THÁI QUỐC MƯU


Phiếm:
Sai Dùng Lâu Thành Đúng?

 
Lời vào bài: Nói chuyện chữ nghĩa là nói đến kho tàng văn học, mà văn học thì chỉ có khởi điểm, không thể có kết thúc. Do đó, người viết không dám lạm bàn nhiều.
 
Nội dung bài nầy có hạn chế, chỉ đề cập đến cách dùng một số từ thiếu chính xác, đôi khi còn sai lầm mà chúng ta thường thấy trong đời sống. Mục đích của người viết là để “mua vui chữ nghĩa”. Vì vậy, vị nào không hài lòng xin vui lòng miễn thứ.
 
Dưới đây là một vài thí dụ diễn hình.
 
***
 
* VŨ hay VÕ?
 
Họ VŨ (nghịch nghĩa với VĂN), thường nói và gọi là Võ. Chẳng hạn, Võ Tòng (trong truyện Thủy Hử), đúng ra là Vũ Tùng. Gọi cây Tùng đúng hơn cây Tòng.
 
VŨ sư là thầy dạy võ, Hán tự, chữ VŨ nầy viết y như họ VŨ. Có nơi gọi họ Vũ là họ Võ. Vô tình chỉ một họ chia thành hai họ. Giống như họ Hoàng và họ Huỳnh cùng một Hán tự, nhưng ta cũng chia làm hai họ.
 
Còn VÕ sư (thầy dạy võ thuật) ít ai gọi bằng VŨ sư.
 
Riêng VŨ sư, để chỉ người thầy dạy khiêu VŨ (chữ Hán viết khác với họ VŨ), thì có đặc trưng Nam Trung Bắc một nhà đồng gọi VŨ sư. Còn Khiêu Vũ, chỉ có kẻ điên mới gọi khiêu VÕ.
 
* Việt KIỀU hay KIỀU bào?
 
Hai chữ Việt Kiều, trong nước dùng để chỉ những người Việt rời quê hương sống trên tất cả các quốc gia không phải là tổ quốc của mình. Hai từ nầy xuất hiện từ sau tháng 4/75. Đến khoảng năm 2010 thì Việt Kiều đổi thành KIỀU BÀO.
 
Chữ KIỀU trong Việt KIỀU hay KIỀU trong KIỀU bào, dùng để chỉ người từ các quốc gia khác đến cư trú trên đất nước của mình. Chẳng hạn, Việt Nam có Hoa kiều, Ấn kiều, Pháp kiều,… Vì thế, người của các đất nước khác như Anh, Pháp, Miên, Lào đến cư trú ở đất nước Việt Nam, người trong đất nước của họ, không thể dùng chữ KIỀU để chỉ họ.
 
Còn người Việt đang sống ở Mỹ, Pháp, Đức,… chánh quyền và người dân trong nước Việt Nam không thể gọi là Việt Kiều, hay Kiều Bào mà phải gọi ĐỒNG BÀO Ở HẢI NGOẠI. Còn KIỀU là để người của quốc gia sở tại gọi người từ nước khác đến định cư trên đất nước của họ.
 
 
* DÂN TỘC, SẮC TỘC và NƠI Ở:
 
Trên giấy tờ hành chánh hoặc tờ khai lý lịch trước tháng 4/75, ở mục Dân Tộc (gì?). Đa số, đều điền vào “Kinh” hoặc, “Thượng”.
 
Thực tế, từ Kinh để chỉ người sống nơi đô thị và vùng xuôi; từ Thượng để chỉ người sống ở miền cao, mạn ngược. Đó là nơi ở, chỗ cư trú chứ không phải sắc tộc.
 
Hiện nay, chánh quyền trong nước gọi sắc tộc thiểu số bằng “đồng bào dân tộc”. Trong khi, “đồng bào (cùng) dân tộc” phải là người cùng sắc tộc.
 
Nước ta có trên 50 sắc tộc, như: Việt, Mán, Mường, Stieng, Thái, Tày, K’Ho… (Hai chữ K’Ho, nếu đọc theo kiểu “Bờ, Cờ, Hờ, Đờ, Lờ…” thành “Cờ Ho” thì… “trớt quớt” (hay trớt lớt). Vì, không có dân tộc “Cờ Ho”, chỉ có dân tộc “Ka Ho”.
 
Trước 4/75 dân tộc Ka-ho (K’ho) còn tồn tại trên đất nước ta trên dưới 100.000 (một trăm ngàn) người. Người K’Ho lấy tên sắc dân của mình làm HỌ. Ví dụ: K’Yểu, K’Mây,… (đọc Ka Yểu, Ka Mây).
 
Người K’Ho, có thói quen ăn thịt Giộc sống. Khi bắt được con Giộc họ lột da làm mâm để thịt, lấy phân non làm nước chấm, họ ăn sống ngon lành, nhìn mà phát thèm. (cười). Họ không ăn sống các loại thú khác.
 
Chính việc ăn sống và dùng phân non của con Giộc làm nước chấm nên giới bình dân trong cộng đông người Việt chúng ta không gọi họ bằng người “Ka-ho” (K’ho) mà gọi bằng người MỌI, với hàm ý khinh bỉ chỉ có thứ dân mọi rợ mới ăn thịt sống, mới lấy cứu non làm gia vị chấm.
 
Trong Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội, do Nhà Xuất Bản Đà Nẵng và Trung Tâm Từ Điển Học Hà Nội ấn hành năm 1997, trang 614, giải thích chữ/tiếng MỌI như sau. Ở đây, người viết chỉ trích phần nói về người:
 
Mọi: 1d. Người dân tộc thiểu số, văn hóa và đời sống còn lạc hậu (hàm ý khinh miệt, theo quan điểm kỳ thị dân tộc thời phong kiến, thực dân).
 
 Thực tế:
 
1. MỌI, danh từ:
 
a)- Ngay nhóm từ, “Người DÂN tộc thiểu số” đã sai. Các “DÂN tộc” thiểu số trên đất nước ta, gọi họ bằng “Sắc Tộc” mới chính xác. Hai tiếng Dân Tộc để một dân tộc thuần chủng. Dùng “Người DÂN tộc thiểu số” phải chăng các Nhà Ngôn Ngữ trong bộ Từ Điển đã dẫn, họ muốn ám chỉ tất cả các sắc tộc thiểu số đều cùng một dân tộc, một chủng tộc?
 
b)- “Chữ/tiếng MỌI, nói về người, 16 Nhà Ngôn Ngữ đồng tác giả bộ Từ Điển đã dẫn trên, giải nghĩa như thế, vô hình trung mượn bọn thực dân phong kiến để nhục mạ tất cả các sắc tộc thiểu số trong đất nước ta. Trước, nay chẳng ai gọi các dân tộc Thái Đen, Thái Trắng, Mường, Mán, Tày,… bằng MỌI bao giờ. Trong khi, đại từ “MỌI” chỉ dùng để nói về sắc tộc K’ho.
 
Trung Hoa là tên một quốc gia, đất nước nầy có khoảng 50 sắc tộc lớn. “Lớn” ở đây để chỉ những sắc dân có vài triệu người trở lên. Những sắc tộc Lớn, là những dân tộc có lãnh thổ hẳn hoi, nhưng bị Trung Quốc xâm chiếm nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, trong đó có Tây Tạng, Nội Mông, Mãn Châu,…
 
Trong mỗi đất nước bị xâm chiếm đó có một dân tộc chính và có vài chục sắc tộc phụ. Trước 4/75 Trung Hoa có trên 800 sắc tộc nhỏ (những sắc tộc dưới 1 triệu người), có tiếng nói, phong tục, tập quán hoàn toàn khác nhau và đa số không có chữ riêng.
 
Người dân bất cứ sống trên lãnh thổ quốc gia nào, dù họ là người của sắc tộc nào, nếu ra định cư ở nước khác, thì người của quốc gia ấy gọi họ là NGOẠI KIỀU kèm theo Quốc Hiệu của quốc gia gốc, chứ không lấy sắc tộc gì đó mà gọi là Kiều của sắc tộc ấy. Chẳng hạn:
 
1- Người Quảng Đông chỉ là một sắc tộc của nước Trung Hoa, khi sang định cư ở Việt Nam, ta gọi họ là Hoa kiều, không thể gọi là Quảng (Đông) kiều.
 
2- Người sắc tộc K’Ho sang định cư ở Thái Lan, người Thái Lan gọi họ bằng Việt kiều, chứ không thể gọi K’Ho kiều… K’Ho chỉ là một sắc tộc của đất nước Việt Nam.
 
* TRỨNG hay HỘT?
 
Tất cả, những thứ do động vật có vú dù bốn hoặc hai chân đều đẻ ra CON. Những giống cùng họ điểu (chim) hay loài bò sát đều đẻ ra trứng, như trứng gà, trứng vịt, trứng chim, trứng cá sấu, trứng thằn lằn… thế nhưng, trứng gà, trứng vịt người ta gọi là “HỘT gà”, “HỘT vịt” “thì hơi bị điên”! Nhưng đặc biệt trứng chim, người ta vẫn gọi “Trứng chim” chưa thấy ai gọi bằng “HỘT CHIM”. Giả sử, có kẻ giang hồ tứ chiếng nào đó, gọi trứng chim bằng “HỘT chim” chắc chắn sẽ bị các nhà đạo đức giả hiệu, giàu óc tưởng tượng lên án nặng nề.
 
Cùng một họ, một loài mà thứ nầy “đẻ hột”, thứ kia “đẻ trứng” thì “đầu óc hơi có vấn đề bất bình thường”.
 
Đặc biệt, tất cả các động vật có vú thuộc giống đực, không đẻ đái chi cả,  mà vẫn có trứng. Loại trứng nầy chưa nghe ai gọi “HỘT” cả.
 
Cá biệt, có một giống gà nước, đẻ… con. Đồng thời có một giống cá cũng đẻ con. Một phim Thế Giới Loài Vật đã chứng minh điều nầy.
 
* TÔM và TÉP:
 
Tôm và tép, tuy cùng họ hàng nhưng khác chủng loại. Tôm thì có tôm càng, tôm hùm, tôm sú, tôm tích… Tôm thân hơi tròn, lớn, có màu xanh xanh hoặc vàng ửng xanh.
 
Tép thân dẹp, nhỏ, màu trắng, hoặc trắng ửng hồng. Tép có tép bạc, tép đất, tép rong... Đặc biệt, tép rong thân tròn, rất nhỏ, mình trong suốt, giống tép nầy về hình thể rất gần gũi với họ hàng nhà tôm.
 
Nhỏ hơn tép rong một tí, thân dẹp màu trắng hoặc trắng hồng gọi là RUỐC.
 
Đa số, người miền Bắc Việt Nam gọi cả hai chủng loại TÔM, TÉP bằng một từ “TÔM”. Dân đồng bằng “Nam Kỳ Quốc” thì gọi Tôm, Tép rất phân minh.
 
Ngặt, các loại tép đem luộc, phơi khô thì chẳng ai gọi “TÉP khô”, mà gọi là “TÔM khô”. Trong khi giống tôm chẳng ai luộc phơi khô bao giờ! Cũng như giống cá, sau khi làm mắm thì tự nhiên “thay tên đổi họ” thành con mắm, không còn là con cá, như mắm lóc, mắm sặc,…
 
Điều nầy, cũng giống như “Việt Kiều hồi hộp” sau 5 năm định cư ở Mỹ, thi đậu quốc tịch, liền thay tên lột họ và đặt cho mình những cái tên nửa ta nửa Mỹ rất ngộ nghĩnh: “Ăntheo-Nguyễn”, “Xàlỏn-Trần”, “Sìlíp-Phạm”, “Bốtxì-Lê” “Aiđi-TôiĐiTheoLý”, “HaoADu-Lê”, “Aiđu- Nguyễn” … Đúng là quái… thai của kẻ vong bản. Nghe biến thái vô cùng!
Còn nếu kết hợp hai chữ tôm và tép làm một thành ngữ “tôm tép”, là để chỉ hạng người thấp kém, không có vị thế trong xã hội: “hạng tôm tép, phận tôm tép,…” Lý do, vì hệ bài tiết của giống loài nầy nằm ở trên đầu, mà trên đầu có “cái cầu vệ sinh” thì làm sao khôn cho được? Làm sao có địa vị trong xã hội? Đã không khôn ngoan, không thông minh sáng suốt thì làm sao gian xảo, mánh mung, và không có những “thứ ấy” thì làm gì có vị thế trong xã hội? Cho nên, bị liệt vào “rằng thì là kẻ thấp kém, là kẻ bị xem thường…” là điều tất nhiên. Đời lúc nào chả thế?
 
* CƠ MAN hay CƠ MA?:
 
Theo Nho Việt, Cơ MAN có nghĩa là “Bất Khả Lượng”, nói nôm na là rất nhiều, không thể đếm hay không thể ước lượng được. Thế nhưng, có một số người không nói Cơ MAN mà nói Cơ MA. Trong khi “Cơ” trong CƠ MA, nghĩa là “vòng dây khớp đầu ngựa”, còn “Ma” là “buộc lại, cột lại” – “Cơ Ma” nghĩa là “kiềm chế, không cho thoát ra”. Như vậy, dùng hai chữ CƠ MA để chỉ mức độ quá nhiều không thể diễn tả được, thì… “hơi bị… chạm dây thần kinh”.
 
* CHỮ TỰ trong TỰ VẬN, TỰ THIÊU, TỰ SÁT, TỰ TỬ,…:
 
Tiếng TỰ trong TỰ vận, TỰ thiêu, TỰ sát, TỰ tử… TỰ, ở đây có nghĩa là CHÍNH TA, CHÍNH TÔI. Thí dụ: TỰ vận = Chính tôi hay chính ta kết liễu mạng sống của ta (hay tôi). TỰ thiêu = Chính tôi (hay ta) đốt tôi. TỰ sát = Chính tôi (hay ta) giết tôi (hay ta). TỰ tử = Chính tôi (hay ta) làm tôi chết.
 
Cái chết của một mạng người nếu có kẻ khác tiếp tay thì không thể gọi là TỰ tôi (hay ta) kết liễu mạng sống của mình. Mà nó có thể bị xảy ra từ một hay nhiều tên sát nhân; hoặc, do một tổ chức, đoàn thể, tôn giáo nào đó chủ trương giết chết để mưu cầu lợi ích gì đó!
 
Thí dụ: Cái chết của Thích Quảng Đức là cái chết có tổ chức giết người. Thế mà, cho tới bây giờ những kẻ ngu muội vẫn bảo rằng “TỰ THIÊU”. Đời sao còn lắm kẻ ngu đến thê…ê..ế! Chứng minh: Có người giội xăng từ đầu đến chân, có rất nhiều người dang tay ngăn cản không cho vào cứu,… Hành vi của những tên trọc đầu ngăn cản cứu người là một tội ác. Mà tội ác thì phải chịu luật nhân quả.
 
Vậy, nhân quà là gì?
 
Nhân là hạt (hột) các loài trái, quả là trái. Ý nói, gieo loại hạt giống nào thì gặt hái trái của loại hạt giống đó. Không thể khác hơn. Đấng Thích Ca Mâu Ni, theo nguyên lý đó đặt ra luật nhân quả để răn đe tội ác, khuyến khích con người hãy yêu thương đùm bọc nhau. Đừng vì hận thù, vì quyền lực, vì lợi ích cá nhân mà tàn hại lẫn nhau. Vì, gieo cái ác thì phải đền tội. Cũng như giao hạt giống xấu, không thể cho trái đẹp.
 
Luật nhân quả có thể trong hiện tại hoặc trong kiếp sau. Giết người phải đền tội. Gieo việc ác, tất gặp điều ác. Kẻ tưới xăng và những tên trọc đầu ngăn trở việc cứu hộ Thích Quảng Đức (gieo hạt) ngày nay chúng nhận cái hậu quả (hái trái) trước mắt, như không ít bọn đầu trọc ở chùa mà kinh doanh, bán sì-líp. nịch ngực, xì ke ma túy, bài bạc, thông dâm ni cô, nữ tín đồ,… Còn chùa chiền bị san bằng, bị đập nát, bị phá tanh bành đó là cái quả mà chúng phải gánh chịu các thứ “Quả” (trái) mà chúng đã gieo Nhân (hạt) ngày trước, giờ chúng phải nhận lãnh. Đó là một thực tại không thể chối cãi, không thể lý giải khác hơn.
 
Những tên trọc đầu tổ chức, tham gia, chứng kiến, không ngăn trở việc cứu Thích Quảng Đức bị đốt, chính là những tên đội lốt tu sĩ Phật Giáo, đó là những tên khinh thường, miệt thị Luật Nhân Quả của Đức Phật Thích Ca.
 
Còn những kẻ “vô tình” nhưng trực tiếp thi hành tổ chức giết người kia chắc chắn sẽ bị luật pháp trừng trị nghiêm khắc, và lịch sử sẽ phán xét công minh.
 
Pháp luật quy định, bất cứ kẻ nào chứng kiến hay cổ vũ một kẻ hoặc tổ chức giết người mà không phản đối, không tìm cách cứu, hoặc ngăn cản sự cứu hộ, thì kẻ đó sẽ bị kết vào tội đồng tình, đồng lõa và đó là tội ác hình sự.
 
Một đảng phái, đoàn thể, tôn giáo vì lợi ích riêng, âm mưu giết người lương thiện, dù mang danh nghĩa gì, dù trong hoàn cảnh nhất thời, có thể chưa bị pháp luật trừng trị, nhưng làm sao tránh được sự phê phán của quần chúng và làm sao thay đổi được lịch sử. Nhất là làm sao tránh được luật công bằng của Trời Đất?
 
Tổ chức giết người rồi rêu rao TỰ thiêu, TỰ tử, TỰ vận,… đó hành vi của bọn côn đồ “hiếp dâm chữ nghĩa”.
 
Về nhân tính thì những kẻ cổ vũ, đồng tình, bênh vực, bao che, bưng bít,… cho một hay những kẻ hoặc tổ chức giết người lương thiện đều là hành vi từ những kẻ đánh mất nhân bản, lương tri của con người lương thiện. Đó chính là những tên ác quỷ đội lốt người mà lòng dạ sói lang.
 
Chắc chắn một ngày nào đó, khi những kẻ ấy nằm trên giường bệnh phải đối diện với lương tâm, sám hối rồi mới ra đi. Nếu những kẻ ấy vẫn ngoan cố “chối từ bản chất lương thiện của con người” không chịu sám hối thì chắc chắn thân xác sẽ bị hành hạ lâu dài trước khi xuống âm ty. Còn địa ngục thì không dung thứ bất cứ kẻ nào gây ác hay bao che, bênh vực cái ác.
 
Về mặt tôn giáo, những kẻ có hành vi mất tính người ấy đã phạm tội sát sanh, phạm giới răn, giáo luật của tôn giáo mà họ đã phụng thờ.
 
Tán đồng, cổ vũ cho hành vi giết người dù dưới hình thức nào cũng làm cho thế giới loài người chân chính ghê tởm, nguyền rủa. Và, lịch sử sẽ không dung thứ! Những hành vi ác độc liên quan đến sinh mệnh của con người dù bưng bít, dù dùng những mỹ từ tốt đẹp để bưng bít, bao che cũng không thể thay đổi được Chân Lý. Chân Lý là sự thật, đó là nguyên lý bất di, bất dịch.
 
Để xứng đáng làm người cho ra CON NGƯỜI, Khi nhận xét một vấn đề, chúng ta nên nhìn từ nhiều góc cạnh, đừng chỉ nhìn một chiều. Và, đừng xét đoán theo tình cảm cá nhân của đảng phái, tôn giáo, bè đảng mà phải bằng sự công tâm của lòng lương thiện.
 
Lẽ phải luôn là bạn đồng hành của nhân loại. Kẻ nào đi ngược lại sẽ bị thời gian đào thải.
 
* HƠN và BẰNG:
 
Nếu ai đó nói, “Không ai đẹp HƠN vợ tôi”, thì bà vợ của ông ta chỉ là một phụ nữ đẹp tầm thường như nhiều người khác. Vì, không ai đẹp HƠN thì có một vài, thậm chí có hàng triệu phụ nữ khác cũng đẹp như vợ ông ấy. Có nhiều người cùng đẹp thì cái vẻ đẹp của người phụ nữ kia không còn là độc nhất. Không còn độc nhất thì giá trị của nó trở nên bình thường.
 
Nếu tôi nói, “Không ai đẹp BẰNG vợ tôi” thì sắc đẹp của vợ tôi không có đối thủ, nghĩa là, chẳng ai có thể sánh ngang với sắc đẹp của vợ tôi. Như vậy, trên thế gian nầy duy nhất chỉ có mình vợ tôi là người phụ nữ đẹp nhất. (cười).
 
Như vậy, trong SO SÁNH, đôi khi chữ HƠN thua kém chữ BẰNG. (Hi!)
 
* DIỄU HÀNH và DIỄN HÀNH:
 
Từ Điển Tiếng Việt của Trung Tâm Từ Điển Học – Hà Nội do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành, từ năm 1997. Định nghĩa như sau (trích):
 
1. Diễu hành: Đoàn người đi thành hàng ngũ, diễu qua trước lễ đài hoặc trên đường phố để biểu dương sức mạnh. Đoàn biểu tình diễu hành qua các phố lớn.
 
2. Diễu binh: (Lực lượng vũ trang) lần lượt diễu qua trước lễ đài hoặc trên đường phố để biểu dương sức mạnh. Cuộc diễu binh nhân ngày quốc khánh (ngưng trích).
 
DIỄU trong DIỄU binh hoặc trong DIỄU hành được cuốn Tự Điển ấy giải nghĩa rườm rà, dài dòng, lê thê như thế có lẽ do chịu ảnh hưởng của… “người đàn bà mất gà trong một thoại kịch”.
 
Thực tế, rất đơn giản:
 
– Diễn hành, là đội ngũ được tập luyện cách riêng trước khi đi ngang qua khán đài hoặc trước quần chúng.
 
– Diễu hành, là tập thể quần chúng không được huấn luyện trước khi đi trên đường phố.
 
Các tổ chức Quân sự hay bán quân sự được huấn luyện cách riêng, đồng nhất đi trong lễ lạc gọi là Diễn Binh, Diễn Hành.
 
Còn đoàn biểu tình đi trên đường phố một cách không đồng nhất, gọi là Diễu hành. Đặc biệt, các đoàn biểu tình không bao giờ đi ngang lễ đài.
 
Thái Quốc Mưu
(Atlanta, USA)

  Trở lại chuyên mục của : Thái Quốc Mưu