịt lươn làm món gì ngon?”
Người ở lại chưa kịp trả lời thì tiếng người đưa thuyền thôi thúc. Người ra đi vội vã từ biệt. Người ở lại chưa kịp trả lời bạn, ấm ức trong lòng. Từ đó, ra vào buồn bã. Hai mươi năm sau - cũng hai mươi năm, hai mái đầu đã bạc. Thoắt gặp nhau trên đất khách. Người ở lại vội nói liền:
- “Thịt lươn nướng ngon lắm!”
Người ra đi ôm chầm lấy bạn, ngậm ngùi...
- Anh ba ơi! Ngày em ra đi, anh hỏi, “chừng nào chú trở lạïi?” Em chưa biết trả lời sao, thì vội vàng từ biệt. Em thật có lỗi với anh. Hai mươi năm trôi giạt xứ người, trở về thăm quê hương, em về đây với anh thì anh đã thành người quá cố. Nay trước vong hồn anh, em xin bắt chước người xưa trả lời, “nay em đã về với anh.”
***
Ngồi trên chiếc Boeing 747 của hãng hàng không Krorea Airline trở lại Hoa Kỳ. Trong chuyến bay nửa vòng trái đất, tôi không tài nào ngủ được. Hình ảnh quê hương, tình cảm con người ở nơi chôn nhau cắt rốn đã làm cho tôi nghĩ tới cuộc sống, tình cảm của những đứa con xa lìa tổ quốc. Ở đây vật chất, tiện nghi, giờ giấc đã gặm nhấm lần mòn tất cả những gì cao đẹp của nền văn hóa quê hương. Để rồi, đến một ngày nào đó, chính những con người có cội rễ nguồn gốc bây giờ sẽ chẳng còn biết quê hương mình ở phương trời nào, chẳng khác gì những người nô lệ da màu đến từ xứ Phi châu nghèo khó. Còn chăng, chỉ là mái tóc màu da...
Càng nghĩ, tôi thấy lòng mình càng se lại.
Tổ quốc ơi! Quê hương tôi ơi! Xin hãy nới rộng vòng tay thương xót chúng con. Hãy tha thứ chúng con, những đứa con trót xa lìa nơi chôn nhau cắt rốn, trót xa lìa đồng ruộng quê hương để trở thành những kẻ lang thang nơi xứ người và đang tiến dần trên con đường vong bổn.
Atlanta 06, 8, 1997
________
Ghi chú:
1. Giạ: Đơn vị đo lường, dùng để đong các loại hạt. Làm bằng tole hoặc đan bằng tre. Dung tích từ 35 đến 41 lít, tùy địa phương. Miền Nam thường dùng giạ 41 lít, đôi khi có vùng dùng giạ đến 41.5 lít hoặc 42 lít (lite = 1dm3). (Xin nói thêm, dùng giạ giống như dùng “Chục”. Mỗi “chục” thông thường có 10 hoặc 12 đơn vị . Ở miền Nam, vài địa phương mỗi một chục đến 14 hoặc 16 đơn vị).
2 + 13: Cắn “gứt”: cắn rứt, đa số người miền Nam (ở các tỉnh miền Tây thì nhiều hơn) khi phát âm không phân biệt được chữ “R” với chữ “G” hoặc chữ “V” với chữ “D”. Họ dùng “G” thay cho “R”, dùng “D” hoặc “Dz” thay cho “V”. Chẳng hạn đi “guộng”, đi “gừng”, “con cá gô bỏ trong gỗ kêu gồ gồ”, hay “Và với Dà hoặc Dzậy”. Nhưng khi viết thì viết đúng những mẫu tự. Chẳng hạn, có người nói “cái biếp” nhưng khi viết, họ viết “cái bếp”. Giống như người miền Bắc chữ “L” với chữ “N” hoặc chữ “D” với chữ “R”. Ví dụ: “Xe nam neo nề (xe lam leo lề), mặc rầu (mặc dầu), trong khi vài địa phương miền Trung không phát âm đúng chữ “Ă”, súng bắn pằng pằng, họ nói súng bắn pèng pèng hoặc tét đèn = tắt đèn.
3. Cộ: Một dụng cụ chuyên chở nông sản, một loại “xe không bánh”. Có hai cây gọng dài, máng trên cổ trâu nhờ cái ách, chạy dài từ đó ra sau. Thành cộ được đóng thẳng ngay tên hai chiếc gọng. Khi trâu bò kéo đi, phần sau hai đầu gọng kéo lê trên mặt đất.
4. Lẫm: Như nhà bình thường, nhưng vách làm chắc chắn, không để ở mà để đổ lúa vào chứa.
5. Bồ: Dụng cụ chứa lúa nhà nông, đan bằng tre, nứa. Rộng khoảng 1 mét trở lên, dài tùy ý muốn đường kính của bồ lớn hay nhỏ. Khi chứa lúa người ta dựng đứng chiều ngang lên, chiều dài cuốn thành vòng tròn rồi đóng nhiều cây cọc chung quanh phía ngoài làm sườn cho chắc chắn.
6. Sứ quân: Tướng lãnh hay quý tộc ngày xưa chiếm cứ một vùng đất tương đối làm lãnh địa riêng để tự cai trị mà không chịu ảnh hưởng bởi triều đình vua chúa.
7. Xiêm La: tên gọi cũ của Thái Lan ngày nay.
8. “Đi ngoài” hay “đi đồng”: đi vệ sinh. Thuở ấy, người nông dân miền Nam thường đi bài tiết ở đồng ruộng.
9. Phú Lang Sa: Thời đó gọi nước Pháp bằng Phú Lang Sa.
10. Phảng: Dụng cụ phát cỏ, lát, lưỡi bằng thép, to bản. Lưỡi và cán phảng không nằm thẳng như gươm đao. Cán phảng cúp lại thành góc vuông.
11. Đường bà, đường ông: Đàn bà, đàn ông, lối nói thông dụng của người dân miền Nam thời đó.
12. Bà chè: Xương bánh chè, khớp xương có hình tròn dẹt ở đầu gối người.
13 + 2. Cắn gứt (xin xem 2 + 13 ở trên)
14. Cùi: Bệnh hủi. Một trong bốn chứng nan y trong ngành Đông y.
15. Tiêu tùng = chẳng còn gì. Xíu quách = xương có thịt của động vật được nấu rụt lấy nước nấu phở, hủ tiếu.
16 + 21. Cổ, ảnh, chỉ, dĩ, dưỡng: Đại từ ngôi thứ ba, cách nói đơn giản của người miền Nam để chỉ cô ấy, anh ấy. chị ấy, dì ấy, dượng ấy…
17. Quốc sự: Làm chính trị. Ngôn ngữ miền Nam thời đó.
18. Làm băng: Sau khi sanh xuất huyết nhiều, không cầm lại được.
19: Con: Ở đây = Cháu, trong bài, từ dùng tự xưng, đại từ ngôi thứ nhất. Khi xưng hô trước những người có ngôi bậc ông bà cha mẹ chú bác cô dì, người miền Nam không xưng cháu mà xưng con.
20. Ở đây, tức là đứa con sinh lần thứ hai. Miền Nam, đứa con sinh lần thứ nhất gọi thứ Hai.