THÁI QUỐC MƯU


Đọc Mưu Thần Của Tướng Xưa
 
Hàn Tín (韓信) 229 – 196 TCN), sanh tại Hoài Âm, nước Sở, nên khi thành danh được phong Hoài Âm Hầu (淮陰候), ông là một danh tướng bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch. Trong Cao Tổ Bản Kỷ, Lưu Bang phải thừa nhận, “Nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định chiếm lĩnh thì ta không bằng Hoài Âm Hầu.”
 
Theo Tây Hán Chí. Hàn Tín thuở nhỏ mất Cha từ bé, nhà nghèo phải làm nghề câu cá, nuôi Mẹ.
 
Khi mẹ mất, Hàn Tín bán cả nhà cửa, để xây mộ cho Mẹ trên vùng núi đẹp đẽ. Vì thế phải xách kiếm đi lang thang.
 
Có tên đồ tể thấy Hàn Tín gầy gò yếu đuối nhưng lại vác kiếm trông như võ tướng, hắn muốn làm nhục Tín buộc Tín một là dùng kiếm đánh nhau với gã, hai là lòn dưới trôn nó. Hàn Tín chấp nhận chui qua háng, mọi người thấy Hàn Tín chịu bị nhục đều chê cười.
 
Những khi không câu được cá, Tín không có gì ăn, thường đi xin cơm của bà lão giặt lụa và hứa hẹn sau này làm nên sự nghiệp sẽ trả ơn ngàn vàng. Bà lão giặt lụa trách:
 
“Cậu là thanh niên trai tráng mà không lo nổi miếng ăn thì làm sao làm nên sự nghiệp, tôi thấy cậu tội nghiệp nên giúp, chứ nào có mong cậu đáp đền chi!”
 
Mọi người nghe thấy đều cho ông là người thấp kém, hèn hạ.
 
Năm 209 TCN, Trần Thắng khởi nghĩa chống nhà Tần, Hàn Tín ra bờ sông Vị Thủy cầm kiếm xin tham gia nghĩa quân. Ông đã được Hạng Lương là thế tộc nước Sở cho gia nhập nghĩa quân. Tuy nhiên, Hạng Lương và cháu là Hạng Vũ xem thường Hàn Tín thân phận thấp hèn, chỉ cho làm quân cầm kích đứng hầu. Nhiều lần Hàn Tín bày mưu cho Hạng Vũ, nhưng Hạng Vũ không dùng.
 
Nhà Tần sụp đổ, Hạng Vũ đứng đầu chư hầu, phân phong cho các tướng và vua chư hầu. Lưu Bang bị Hạng Vũ tranh công vào Quan Trung, đẩy Lưu Bang vào đất Thục xa xôi hiểm trở, rồi phong cho Bang làm Hán Vương.
 
Vào đất Thục, Hàn Tín tự mình tiến cử với Hạ Hầu Anh, lúc đó Hạ Hầu Anh chịu trách nhiệm về việc chiêu hiền đãi sĩ.
 
Hạ Hầu Anh bèn nói chuyện với Hàn Tín, rất hài lòng, sau đó tâu với Lưu Bang. Lưu Bang cho ông làm độ úy, coi về thóc.
 
Hàn Tín thường nói chuyện với tướng quốc của Lưu Bang là Tiêu Hà. Hàn Tín có nói với Tiêu Hà 1 câu rất nổi tiếng về người làm tướng như sau:
 
- “Bẩm Thừa Tướng, đạo làm tướng trước nhất phải có NĂM TÀI" và tránh MƯỜI LỖI. Năm tài là: Trí, Nhân, Tín, Dũng, Trung. Trí thì biết cẩn thận; Nhân thì biết thương người, Tín thì không sai hẹn; Dũng thì không ai dám phạm; Trung thì không ở hai lòng.
 
Còn mười điều lỗi: Một là cậy vào cái dũng khinh thân mình; Hai là gặp việc gấp thì nóng nảy, thiếu cẩn thận; Ba là gặp lợi thì ham; Bốn là vì lòng nhân không dám giết kẻ phạm tội ác; Năm là ỷ lại vào sức mình không biết lo xa; Sáu là tin người mà không phòng; Bảy là không chịu thu thập ý kiến người khác; Tám là việc đáng làm gấp mà do dự; Chín là thiên vị, thiếu công bằng; Mười là lười biếng, chỉ muốn sai người. Nếu có đủ NĂM TÀI và tránh được MƯỜI LỖI ấy, tất là tướng giỏi.”
 
Tiêu Hà nghe xong rất phục tài ông và hứa tiến cử với Hán Vương.
 
Đường từ Hàm Dương vào Thục xa xôi, hiểm trở, Lưu Bang cùng các tướng di chuyển trong thời gian khá lâu.
 
Khi Hán Vương đến đất Nam Trịnh, trên đường đi, các tướng thấy cõi Thục độc địa bỏ trốn đến mấy chục người. Hàn Tín xem chừng Tiêu Hà và Hạ Hầu Anh đã mấy lần tâu với Lưu Bang nhưng Lưu Bang không dùng mình, nên cũng bỏ trốn. Tiêu Hà nghe tin Hàn Tín bỏ trốn liền thân hành theo tìm, không kịp báo cho Hán vương biết.
 
Lưu Bang coi Tiêu Hà như cánh tay phải, lúc đó đứng ngồi không yên. Mãi hai hôm sau Tiêu Hà mới về, giãi bày hết với Hán vương và ra sức tiến cử Hàn Tín:
 
- “Các tướng đều dễ kiếm thôi, còn như Tín là kẻ quốc sĩ, có một không hai. Nhà vua nếu cứ muốn làm vương mãi ở Hán Trung, thì chẳng cần Tín làm gì chứ nếu muốn tranh lấy thiên hạ thì ngoài Tín ra chẳng có thể bàn công việc với ai.”
 
Lưu Bang dù chưa thật tin nhưng vì sự khẩn khoản của Tiêu Hà mà phong cho Hàn Tín làm đại tướng. Khi Hán vương làm trai giới, lập đàn để phong ông, cả ba quân đều kinh ngạc, không nghĩ rằng người như ông lại được lên làm đại tướng.
 
Hàn Tín lên đàn nhận phong xong, bèn phân tích cho Hán vương về những thế mạnh, yếu của Hạng Vũ và phương sách đánh bại Sở. Hán vương bắt đầu nhận ra tài năng của ông. Về sau mới biết Tín là người được Trương Lương tiến cử nên Lưu Bang lại càng xem trọng.
 
Từ đó Hàn Tín, Trương Lương, Tiêu Hà được Lưu Bang xem là Tam Kiệt của mình.
 
Để che mắt các nước Tam Tần, ngay khi vào Thục, Trương Lương cho đốt đường sạn đạo (con đường nối vùng đất Thục với Tần) khiến không nước nào chú ý đến Lưu Bang.
 
Tháng tám năm 206 TCN, Hàn Tín được phong làm đại tướng, bắt đầu ra quân bình định Tam Tần, do các vua chư hầu Chương Hàm (Ung vương), Tư Mã Hân (Tắc vương) và Đổng Ế (Địch vương) án ngữ làm phiên giậu cho Sơn Đông để cản đường Lưu Bang.
 
Hàn Tín sai người giả vờ đi sửa đường sạn đạo, vốn mất rất nhiều công sức thời gian, khiến Tam Tần yên trí rằng quân Hán còn lâu mới ra được cửa ải.
 
Trong khi Hàn Tín dẫn đại quân đi theo đường Trần Thương đi qua huyện Cố Đạo đánh úp Ung
Vương Chương Hàm. Chương Hàm đón đánh quân Hán ở Trần Thương. Hàn Tín giả thua chạy, sau đó dùng kế hỏa công mai phục đốt Chương Hàm. Ung vương bị thua chạy, lại dừng quân đánh đất Hạo Trĩ, bị thua nữa, bỏ chạy đến Phế Khâu. Hán vương đuổi theo, bình định đất đai của Ung vương, đi về đông đến Hàm Dương, lại cho một cánh quân riêng vây Ung vương ở Phế Khâu, còn sai các tướng bình định các vùng Lũng Tây, Bắc Địa, Thượng Quận.
 
Hàn Tín sau đó đánh Phế Khâu, thấy thành kiên cố dễ thủ khó công. Sau khi đi thị sát, ông nói với Tào Tham:
 
- “Dưới chân thành, con sông Bạch Thủy chảy vòng quanh từ Tây Bắc sang Ðông Nam, làn nước rất mạnh. Nếu ta dùng bịch đựng cát đắp ngang dòng sông, cho nước dâng lên, tràn vào thành, quân địch ắt phải vào bụng cá hết.”
 
Tào Tham theo kế, đem một ngàn quân xuống phía nam Phế Khâu lệnh cho binh sĩ ngày đêm thay phiên nhau dùng lá cọ, lá dừa nước đan bịch. Xong, cho cát vào bịch đem chắn dòng sông, rồi dẫn nước chảy thẳng vào thành Phế Khâu. Chương Hàm thất đảm hồn kinh phải bỏ Phế Khâu chạy về Đào Lâm.
 
Năm 207 TCN, Hàn Tín lại điều quân đánh Tắc Vương Hân, Địch Vương Ế. Bị đánh bất ngờ, Tư Mã Hân và Đổng Ế đầu hàng. Hàn Tín kéo về đông, Hà Nam Vương Thân Dương cũng đầu hàng theo. Hán Vương muốn đánh ngay Hàm Dương, Hàn Tín chủ trương diệt Chương Hàm trước, được Hán Vương đồng ý.
 
Hàn Tín đem quân đánh Đào Lâm, Chương Hàm tự sát. Hàm Dương nghe tin liền đầu hàng. Đến đây thì Tam Tần bị diệt, đất Quan Trung rơi vào tay Hán Vương.
 
Trong khi đó, Hạng Vũ sau khi giết Hàn Vương Thành, cho người thân tín của mình là Trịnh Xương làm Hàn Vương. Hàn Vương không chịu đầu hàng Hán. Hàn Tín mang đại quân đánh bại Trịnh Xương.
 
Chiếm Hàn Thành, Lưu Bang lập người tông thất nước Hàn, đang làm thái úy, cũng tên là Hàn Tín làm Hàn Vương, gọi là Hàn Vương Tín.
 
Tây Ngụy Vương Báo bèn hàng Hán, cùng hợp binh với Hán đánh Ân. Ân Vương Tư Mã Ngang bị bắt sống.
 
Hàn Tín ở lại giữ Quan Trung, Hán Vương cùng các tướng tiếp tục đông tiến, dụ thêm nước Triệu hội quân đánh Sở.
 
Lúc đó Tây Sở Bá vương Hạng Vũ đang sa lầy chiến tranh ở nước Tề, chưa diệt được Điền Quảng và Điền Hoành, Hán Vương gom quân chư hầu 56 vạn rầm rộ tiến vào chiếm cứ kinh đô Sở là Bành Thành. Hạng Vương (Hạng Vũ) mang 3 vạn tinh binh trở về đánh tan tành quân Hán ở Bành Thành. Quân Hán tan tác rút binh.
 
Một loạt các chư hầu như Tư Mã Hân, Đổng Ế, Triệu Yết thấy Sở thắng Hán lại theo Sở. Cả Điền Hoành nước Tề cũng giảng hoà với Sở. Thế quân Sở mạnh lên, Hạng Vũ mang quân tây tiến đánh Hán.
 
Hán Vương thu binh về Huỳnh Dương. Hàn Tín đến tâu với Hán Vương:
 
- “Tôi ở Hàm Dương đã chế ra được vài trăm cỗ xe để dự bị đánh Sở, loại chiến xa nầy, có tác dụng rất mạnh trong trận chiến thuộc bình nguyên. Huỳnh Dương cách đây ba mươi dặm, có một khu đất bằng có thể áp dụng chiến xa được.
 
Hán Vương nghe nói liền sai thợ ngày đêm theo mẫu xe của Hàn Tín mà chế tạo thêm được hơn 3.000 chiếc dự bị đánh Sở.
 
Hạng Vương đem quân đến, Hàn Tín gửi thư cho Hạng Vũ, đại để viết:
 
“Nguyên soái nhà Ðại Hán Hàn Tín trao thư Tây Sở Bá Vương khán hạ.
 
Tín vẫn có sung vào chức Chấp kích lang của Sở, song, trước kia cùng với Bá vương lập vua Hoài vương, quay mặt về Bắc xưng thần, đồng triều chấp sự, thì Tín là tôi của vua Nghĩa Ðế chứ không phải là tôi của Sở, lẽ ấy đã rõ ràng. Chẳng ngờ Ðại vương (Hạng Vũ) lại giết vua Nghĩa Ðế, chuyên chế chư hầu, thiên hạ oán vọng, còn Tín cũng lấy làm đau lòng. Những muốn vung gươm giết đứa đại nghịch, trả thù cho vua, nhưng xét thấy tài hèn sức yếu chưa làm nổi chuyện đó, đành phải sang đầu Hán để bá cáo tội ác Đại Vương cho thiên hạ biết. Vừa rồi, Tín đóng quân tại Hàm Dương, không đi đánh Sở, thất cơ một chút đến nỗi quân thua. Nay Tín thống lãnh hùng binh, áo trắng cờ tang, thi vũ tại Huỳnh Dương trước rửa hờn cho vua Nghĩa Ðế, sau vì Hán vương tuyết sĩ, thì phen này Đại Vương (Hạng Vũ) khó mà toàn mạng.
 
Tín báo trước cho Ðại vương giữ mình.”
 
Hạng Vương xem xong tức lắm, quát:
 
- “Thằng lòn trôn khốn nạn đó đã dám dùng lời vô lễ với ta. Phen này, ta thề không bắt được đứa phản phúc quyết không trở về.”
 
Hôm sau Hạng Vương đem quân ra đánh với Hàn Tín, Hàn Tín giả thua bỏ chạy, đến sông Kinh Sách qua cầu xong quay mặt lại chờ Hạng Vương. Hạng Vương đuổi theo, vừa qua khỏi cầu thì Hàn Tín sai quân phá cầu, rồi sai đem chiến xa ra làm tường lũy, bắn tên tua tủa vào quân Sở. Quân Sở không thoát được đều bị giết hết, Hạng Vương dẫn theo Quý Bố phá vây mà chạy. Hai nước Hán, Sở lại lâm vào thế giằng co.
 
Tháng sáu năm 205 TCN, Ngụy Vương Báo (Ngụy Báo) lấy cớ xin nghỉ để về thăm cha bị bệnh. Về đến nước, Ngụy Vương liền cắt đường giao thông ở Hà Quan, phản lại Hán, giao hiếu với Sở.
 
Hán vương sai Lịch Tự Cơ thuyết phục Báo, nhưng Ngụy Báo không nghe.
 
Tháng tám năm 205 TCN, Lưu Bang phong Hàn Tín làm tả thừa tướng để đánh Ngụy. Ngụy Báo
đem nhiều binh đến Bồ Bản chặn cửa sông Lâm Tấn. Hàn Tín dàn thêm nghi binh, bày thuyền bè như muốn vượt qua sông Lâm Tấn; nhưng trái lại dùng phục binh đi đường đất Hạ Dương, lấy thùng gỗ để cho quân vượt qua sông, đánh úp cựu đô của Ngụy là An Ấp.
 
Ngụy Vương Báo cả kinh, đem binh quan về đánh trả nhưng đã muộn. Hàn Tín đánh chiếm đất Ngụy, bắt Ngụy Báo, bình định đất Ngụy, lập thành quận Hà Đông.
 
Hàn Tín trợn mắt hỏi Nguỵ Báo (魏 豹):
 
- Nhà ngươi khi ở Hán làm chức Nguyên Soái không tròn nhiệm vụ, để quân thất trận nơi Truy Thủy. Lẽ ra, Chúa Thượng chiếu luật trừng phạt, nhưng lại để cho nhà người được về nước, giữ y vương vị, ân đức ấy nhà ngươi không cố sức báo đền, lại nghe lời thầy tướng mà phản phúc. Nay ta bắt ngươi, đáng ra phải chém đầu, song nghĩ nhà ngươi là vua của một nước…
 
Tới đây, Hàn Tín bỗng dưng truyền Tào Tham và Quán Anh mở trói cho Nguỵ Báo, ân cần mời ngồi, đoạn hạ giọng:
 
- Nhà ngươi là vua của nước Tây Nguỵ, ta hỏi ngươi câu nầy…
 
Ngụy Báo cúi mặt, nói:
 
- Nguyên Soái cứ hỏi.
 
Hàn Tín biết chữ Ngụy (魏) là HỌ của Ngụy Báo (cũng như NGỤY là tên của nước NGỤY) nhưng lại đồng âm với chữ Ngụy (偽) có nghĩa là gian dối, trộm cắp, loạn thần (như ngụy triều), nhưng muốn thử tinh thần Ngụy Báo, Tín bèn mỉm cười, hỏi:
 
- Nhà ngươi là vua của nước Tây Ngụy. Thế, ngươi có biết chữ Ngụy nghĩa là gì không?
 
Ngụy Báo đáp nhanh:
 
- Tôi nghĩ, theo ý tướng quân chữ Ngụy (偽) có nghĩa là… gian trá, trộm cắp, loạn thần. Nhưng tôi biết ngoài ra, còn có…
 
Hàn Tín cướp lời, hỏi tiếp:
 
- Giả trá, nghĩa là không thật, tức là không có chính nghĩa. Thế sao người không đổi bằng một cái tên khác?
 
Ngụy Báo ngẩng cao đầu, giọng sang sảng trả lời:
 
- Ngụy (魏) của tôi là Quốc Hiệu là của tổ tiên truyền lại, nên không thể thay đổi.
 
Hàn Tín giả lơ, lại nói:
 
- Chính vì cái … giả là không thật cho nên ngươi mới thua trận.
 
Rồi Hàn Tín hạ giọng, đặt điều kiện:
 
- Thôi được, ta sẽ tha cho ngươi về Tây Ngụy tiếp tục làm vua với một điều kiện, ngươi phải đổi lại Quốc Hiệu không còn là… Ngụy nữa. Ngươi nghĩ thế nào?
 
Nguỵ Báo nghiêm sắc mặt, nói:
 
- Nếu như Nguyên Soái vì đức hiếu sinh mà tha mạng cho Báo nầy, thì tôi nguyện kết cỏ ngậm vành. Còn như Nguyên Soái tha cho tôi mà kèm theo điều kiện, thì tôi thà chịu chết. Bởi, không có gì hèn hạ và thấp kém cho bằng, khi ban ơn cho người, lại kèm theo điều nầy, điều nọ…
 
Hàn Tín cả cười, nói:
 
- Chữ Nguỵ có đẹp đẽ chi đâu, sao ngươi lại khăng khăng giữ lấy để nhận cái chết?
 
Ngụy Báo nhìn vào mặt Hàn Tín, thẳng thắn đáp:
 
- Tôi không thể làm trái ý tổ tiên. Tôi vẫn biết, kẻ chiến bại không bao giờ được bước qua Khải Hoàn Môn. Còn kẻ chiến thắng muốn vẽ rắn thêm chân, nói vượn, nói hươu làm sao mà chẳng được? Duy có điều…
 
Hàn Tín đưa mắt dò xét:
 
- Điều gì?
 
Một thoáng nghĩ ngợi, Ngụy Báo, nói:
 
- Tôi biết khi nói ra điều nầy, Nguyên Soái sẽ không bằng lòng. Nhưng dẫu chết tôi cũng nói.
 
Hàn Tín giục:
 
- Ngươi cứ nói. Ta nghe đây!
 
Nguỵ Báo hăm hở:
 
- Kẻ chiến thắng chưa chắc đã có thực tài hay có chánh nghĩa. Đó chẳng qua do thời thế phải thế mà thôi! Như nguyên Soái trước kia bị người đời miệt khinh là kẻ lòn trôn giữa chợ, ai nấy cũng nhìn Ngài bằng ánh mắt… là kẻ lòn trôn. Nhưng bây giờ. có ai dám bảo Ngài là… kẻ lòn trôn nữa không? Chắc chắn là không! Vả lại, nếu Ngụy Báo nầy chỉ vì tham sanh úy tử, vì cái danh lợi phù du mà phản bội tổ tiên, phản bội đất nước mình thì Báo nầy há chẳng phải giống như loài giun dế sao? Nếu Ngài ban cho cái chết thì Báo nầy vui lòng chấp nhận. Còn nếu Ngài xui Báo là điều phi nghĩa thì Ngụy Báo nầy tuyệt đối không thể và sẵn sàng chấp nhận rơi đầu.
 
Hàn Tín nghe qua vỗ án, bật cười khoái chí, khom mình vòng tay trước Ngụy Báo, lời cung kính:
 
- Khí khái! Khí khái! Ha! Ha! Ha.a…a.a! Kể ra, Ngụy vương Báo rõ là người đầy khí khái! Nếu ta giết một người đầy bản lĩnh, giàu khí khái như ông, tất sẽ bị người đời nguyền rủa. coi ta như bọn thất phu! Đời đời chẳng những miệt khinh mà còn nguyền rủa một cách tệ hại! Vậy ta xin tha Người về nước. Xin đừng cảm ơn hạ tướng nầy mà hãy tiếp tục làm một vị vua sáng suốt để muôn dân được nhờ ân đức.
 
Tào Tham nghe thấy, liền vội can:
 
- Nguyên Soái tự ý tha cho Nguỵ Báo sẽ bị mang tội với Hán Vương!
 
Hàn Tín khẳng khái:
 
- Hán Vương là đấng anh minh, tất phải biết câu: “Tướng quân tại ngoại…”. Ngươi chớ có nói nhiều. Ngươi lập tức truyền lệnh ta hãy cấp người hầu, xe ngựa và lương thực cho Ngụy Vương lên đường về Tây Ngụy. Đồng thời ngươi thay ta đưa tiễn Ngụy Vương mươi dặm đường.
 
Tào Tham vâng mệnh ra đi. Quán Anh thấy vậy ra chiều nghĩ ngợi, đợi Ngụy Báo đi rồi mới hỏi Hàn Tín:
 
- Tôi biết Nguyên Soái là người trí dũng, nên tôi chưa thể đoán ra việc Nguyên Soái tha cho Ngụy Báo.
 
Hàn Tín trầm ngâm một lúc lâu, nói:
 
- Ta đánh tráo hai chữ Ngụy để thử tinh thần Ngụy Báo, nhưng ông ta nói chí phải. Ngụy chỉ là cái tên gọi. Vì vậy, không thể lấy đó làm thước đo trí tuệ của vua quan, cũng như trình độ dân trí của họ. Tướng quân hãy mau truyền lịnh ta. Tất cả các tướng sĩ, không được vì chiến thắng mà sinh lòng kiêu ngạo, bởi đó hành động hạ đẳng của bọn kiêu binh! Đừng có nghĩ, “TA” là kẻ chiến thắng thì cái gì của mình hay, cũng đúng, rồi đưa cái “TA” lên trên thiên hạ. Đời chỉ có “TA” ngu thôi, còn trăm họ luôn sáng suốt!
 
Đã là kẻ thắng cuộc, nếu ta không hơn kẻ chiến bại tất cả mọi mặt, thì ít ra cũng có mặt ta hơn. Đó là điều khó khăn nhất! Nếu là kẻ thắng cuộc thì ta phải làm được điều gì cho quân dân phe chiến bại thấy rằng, họ thua ta là xứng đáng, là vì họ thiếu chánh nghĩa. Có như vậy, thì chiến thắng kia mới thực sự vinh quang. Còn nếu như ta chiến thắng họ rồi tỏ ra ươn hèn, ngu si trước kẻ thù chung của dân tộc, của đất nước và, không có chính nghĩa bằng kẻ chiến bại, thì liệu cái chiến thắng đó có vinh quang, có được sử sách ghi chép chiến công? Hay sau nầy, qua sách sử cháu con bọn ta sẽ bị cả dân tộc nầy nguyền rủa ông cha chúng là những kẻ vì lợi ích riêng tư mà bán rẻ cả dân tộc, bán rẻ cả tổ quốc?
 
Trước khi vâng lịnh lui ra, Quán Anh vòng tay thi lễ, cung kính nói:
 
- Lời Nguyên Soái chí phải! Đúng là châu báu cũng không sánh bằng. Trong tâm trí của kẻ thua trận và nhân dân của họ không tâm phục khẩu phục thì sự chiến thắng đó chẳng có gì vinh dự cả! Và, còn làm cho kẻ chiến bại họ xem sự chiến thắng đó giống như… lũ chó đói trên đồng hoang vớ phải… c… ứt!
 
Hàn Tín đưa tay vỗ vỗ vào vai Quán Anh, giọng thân tình nói:
 
- Không ngờ… tướng quân Quán Anh là người hiểu thấu ruột gan Tín nầy. Ha! Ha..a..a.a!
 
Sau đó, Hán Vương lại sai Hàn Tín đi đánh nước Đại.
 
Tháng chín nhuận, năm 205 TCN, Hàn Tín phá quân Đại, bắt được thừa tướng Hạ Duyệt, người được Đại vương Trần Dư ủy quyền cai quản đất Ứ Dự của nước Đại. Lúc đó chiến sự giữa Hán và Sở đang rất gay go, Hán Vương bị Sở Bá vương tấn công mạnh mẽ. Hán Vương nghe tin Hàn Tín diệt liền hai nước, liền truyền thu tinh binh của ông đem đến Huỳnh Dương để chống Sở.
 
Hàn Tín và Trương Nhĩ mộ quân mới, được mấy vạn người, đi về phía Đông xuống Tỉnh Hình để đánh Triệu. Vua Triệu và Trần Dư nghe tin quân Hán sắp đánh úp, bèn tụ tập quân đội ở Tỉnh Hình, phao là hai mươi vạn. Tướng Triệu là Lý Tả Xa bày mưu cho Trần Dư nên cố thủ và chẹn đường vận lương của quân Hán nhưng Trần Dư không nghe theo.
 
Hàn Tín sai người sang thám thính, biết mưu của Lý Tả Xa không được dùng, bèn đem quân thẳng xuống. Chưa đến cửa Tỉnh Hình, cách ba mươi dặm, dừng lại cắm trại. Nửa đêm truyền lệnh xuất phát. Chọn hai nghìn kỵ binh trang bị nhẹ, mỗi người cầm một lá cờ đỏ đi theo đường tắt lén lút sang theo dõi quân Triệu.
 
Xong, Hàn Tín truyền lệnh cho đoàn kỵ binh:
 
- “Triệu thấy ta chạy, thế nào cũng bỏ trống thành mà đuổi ra. Các ngươi tiến ngay vào trong thành, nhổ cờ của Triệu dựng cờ đỏ của Hán.
 
Sau đó ông sai các tùy tướng truyền bảo cho binh sĩ ăn cơm lót lòng thôi, và nói:
 
- “Hôm nay phá quân Triệu xong sẽ họp nhau ăn tiệc.”
 
Các tướng nghe lệnh nhưng vẫn nghi hoặc không ai tin.
 
Sau đó Hàn Tín nói với tướng sĩ:
 
- “Quân Triệu đã giữ địa thế tiện lợi trước để xây đồn lũy, chúng lại chưa thấy cờ trống, chúng chưa thấy quân ta nên chưa chịu tiến lên đánh đội tiên phong vì chúng sợ đến nơi đường hẹp, hiểm trở ta phản công thì khó quay lại.
 
Rồi Hàn Tín sai một vạn người đi trước bày trận quay lưng ra sông. Đó là phép tối kỵ trong binh pháp vì theo binh pháp, phải dựa vào núi và nhìn ra sông, nếu tựa vào sông sẽ bị kẻ địch đánh dồn tới hết đường chạy, đó là chỗ chết. Vì thế quân Triệu ở xa nhìn thấy, khinh chê nói cười nghiêng ngửa.
 
Lúc bình minh, Hàn Tín truyền dựng cờ đại tướng, đánh trống lên, kéo quân ra cửa Tỉnh Hình. Quân Triệu mở cửa lũy, đánh nhau to một hồi lâu. Bấy giờ Hàn Tín, Trương Nhĩ lệnh cho vờ bỏ cờ trống chạy đến đạo quân gần sông. Đạo quân gần sông rẽ ra, đón lấy họ, rồi lại chiến đấu dữ dội.
 
Quả nhiên quân Triệu bỏ thành ra tranh lấy cờ trống của Hán, đuổi theo quân Hàn Tín, Trương
Nhĩ.
 
Khi quân Hàn Tín, Trương Nhĩ đã nhập vào đạo quân ở gần sông thì quân đội đều liều chết chiến đấu không thể nào địch quân đánh bại được. Hai nghìn quân kỵ mà Tín đã cho đi từ trước chờ đến khi quân Triệu bỏ lũy trống để đuổi theo để lấy cờ trống của Hán, liền phi ngựa nhanh vào trong thành, nhổ tất cả cờ xí của Triệu để dựng hai nghìn lá cờ đỏ của Hán.
 
Quân Triệu đã không thắng, không bắt được Hàn Tín và các tướng Hán, muốn quay trở về đồn, nhưng trong thành toàn là cờ đỏ của Hán thì cả sợ, cho rằng quân Hán đã bắt được tướng của Triệu Vương rồi. Quân sĩ hỗn loạn bỏ chạy. Tướng Triệu chém những kẻ bỏ chạy cũng không ngăn được. Quân Hán hai bên áp lại, phá tan quân Triệu, chém Trần Dư trên sông Chi Thủy, bắt sống Triệu Vương Yết.
 
Hàn Tín ra lệnh cho quân đội không được giết Lý Tả Xa, ai bắt sống được ông ta thì thưởng ngàn vàng. Có người trói Tả Xa nộp dưới cờ, Tín bèn cởi trói cho ông ta và cho ngồi quay mặt về hướng Đông, còn mình ngồi quay mặt về hướng Tây, bái làm thầy… (xin xem phần trích dẫn dưới đây)
 
Lý Tả Xa (李左). Trích Sử Ký Tư Mã Thiên – Phần Hoài Âm Hầu: “Lý tả Xa người Bách Nhân, là cháu nội Lý Mục là tướng Triệu; cha là Bạc, làm Trung đại phu chiêm sự đời Tần. Tả Xa làm việc cho Triệu vương Hiết, được phong Quảng Vũ Quân, tức là thành cũ Quảng Vũ đời Minh. Ông là mưu sĩ nước Triệu cuối đời Tần, từng khuyên tướng Hán là Hàn Tín chiêu dụ thay vì phát binh tiến đánh 2 nước Yên, Tề, kết quả thành công.
 
Tháng 10 năm 204 TCN, bọn tướng Hán là Hàn Tín, Trương Nhĩ đưa mấy vạn quân vượt núi Thái Hành, đông tiến đánh Triệu, lúc nầy đang phụ thuộc nước Sở. Tả Xa theo Thành An quân Trần Dư tập trung binh lực ở cửa Tỉnh Hình, chiếm giữ địa hình có lợi, chuẩn bị cùng Hàn Tín quyết chiến. Ông nghĩ, quân Hán đi xa thiếu lương, sĩ tốt đói mệt, vả lại Tỉnh Hình đường sá chật hẹp, ngựa xe không dùng được, nghiêm thủ thì khó lòng thất bại; tự xin nắm 3 vạn quân, theo đường nhỏ cắt đứt đường vận lương của quân Hán. Trần Dư không nghe, kiên quyết đón đánh quân Hán.
 
Hàn Tín bày "trận Bối thủy" dọc theo bờ đông sông Bí, đánh cho quân Triệu đại bại. Tín treo thưởng ngàn vàng cho ai bắt được Tả Xa. Không lâu sau, có người trói ông đưa đến trước trướng.
 
Hàn Tín lập tức cởi trói cho ông, mời ngồi quay mặt về hướng đông, Hàn Tín ngồi quay mặt về hướng Tây, bái làm thầy.
 
Hàn Tín hỏi Quảng Vũ Quân (Lý Tả Xa):
 
- “Kẻ hèn nầy muốn bắc đánh Yên, đông dẹp Tề, làm thế nào thì thành công?”
 
Quảng Vũ Quân, tạ rằng:
 
- “Tôi nghe tướng thua trận, không thể kể chuyện dũng cảm; đại phu mất nước, không thể toan mưu giữ gìn. Nay tôi là tên tù thất bại mất nước, sao có quyền bàn đến việc lớn!?”
 
 Tín nói:
 
- “Kẻ hèn nầy nghe nói, Bách Lý Hề ở nước Ngu thì nước Ngu bị mất, ở nước Tần thì nước Tần xưng bá, không phải Bách Lý Hề ở Ngu thì ngu, ở Tần thì khôn, ấy là do được dùng hay không! Nếu như Thành An Quân nghe theo kế của túc hạ, thì Tín nầy đã bị bắt rồi.”
 
Nói xong, cố nài rằng:
 
- “Kẻ hèn nầy dốc lòng theo kế, xin túc hạ chớ từ khước từ thành ý”.
 
Quảng Vũ Quân nói:
 
- “Tôi nghe kẻ khôn nghĩ ngàn việc, ắt có một việc sai; kẻ ngu nghĩ ngàn việc, ắt có một việc đúng. Nên mới có câu “lời của kẻ rồ, thánh nhân cũng xét đến”. (Nguyên văn: 千虑一得 (Hán Việt: Thiên lự nhất đắc. Tạm dịch: ngàn nghĩ được một). Nguyên văn: “智者千虑, 必有一失; 愚者千虑, 必有一得” (Hán Việt: trí giả thiên lự, tất hữu nhất thất; ngu giả thiên lự, tất hữu nhất đắc. Tạm dịch: kẻ khôn nghĩ ngàn việc, ắt có một việc sai; kẻ ngu nghĩ ngàn việc, ắt có một việc đúng).
 
Chỉ e kế của tôi chưa chắc đã dùng được, chỉ xin tỏ lòng ngu trung. Ôi! Thành An Quân có kế bách chiến bách thắng, trhế mà một sớm, một chiều lại thất bại, quân bại dưới thành Khao, thân chết gần sông Bí. Nay tướng quân vượt Tây Hà, cầm tù Ngụy Vương (Ngụy Báo), bắt Hạ Duyệt ở Át Dữ, một trận lấy Tỉnh Hình, không đầy một buổi sáng phá 20 vạn quân Triệu, giết Thành An Quân. Tiếng nổi trong nước, oai vang thiên hạ, nông phu không ai không nghỉ cấy buông cày, mặc áo đẹp, ăn món ngon, nghiêng tai để đợi mệnh.
 
Như thế, là sở trường của tướng quân vậy. Nhưng mà giờ đây sĩ nhọc, tốt mỏi, kỳ thật khó dùng.
 
Nay tướng quân muốn cất quân vất vả, đình đốn dưới thành nước Yên, muốn đánh thì sợ lâu ngày không nhổ được, tính rõ thì thế yếu, lâu ngày thì hết lương, mà nếu Yên không phục, Tề ắt giữ biên giới chống lại. Yên – Tề giằng co không hạ được, thì quyền vị của Lưu (Bang) – Hạng (Vũ) chưa phân rõ. Như thế ấy, tức là sở đoản của tướng quân vậy.
 
Tôi ngu, trộm cho rằng làm thế là sai. Bởi kẻ giỏi dùng binh không lấy đoản đánh trường, mà lấy trường đánh đoản.”
 
Hàn Tín nói:
 
- “Vậy Tín nầy nên làm thế nào?”
 
Quảng Vũ Quân đáp rằng:
 
- “Đương lúc nầy xin bày kế cho tướng quân, chẳng bằng xếp giáp dừng binh, vỗ về những đứa con mất cha của nước Triệu; trong vòng trăm dặm, đem bò rượu đến đãi hết ngày, đem thết sĩ phu và khao binh sĩ; đề phòng nước Yên ở mặt Bắc, rồi sau đó sai biện sĩ đem thư bộc lộ sở trường của ở Yên, Yên ắt chẳng dám không nghe theo. Yên đã theo, thì sai sứ giả truyền lời sang nước Tề ở phía đông, Tề ắt thuận thời mà theo; dẫu có kẻ khôn, cũng không thể bày kế cho Tề. Như thế, thì thiên hạ có thể lấy được. Việc binh vốn có phép trước hư (đánh tiếng) rồi sau thật (dùng binh) vậy.”
 
Hàn Tín nói:
 
- “Chí phải." Tín nầy xin theo sách lược của ông”. Rồi sai sứ đi Yên, Yên thuận thời mà hàng.)
(ngưng trích).
 
Các tướng đem thủ cấp các tướng Triệu và tù binh đến nộp đâu đấy và chúc mừng, nhân dịp hỏi Hàn Tín:
 
- “Binh pháp nói, “khi dàn binh phải chọn, bên phải và sau lưng thì có núi gò, trước mặt bên trái thì có sông đầm, nay tướng quân lại sai bọn chúng tôi quay lưng ra sông mà bày trận, nói rằng phá xong quân Triệu sẽ ăn cơm. Bọn chúng tôi không phục nhưng kết quả lại thắng, không biết đó là thuật gì?”
 
Hàn Tín cười đáp:
 
- “Điều đó có ở trong binh pháp, chỉ có điều các ngươi không xét đến mà thôi. Chẳng phải binh pháp có nói: “Hãm vào đất chết thì sau đó mới sống, dắt vào chỗ mất thì sau đó mới còn” hay sao? Vả chăng không phải ta đã có những tướng sĩ đã từng được huấn luyện sao? Đây cũng như người ta nói là buộc những người ngoài chợ phải đi đánh giặc. Trong tình thế đó, nếu không đặt họ vào nơi đất chết thì họ không thể nào chiến đấu. Ta đặt họ vào đất chết khiến cho người nào cũng vì mình mà chiến đấu thì sao chẳng thành công? Nếu như ta để cho họ vào nơi đất sống thì họ đều bỏ chạy, ta còn làm sao dùng họ được nữa?”
 
Theo kế của Lý Tả Xa, Hàn Tín cho quân nghỉ ngơi, bình định nước Triệu, rồi sai người mang một bức thư sang nước Yên dụ Yên vương Tang Đồ. Tang Đồ sợ thế quân Hán bèn xin theo.
 
Hàn Tín sai sứ báo với Hán, nhân tiện xin lập Trương Nhĩ làm Triệu Vương để cai trị và vỗ về nước này. Vua Hán ưng thuận, bèn lập Trương Nhĩ làm Triệu Vương.
 
***
 
Hạng Vũ mấy lần sai kỵ binh vượt qua sông Hoàng Hà đánh Triệu. Triệu Vương Nhĩ và Hàn Tín
đi đi lại lại để cứu Triệu, nhân lúc đi lại bình định các thành ấp ở Triệu, đem binh đến giúp Hán Vương.
 
Hạng vương đang bận vào việc vây Hán Vương ở Huỳnh Dương, nên không thể dồn đại quân đánh Triệu. Hán Vương bị quân Sở vậy ngặt, phải trốn ra về phía Nam, đến giữa miền Uyển và Diệp, chạy vào Thành Cao. Hạng Vũ lại bao vây rất gấp.
 
Tháng sáu năm 204 TCN, Hán Vương ra khỏi Thành Cao, chạy về hướng đông, vượt qua sông Hoàng Hà, chỉ có một mình Hạ Hầu Anh cùng đi. Hán Vương theo quân của Trương Nhĩ đến Tu Vũ. Đến nơi, Hán Vương nghỉ ở ngoài quán trọ. Sáng sớm, Hán Vương tự xưng là sứ thần nhà Hán, phi ngựa vào trong thành Triệu. Trương Nhĩ, Hàn Tín chưa dậy, Hán Vương vào trong phòng ngủ, cướp ấn tín và binh phù, dùng cờ mao để triệu tập các tướng, thay đổi chức vị các tướng.
 
Khi Hàn Tín và Trương Nhĩ thức dậy, mới biết là Hán Vương đã đến. Hán Vương sau khi đoạt quân của hai người liền ra lệnh cho Trương Nhĩ giữ lấy đất Triệu, phong Hàn Tín làm tướng quốc, thu quân đội của Triệu chưa phái đến Huỳnh Dương để đánh Tề.
 
Hàn Tín đem quân sang Đông, chưa vượt qua bến sông Bình Nguyên thì nghe tin sứ thần của Hán Vương là Lịch Tự Cơ đã thuyết phục được nước Tề đầu hàng. Hàn Tín muốn dừng lại. Người biện sĩ đất Phạm Dương là Khoái Triệt bàn với Hàn Tín:
 
- “Tướng quân nhận chiếu đánh nước Tề, nay Hán Vương chỉ sai một người ly gián mà khiến nước Tề đầu hàng, nhưng đã có chiếu chỉ bảo tướng quân dừng lại đâu? Tại sao tướng quân lại không đi? Vả chăng Lịch Sinh là một kẻ sĩ kính cẩn chỉ múa ba tấc lưỡi mà hạ được hơn bảy mươi thành của nước Tề, tướng quân cầm mấy vạn quân hơn một năm mới hạ được hơn năm mươi thành của Triệu. Làm tướng quân bao năm mà công không bằng một anh nhà nho hay sao?”
 
Hàn Tín cho là phải, theo kế của Khoái Triệt, mang quân vượt qua sông Hà.
 
Nước Tề đã nghe lời Lịch Sinh nên giữ Lịch Sinh ở lại uống rượu, triệt bỏ các quân đội để phòng ngự quân Hán. Hàn Tín nhân đó đánh úp quân Tề ở Lịch Hạ, đi đến Lâm Tri. Vua Tề là Điền Quảng cho rằng Lịch Sinh lừa mình nên nấu Lịch Sinh và trốn đến đất Cao Mật, sai sứ đến nước Sở để cầu cứu. Sau khi đã bình định Lâm Tri, Hàn Tín đi về hướng Đông, đuổi Quảng đến phía Tây đất Cao Mật.
 
Hạng Vương nghe cầu cứu của Tề, bèn sai Long Thư làm tướng, phao là hai mươi vạn quân, đem quân đến cứu Tề. Vua Tề là Điền Quảng cùng Long Thư dồn quân để đánh nhau với Hàn Tín.
 
Long Thư bày trận hai bên sông Tuy Thủy. Hàn Tín đang đêm sai người đan hơn một vạn cái vỏ đổ đầy đất chặn lấy thượng lưu dòng sông rồi đem quân qua nửa chừng đánh Long Thư, giả vờ thua, quay lưng bỏ chạy về. Long Thư quả nhiên mừng rỡ nói:
 
- “Ta biết Hàn Tín nhát gan mà!”
 
Bèn dẫn quân đuổi theo, qua sông. Lúc đó Hàn Tín cho người phá các vỏ đựng đất, nước sông chảy cuồn cuộn, ào ào như thát đổ, đại quân của Long Thư qua quá nửa sông không qua tiếp được, cũng chẳng quay lại được. Hàn Tín mới thúc quân đánh gấp, giết được Long Thư. Bộ phận quân của Long Thư phía đông dòng sông (tức phía bên kia bờ) bỏ chạy tán loạn.
 
Vua Tề là Điền Quảng chạy trốn. Hàn Tín liền đuổi theo đến đất Thành Dương, bắt bỏ tù tất cả lính Tề.
 
Năm 203 TCN, Hàn Tín bình định nước Tề, sai người báo với Lưu Bang:
 
- “Nước Tề là nước gian dối, hay gây biến, tráo trở. Biên giới phía Nam là nước Sở, nếu không lập giả vương để giữ thì không thể bình định được. Xin cho tôi làm giả vương.”
 
Lúc bấy giờ quân Sở đang vây Hán Vương rất gấp ở thành Huỳnh Dương. Sứ giả của Hàn Tín đến, Hán Vương mở phong thư ra, cả giận mắng:
 
- “Ta đang nguy khốn ở đây, sớm chiều trông nó đến giúp thế mà nó lại muốn tự lập làm vương à?”
 
Các mưu sĩ Trương Lương, Trần Bình giẫm vào chân Hán Vương, nhân đấy ghé vào tai Hán Vương nói:
 
- “Nhà Hán hiện nay bất lợi, có thể cấm không cho Tín làm vương được không? Chi bằng nhân đấy mà lập, đối xử với ông ta cho tử tế, khiến ông ta vì mình mà giữ. Nếu không sẽ sinh biến.”
 
Hán vương nghe theo, liền sai Trương Lương đi lập Hàn Tín làm Tề Vương, trưng dụng binh của ông đến đánh Sở.
 
Nghe tin Long Thư chết, Hạng Vương lo lắng sai Vũ Thiệp, người Vu Thai đến nói với Tề Vương Tín (Hàn Tín), hãy phản Hán để chia ba thiên hạ nhưng ông từ tạ rằng:
 
- “Tôi thờ Hạng Vương, quan chẳng qua là lang trung, địa vị chẳng qua là cầm kích đứng hầu ở điện, lời nói ra không được nghe, mưu kế đưa ra không được dùng, cho nên tôi bỏ Sở mà theo Hán. Hán Vương trao cho tôi ấn thượng tướng quân, giao cho tôi mấy vạn binh, cởi áo của mình để cho tôi được dùng. Cho nên tôi mới được như thế này. Phàm người ta hết sức tin cậy mình thành thực như thế mà mình phản lại là điều chẳng lành. Tôi dù chết cũng không thay lòng đổi dạ. Nhờ ông thưa lại với Hạng Vương rằng Tín nầy từ chối.”
 
Sau khi Vũ Thiệp đi rồi, người nước Tề là Khoái Triệt biết rằng thiên hạ ai thắng ai bại là ở Hàn Tín, cũng ra sức thuyết phục ông cắt đất Tề, Yên, Triệu để chia ba thiên hạ, tạo thế chân vạc. Nhưng ông nói với Khoái Triệt rằng:
 
- “Vua Hán đối đãi tôi rất hậu, lấy xe của mình để cho tôi đi, lấy áo của mình để cho tôi mặc, lấy cơm của mình để cho tôi ăn. Tôi nghe nói “đi xe người ta thì lo điều lo của người ta, mặc áo của người ta thì mang điều lo nghĩ của người ta, ăn cơm người ta thì chết cho công việc của người ta”. Tôi lẽ nào lại chạy theo lợi mà quên nghĩa?
 
Khoái Triệt cố phân tích mọi lẽ để thuyết phục, ông nói thêm mấy lần nữa cũng không lay chuyển nổi vì Hàn Tín không nỡ phản lại Nhà Hán. Ông lại tự cho rằng mình lập được nhiều chiến công, vua Hán dẫu sao cũng không lấy mất nước Tề của mình, nên ông bèn từ tạ Khoái Triệt. Khoái Triệt nói không được, bèn giả điên, làm người thầy cúng.
 
Sau hoà ước Hồng Câu, năm 202 TCN, Hán vương theo kế của Trương Lương, bội ước mang quân đánh úp Hạng Vương, nhưng vẫn bị Hạng Vương quay lại đánh cho đại bại ở Cố Lăng. Lưu Bang lo sợ, bèn theo kế của Trương Lương, triệu Hàn Tín cùng Bành Việt mang quân về giúp, hứa sẽ phong cho nhiều đất.
 
Hàn Tín cùng Bành Việt nghe theo, đem binh họp nhau với Hán vương ở Cai Hạ. Hạng Vương thấy quân Hán ngày càng đông, biết không thắng được, bèn hạ lệnh quay về phía đông rút về Bành Thành. Hàn Tín đem quân tập kích quân Sở giữa đường, Hạng Vương tức giận đem quân quay lại. Hàn Tín giả rút lui, trên đường đã đặt sẵn quân mai phục khắp các mặt. Hạng Vương không biết là bẫy, đi đến đâu cũng bị quân Hán đổ ra tập kích, không sao thoát được, cuối cùng thì phải rút vào Cai Hạ. Mấy mươi vạn quân Hán siết chặt vòng vây, quân Sở bị vây kín mười mặt.
 
Theo kế Trương Lương, Lưu Bang cho quân Hán bốn phía cùng ca bài ca nước Sở (tứ diện Sở ca). Quân Sở nghe tiếng hát, nghĩ là Sở bị Hán chiếm rồi, bèn đào ngũ trốn đi hết. Ái thiếp của Hạng Vương là Ngu Cơ tự sát, Hạng Vương cùng 800 thân binh phá vây, đến bờ Ô Giang thì chỉ còn 26 người. Có người đình trưởng chờ ở bờ sông muốn đưa Hạng Vương qua sông về Giang Đông nhưng Hạng Vương từ chối rồi cùng 26 kỵ binh bỏ ngựa tử chiến. Hạng Vương một mình giết mấy trăm người, chịu mười mấy vết thương, cuối cùng đâm cổ tự sát. Tây Sở diệt vong.
 
Sau khi Hạng Vũ đã bị phá, Lưu Bang lập tức đoạt lấy quân của Tề Vương Tín (Hàn Tín) lần thứ hai (lần trước ở thành Tu Vũ).
 
Hàn Tín vừa lập được công xong lập tức bị tước binh quyền. Tới tháng giêng năm 202 TCN, Lưu Bang dời Tề Vương Tín làm Sở Vương, đóng đô ở Hạ Bì. Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, lập ra vương triều Đại Hán, tức là Hán Cao Tổ. Nhà Hán trị vì 400 năm.
 
Năm ấy, mọi chuyện đã ổn định. Hàn Tín về quê thăm lại bà Phiếu Mẫu, người mà trước đây đã cưu mang Hàn Tín thuở còn hàn vi, từng cho cơm Hàn Tín trong cơn đói khát.
 
Hàn Tín bèn xây nhà, tặng châu báu, tạo vườn tượt, cung cấp ruộng đất, người hầu và nguyện chăm sóc Phiếu Mẫu đến cuối đời.
 
Hàn Tín truyền gọi tên hàng thịt ngày trước bắt mình lòn trôn giữa chợ đến ban truyền:
 
- Nhờ trước kia nhà ngươi bắt ta lòn trôn giữa chợ, mà hôm nay ta trở thành Đại Tướng. Ta rất cám ơn ngươi. Bây giờ ta ban cho nhà ngươi chức Huyện Lệnh (Quận trưởng) ở đây.
 
Tên hàng thịt lúc đầu nghe Hàn Tín gọi đến run như cầy sấy, đến khi nghe Tín ban cho chức Huyện Lệnh như mở cờ trong bụng, liền dập đầu lạy tạ và nhận lịnh lên đường.
 
Quán Anh thấy vậy can:
 
- Một kẻ ngu dốt chuyên làm nghề thịt heo. Nó biết gì, sao Đại Tướng lại bổ nhiệm làm quan?
 
Hàn Tín cười, đáp:
 
- Chỉ trong một thời gian nữa, Tướng Quân sẽ biết ý định của ta.
 

Vốn kẻ ngu dốt, học hành không qua chữ Nhất (一) gặp thời bỗng nhiên được phe phái nâng lên làm quan, có uy quyền, ăn trên ngồi trước, bỗng lộc ngày ngày… Tân Huyện lệnh (tên hàng thịt) rất hách dịch, tha hồ giở thói tham lam, hiếp đáp bốc lột đất đai, tài sản dân lành.

 
Người có học hành, đạo đức làm quan thường có liêm sỉ, biết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Còn bọ ngu dốt như tên đồ tể được làm huyện lệnh chi hại dân, hại nước mà thôi.
 
Mấy tháng sau, Hàn Tín đến huyền đường do tên hàng thịt làm huyện lệnh thanh tra sổ sách, phát hiện hắn ta vơ vét của dân từ bãi cứt khô đến ngoại viện do chánh quyền trung ương rót xuống cứu trợ thiên tai, bão lụt cho dân, hắn ta đều đớp hết cho vào túi riêng.
 
Chiếu theo phép nước, Hàn Tín ra lịnh xử tử, tịch thâu tất cả tài sản của tên huyện lệnh ngu dốt hàng thịt kia sung vào công quỹ
 
Trên đường về Quán Anh sực hiểu ra, bật cười sang sảng. Hàn Tín ngạc nhiên hỏi:
 
 - Sao Tướng Quân lại cười?
 
Quán Anh, đáp:
 
- Tôi cười vì khâm phục sự… trả thù hết sức tuyệt diệu của Nguyên Soái.
 
Hàn Tín vờ không hiểu:
 
- Tướng Quân nói ta trả thù? Vậy ta trả thù ai?
 
Quán Anh nói:
 
- Suốt cuộc đời vào chinh ra chiến, lẫy lừng cùng trận mạc, Ngài thừa hiểu rằng, bọn bất tài vô tướng khi chúng có chức có quyền bao giờ cũng có lòng tham vô độ. Với một gã bán thịt, kẻ mà trước đây bắt Ngài lòn trôn giữa chợ, khi Ngài làm Đại Tướng, muốn giết nó lúc nào không được? Nhưng giết nó lúc đó, người đời sẽ thấy Ngài chú tâm trả thù cá nhân, nên Ngài ban cho nó chức huyện lệnh, để người người nhìn vào cứ tưởng đó là tấm lòng vị tha, đức độ, bao dung của Ngài. Nhưng thực ra, Ngài biết những kẻ ngu dốt như tên hàng thịt kia khi có chức có quyền sẽ lộ rõ chân tướng tham lam của công, cướp bốc tài sản, đất đai dân nghèo, lúc đó Ngài nhân danh pháp luật trị tội nó. Giết nó mà được danh chánh ngôn thuận. Chẳng ai dám nghĩ Ngài giết nó để trả thù riêng.
 
Hàn Tín cười to, nói:
 
- “Ôi, sanh ta ra là cha mẹ, hiểu ta là Quán Anh. Ta rất khâm phục cái trí của Tướng Quân!”
 
Quán Anh chấp tay xá ba xá đáp lễ, rối nói:
 
- Cái trí của kẻ nầy chỉ là cái trí của giống chim sâu, chim sẻ. Cái trí của Nguyên Soái là cái trí của giống Đại Bàng, của chim Hồng chim Hộc. Quán Anh nào dám sánh? Nào dám nhận lời khen của Ngài! Có điều không bóng tối nào được ánh quang rọi đến mà không sáng. Tiểu nhân được như ngày hôm nay chẳng qua là nhờ được đứng dưới vầng nhật nguyệt mà thôi!
 
***

 

 

 
Một lần, lúc thung dung Lưu Bang nói chuyện với Hàn Tín về tài năng của các tướng, xem tài năng họ như thế nào, Lưu Bang hỏi Hàn Tín:
 
- “Như ta thì có thể cầm được bao nhiêu quân?”
 
Hàn Tín nói:
 
- “Bệ hạ chẳng qua chỉ cầm được mười vạn.”
 
Lưu Bang lại hỏi:
 
- “Thế còn nhà ngươi thì cầm được bao nhiêu?”
 
Hán Tín trả lời:
 
- “Thần thì càng nhiều càng tốt!”
 
Lưu Bang cười nói:
 
- “Càng nhiều càng tốt thì sao lại bị ta bắt?”
 
Hán Tín đáp:
 
- “Bệ hạ không có tài cầm quân, nhưng có tài cầm tướng, vì vậy cho nên Tín mới bị bệ hạ bắt.
 
Sau lần đó, Lưu Bang càng sợ tài của Tín và quyết trừ khử cho được.
 
Viên tướng của Hạng Vương bỏ trốn là Chung Ly Muội nhà ở núi Y Lư, vốn chơi thân với Tín. Sau khi Hạng Vương chết, Muội bỏ trốn về với Hàn Tín. Hán Cao Đế truy lùng Chung Muội, nghe nói Muội ở Sở, ra chiếu cho Sở Vương Tín bắt Muội.
 
Năm 201 TCN, có người đưa thư lên báo Sở Vương Tín làm phản. Cao Đế dùng mưu kế của Trần Bình, giả cách thiên tử đi tuần thú hội họp chư hầu. Ở phương Nam có đất Vân Mộng, Hán Đế bèn sai sứ báo cho chư hầu biết vua sẽ họp ở đất Trần, rằng: “Cao Đế sẽ đi chơi Vân Mộng, kỳ thực vua Hán muốn bắt Hàn Tín, nhưng Tín không biết.
 
Cao Tổ sắp đến Sở, Hàn Tín lo lắng vì chứa Chung Ly Muội trong nhà. Có người khuyên ông chém Muội để ra mắt nhà vua thì sẽ khỏi tội.
 
Hàn Tín bèn đến gặp Chung Ly Muội nói về việc ấy, Muội nói:
 
- “Nhà Hán sở dĩ không dám đánh lấy Sở là vì Muội ở nhà ông. Nay ông muốn bắt ta để nịnh nhà Hán, thì ta hôm nay chết nhưng ông cũng chết theo như trở tay mà thôi.”
 
Rồi Muội mắng Hàn Tín:
 
- “Nhà ngươi không phải bậc quân tử!”
 
Nói xong, Chung Muội tự đâm cổ chết. Hàn Tín cắt đầu Chung Ly Muội đem ra mắt Lưu Bang ở đất Trần. Lưu Bang sai võ sĩ trói Tín lại chở ở xe sau. Hàn Tín nói:
 
- “Đúng như người ta nói: “Thỏ khôn hết thì chó giỏi bị nấu, chim cao hết thì cung tốt bị cất, nước địch bị phá thì mưu thần hết đời”. Thiên hạ đã bình định rồi, ta bị nấu là đáng lắm!”
 
Lưu Bang đáp:
 
- “Người ta bảo nhà ngươi làm phản”.
 
Rồi sai áp giải ông về kinh. Đến Lạc Dương thì tha tội cho ông, giáng làm Hoài Âm Hầu.
 
Ý kiến của các nhà nghiên cứu đều cho rằng, Lưu Bang nghe theo các cận thần, hoặc tự đặt ra chuyện có người tố cáo Hàn Tín mưu phản để lấy cớ bắt ông mang về kinh quản thúc và giáng chức, kỳ thực Hàn Tín không có tội. Vì vậy khi đưa Hàn Tín từ nước Sở về kinh, lập tức Lưu Bang hạ lệnh tha Hàn Tín, lý do Tín không còn binh quyền trong tay để đe dọa ngai vàng của Lưu Bang.
 
Sử ký Tư Mã Thiên ghi đại ý:
 
“Năm 196 TCN, Trần Hy làm phản. Lưu Bang thân hành làm tướng, đem quân đi đánh. Hàn Tín mưu tập hợp người nhà làm phản ở kinh đô để làm nội ứng cho Trần Hy. Nhưng vì có người môn hạ có tội với Hàn Tín bị ông bỏ tù, muốn giết đi nên em của người này ra đầu thú báo tin với triều đình, tố cáo ông muốn làm phản.”
 
Lã Hậu muốn gọi Hàn Tín vào, nhưng sợ ông không đến, nên bàn với tướng quốc Tiêu Hà, giả vờ sai người từ ngoài chiến trường chỗ Lưu Bang trở về báo tin rằng: Trần Hy đã chết, các chư hầu, các quan đều đến mừng. Tiêu Hà lừa Hàn Tín rằng:
 
- “Tuy ngài ốm, cũng xin cố gắng vào mừng!”
 
Hàn Tín theo Tiêu Hà vào cung, Lã Hậu lập tức sai võ sĩ trói ông, rồi mang chém ở nhà treo chuông trong cung Trường Lạc. Lúc sắp bị chém, Hàn Tín nói to:
 
- “Ta hối hận không dùng mưu kế của Khoái Triệt, cho nên mới bị bọn đàn bà con nít lừa dối. Há chẳng phái là vì trời muốn thế hay sao?”
 
Lã Hậu bèn giết cả ba họ nhà Hàn Tín. Sau khi Lưu Bang đã dẹp xong quân của Trần Hy trở về kinh đô, thấy Hàn Tín đã chết Hán Cao Đế vừa mừng vừa thương.
 
Tiêu Hà trước kia là ân nhân của Hàn Tín, ra sức tiến cử ông với Lưu Bang, nhưng cuối cùng lại chính Tiêu Hà lừa ông vào cung cho Lã Hậu giết. Bởi vậy đời sau nói rằng Hàn Tín làm nên sự nghiệp nhờ bởi Tiêu Hà mà chết cũng do tay Tiêu Hà.
 
Nghi án lịch sử:
 
“Theo các nhà nghiên cứu, triều đình kết tội Hàn Tín đồng mưu với phản thần Trần Hy làm nội gián, nhưng thực ra đây chỉ là sự vu cáo. Hàn Tín không có tội mà đây là do Lưu Bang, Lã Hậu bày đặt vu hãm Hàn Tín do tài năng, công lao của ông quá lớn. Hàn Tín là người thực sự trung thành, đến mức ngu trung, với Lưu Bang, bởi Lưu Bang đã trọng dụng ông khi ông còn hàn vi, thất thế bên chính quyền Hạng Vũ. Cho nên, lúc Tín diệt Tề, thiên hạ 7 nước thì 6 đã theo Hán, nước Sở thế cô, Hạng Vũ sai thuyết khách đến dụ ông phản Hán nhưng ông không nghe. Mưu sĩ của ông là Khoái Triệt nhân đó cũng khuyên ông phản Hán để chia ba thiên hạ, nhưng Hàn Tín không nỡ.
 
Khi nắm hàng chục vạn binh hùng tướng mạnh trong tay như thế, Hàn Tín đã không hề có ý làm phản. Kể cả khi làm Sở vương, ông cũng giết bạn cũ Chung Ly Muội để chứng tỏ lòng trung thành, chứng tỏ ông không hề có ý phản Lưu Bang. Vì vậy, việc đặt điều nói rằng ông định tập hợp vài trăm nô tỳ mà làm phản thì quả là sự vu cáo vụng về, vì ông là nhà cầm quân lão luyện, không thể ngu muội làm một việc ngớ ngẩn để rước cái chết vào mình như vậy. Mà khi ông đã có ý làm phản thì sẽ không dám theo Tiêu Hà vào cung để cho Lã hậu bắt chém.”
 
Sách Sử ký Chí nghi của Lương Ngọc Thắng nói:
 
- “Tín chết oan vậy! Những người hiền ngày trước đều thấy ông không có tội trạng gì tỏ ra làm phản chỉ có mấy lời tố giác vu vơ đấy thôi... Qua Sử ký, dựa vào giấy tờ làm án mà viết ra cũng thấy rõ là sai. Bữa cơm ngàn vàng, cởi áo nhường cơm, lẽ nào phụ bạc Cao Đế. Không nghe Thiệp (Vũ Thiệp), Thông (tức Khoái Triệt. Vì tên Triệt trùng với huý của Hán Vũ Đế nên viết thành Thông), không giữ quân làm vua đất Tề thì thế nào cũng không làm liều khi nhà ở Hoài Âm. Không nghĩ đến việc liên kết các vua lớn như Kinh Bố, Bành Việt thì ắt không giao ước dễ dàng với viên tướng ở ngoài biên giới xa xôi như Trần Hy.
 
Ai nghe lời nói “khi nắm tay đuổi người xung quanh ra”, việc mưu phản là đại sự, làm sao mà Hàn Tín lại sơ suất như vậy? Số người và năng lực bọn tôi tớ bao lăm, Hàn Tín tất không dùng họ một cách liều lĩnh. Mới hay Cao Tổ sợ Tín không phải một sớm một chiều, Trương Lương giẫm vào gót chân, ghé tai mà nói ở Vu Thai, Cao Tổ cướp binh phù, đoạt quân đội, bắt trói cũng chưa cho là vừa, giết cả họ mới mừng. Xét câu: “Dẹp xong quân Trần Hy trở về vừa mừng vừa thương”, đủ rõ Tín không có tội mà chết.”
 
Các sử gia đều nói Hàn Tín bị oan. Cái chết của ông cũng như cái chết của nhiều công thần khai quốc nhà Hán khác như Bành Việt, Anh Bố, v.v... đều có sự khuất tất, do những mưu đồ vu cáo, hãm hại của chính vợ chồng Lưu Bang và các cận thần như Trần Bình, Trương Lương. Công lao, tài năng của Hàn Tín quá lớn khiến cho Lưu Bang không bao giờ yên tâm và phải tìm cách trừ khử, đúng như nhận định của Khoái Triệt và Vũ Thiệp trước kia.
 
Không phải một mình Hàn Tín là nạn nhân của sự bạc bẽo của vua Hán. Cho tới trước khi Lưu Bang chết, tất cả các khai quốc công thần làm vua chư hầu đều bị giết hoặc bị đuổi, phế truất (như Hàn Vương Tín, Lương vương Bành Việt, Hoài Nam Vương Anh Bố, Yên vương Tang Đồ, thậm chí cả Yên vương Lư Quán là bạn chí thân của Lưu Bang, Triệu vương Trương Ngao là con rể v.v...) bởi những tội trạng không rõ ràng để thay vào là các hoàng tử nhà họ Lưu.
 
Dù trước ông đã có trường hợp đại phu Văn Chủng nước Việt bị vua Câu Tiễn đối xử tương tự, nhưng khi nhắc đến câu “Thịt thỏ hết, chó săn bị mổ”, người ta vẫn thường nhắc đến chuyện của Lưu Bang.
 
NHẬN ĐỊNH:
 
* Công trạng: Hàn Tín là một danh tướng bách chiến bách thắng. Không có ông quân Hán không thể vượt qua Tần Lĩnh mà tiến về phía đông và thắng được quân Sở mạnh mẽ, trong tam kiệt đóng góp cho Hán trào Hàn Tín là người có công lao to lớn nhất. Một tay ông đã diệt Tam Tần và nước Hàn, sau đó đánh bại quân Sở giải vây cho Hán Vương ở Huỳnh Dương, bắc phạt diệt các nước Ngụy, Triệu, Yên, Tề. Tại trận Cai Hạ, phải có sự xuất hiện của Hàn Tín thì Hạng Vương mới bị đánh bại.
 
Sau này khi muốn bình thiên hạ, Tào Tháo đã cố gắng tìm 1 tướng quân như Hàn Tín, nhưng nhân tài ngàn năm có 1 như ông không xuất hiện vào thời Tam Quốc.
 
Tào Tháo thường khen Tào Nhân là Hàn Tín nhưng thật ra là lời nói quá mà thôi. Người đời sau thường hay so sánh Hàn Tín với danh tướng vô địch của nước Tần thời Chiến Quốc là Bạch Khởi.
 
Trong Sử Ký Tư Mã Thiên, phần Hán Cao Tổ Kỷ, Lưu Bang từng khen ông:
 
- “Nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy thì ta không bằng Hoài Âm Hầu.”
 
* Tài năng: Tên tuổi của Hàn Tín gắn liền với những trận đánh nổi tiếng, được hậu thế nhắc đến như những điển hình về nghệ thuật quân sự như trận thế “bối thủy” phá Triệu, ngăn nước sông Tuy Thủy giết danh tướng Sở là Long Thư. Những chiến thuật mà ông sử dụng được trở thành thành ngữ của Trung Quốc như: “Hàn Tín điểm binh; Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương.” sau này được biên tập lại thành một trong 36 kế; Thập diện mai phục. Có thể nói rằng về mặt quân sự trong tranh chấp giữa Hán và Sở, gần như một mình Hàn Tín quyết định cán cân nghiêng về phía nào. Ông theo Sở thì Sở thắng, theo Hán thì Hán thắng. Ông rất giỏi về quân sự nhưng về chính trị và thù đoạn ông không phải là đối thủ của Lưu Bang – một con cáo đầy bản chất lưu manh.
 
Dù sao, hậu thế vẫn luôn nhìn nhận Hàn Tín là một trong các đại tướng cầm quân xuất sắc nhất.
 
Đền ơn bà giặt lụa, không nghe lời Khoái Triệt chia ba thiên hạ, chứng tỏ ông là người trung hậu, đạo đức, nhân từ. Còn Lưu Bang, người bị các sử gia Trung Quốc gọi là “tên vua vô lại", chỉ biết lợi dụng, sau đó phủi ơn. Sau bị Lã Hậu hành hình rất ác: xẻo mũi, róc thịt, vứt xương cho chó ăn, giết cả 3 họ của ông, trước khi chết ông hận mình không nghe mưu của Khoái Triệt đúng như lời: “Thỏ khôn hết thì chó giỏi bị nấu, chim cao hết thì cung tốt bị cất” thì đã muộn.
 
* Tính cách: Dịch Trung Thiên lại cho rằng, con người Hàn Tín ngoại trừ có khí độ và bao dung còn là kẻ tự tư tự lợi, không đáng tin cậy, có tâm lý đầu cơ. Lúc có thể phản Hán, Hàn Tín thấy không phản sẽ lãi lớn, lúc không thể phản Hán, Hàn Tín lại thấy không phản sẽ thiệt to. Nhìn vào việc Hàn Tín bán đứng Chung Ly Muội thì cũng biết Hàn Tín chẳng phải tốt lành gì. Hàn Tín dâng đầu Chung Ly Muội để mua cổ phần chính trị, lại bị Lưu Bang xem thường, đã thế còn để cho Lưu Bang bắt được thóp: chứa chấp kẻ nghịch tặc, bán đứng bạn bè tốt, giết người diệt khẩu, chưa đánh đã khai, hình tượng đạo đức cao độ của vị danh tướng bách chiến bách thắng thì ra cũng chỉ như thế, kẻ như vậy mà Lưu Bang ta không trị được sao? Việc làm của Hàn Tín đã giúp Lưu Bang rửa sạch trách nhiệm về mặt đạo đức và tự đưa mình lên pháp trường. Hàn Tín đã bán đứng bạn bè, nay lại tự bán luôn mình, không những không giữ được mạng mà còn mất nhanh hơn.
 
Hàn Tín vừa đáng kính vừa đáng thương. Đáng kính ở chỗ Hàn Tín tuy xuất thân ti tiện nhưng nhờ nhẫn nhục chịu đựng, cố gắng phấn đấu đã kiến công lập nghiệp, lưu danh sử sách. Đáng buồn ở chỗ Hàn Tín không triệt để. Hàn Tín trung với Hán, nhưng không trung triệt để, nên khi bị giết không thấy có ai đứng ra minh oan cho như Loan Bố khóc Bành Việt, Quán Cao chịu hình không khai ra Triệu vương, những người đó đều được Lưu Bang tha chết. Hàn Tín muốn phản Hán, nhưng khi có quân trong tay thì không phản, đến lúc nằm trong tay người ta thì lại muốn phản, thế là đã mê muội rồi.
 
Sự việc Trần Hy làm phản, trước đó có thể đã có thư từ với Hàn Tín, nhờ Hàn Tín làm chân trong, Hàn Tín có đồng ý hay không thì không biết, nhưng thư mật đã rơi vào tay Lã hậu để trở thành chứng cớ Hàn Tín mưu phản. Chỉ xét thấy Hàn Tín trước khi chết có nói "hối hận không nghe lời Khoái Triệt" thì chứng tỏ Hàn Tín đã có lòng phản.
 
Nếu nói Hàn Tín tham gia mưu phản thì có thể oan cho Hàn Tín, nhưng không oan khi nói rằng trong bụng Hàn Tín đã có lòng phản lại Lưu Bang. Sự việc xấu đi khi ở trong Hàn Tín có cả lòng trung và gian, và cả hai đều không triệt để, không hết lòng trung và không dám phản thật.  Nếu trung triệt để, thì cho dù bị oan cũng sẽ có những bậc trượng phu đứng ra nói thay cho, không người nào đứng ra biện hộ cho Hàn Tín chứng tỏ nhân cách của Hàn Tín có vấn đề. Còn nếu phản triệt để, thành công thì không cần nói, có thua cũng không hối hận.
 
(Nhận định của Dịch trung Thiên đoạn trên đây hoàn toàn lệch lạc, không chính xác. Nếu Hàn Tín có ý phản Lưu Bang thì phản lúc Vũ Thiệp với Khoái Triệt khuyên Hàn Tín phản Hán Đế để phân ba thiên hạ rồi – Thái Quốc Mưu.)
 
Dịch Trung Thiên cho rằng, Hàn Tín chê Hạng Vũ có lòng nhân của đàn bà, do dự thiếu quyết đoán nhưng lại không biết chính mình cũng như thế, và cũng không biết rằng đàn bà vị tất đã có lòng nhân. Cuối cùng thì Hàn Tín, người có lòng nhân của đàn bà đã bị Lã hậu, một người đàn bà bất nhân giết hại. Khi so sánh 3 con người Lưu Bang, Hạng Vũ và Hàn Tín, Dịch Trung Thiên cho rằng: Lưu Bang tự biết mình biết người nên đã chiến thắng. Hạng Vũ không biết mình cũng không biết người nên thua to. Hàn Tín biết người nhưng không biết mình nên tuy có thành công nhưng cuối cùng cũng thất bại. Hạng Vũ là anh hùng triệt để, anh hùng bản sắc nên chết oanh liệt. Hàn Tín khó khăn lắm mới trở thành anh hùng, là anh hùng không triệt để nên ấm ức mà chết.
 
HẬU THỀ RỬA HỜN TRONG VĂN HỌC:
 
“Nỗi oan của Hàn Tín khiến người đời sau hết sức cảm thông, thương xót cho một viên tướng tài năng, trung thành nhưng bị đối xử quá bạc bẽo và phải chết oan khuất.
 
Một văn nhân Trung Quốc đời sau đã sáng tác truyện thơ hư cấu mang tên Trọng Tương Vấn Hán, được chuyển thể sang tiếng Việt bằng thơ lục bát vào đầu thế kỷ 20. Nội dung cơ bản của Trọng Tương vấn Hán nói về tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo kể từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến cuối đời Đông Hán - Tam Quốc.
 
Theo đó, Hàn Tín kiếp sau được đầu thai làm Tào Tháo, còn Lưu Bang phải đầu thai làm Hán Hiến Đế Lưu Hiệp, còn Lã Hậu đầu thai làm Phục Hậu. Kiếp trước Hàn Tín bị Lưu Bang phụ bạc giết oan, kiếp sau Tào Tháo vẫn làm bầy tôi của Hiến Đế, nhưng chèn ép ức hiếp Hiến Đế và giết hại vợ Hiến Đế là Phục Hậu - Lã Hậu đầu thai. Những hành động của Tào Tháo với nhà Hán chính là việc làm báo oán kiếp trước của Hàn Tín.
 
Trọng Tương vấn Hán còn nói về nhiều sự đầu thai khác vào thời Tam Quốc của nhiều nhân vật thời Hán Sở.”
 
TRỌNG TƯƠNG vấn HÁN
 
Trọng Tương vấn Hán (仲襄問漢) là một tác phẩm văn học nói theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo kể từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến cuối đời nhà Hán – Tam Quốc, Trung Quốc chia thành ba nước.
 
Đến nay không thấy sách nào nói đến tác giả tác phẩm “Trọng Tương vấn Hán” là ai.
 
Tác giả có một trí tưởng tượng rất phong phú, lại khéo tài liên kết, xếp đặt từ lúc Lưu Bang dựng ra nhà Tây Hán cho đến thời Tam Quốc, thành một câu chuyện luân hồi quả báo, có nhiều tình tiết hữu lý, rất hợp với tín ngưỡng dân gian là thưởng thiện phạt ác, làm người đọc say mê thích thú, tưởng đây là câu chuyện huyền bí có thật.
 
Truyện "Trọng Tương vấn Hán" nguyên tác chữ Hán, có dịch ra Việt ngữ theo thể thơ lục bát, được Võ Tế Mỹ, Đặng Ngọc Có và Nguyễn Quới Mai dịch và giữ bản quyền, xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, năm 1906.
 
Tác phẩm “Trọng Tương vấn Hán” chuyển thể tiếng Việt gồm 920 câu thơ lục bát.
 
Đời vua Hán Linh Đế, tại quận Ích Châu, có ông Tư Mã Trọng Tương, rất thông minh tài giỏi, 8 tuổi đã nổi tiếng thần đồng, nhà nghèo rất hiếu thảo với cha mẹ, có đi lên kinh đô dự khoa thi nhưng bị đánh rớt, khi trở lại quê nhà thì chẳng may cha mẹ đã mất. Trọng Tương lấy làm thương xót lắm, mới cất một cái lều ở kế bên mộ phần của cha mẹ, để ở cư tang thủ hiếu cho đặng 6 năm. Lòng buồn nhớ thương cha mẹ, lại ưu uất vì nỗi học tài thi phận, nên thường than thân trách phận. Trọng Tương thấy phần nhiều trong triều đình là nịnh thần, toan mưu hại kẻ trung lương, khiến dân chịu nhiều oan ức. Trọng Tương lấy làm cảm động, nên làm ra một bài thơ để giải buồn, có ý trách Trời Đất không công bình.
 
Không ngờ những lời than trách ấy có Du Thần nghe được, báo cáo lên Thượng Thiên. Ngọc Hoàng Thượng Đế hạ sắc chỉ cho Diêm Vương. Diêm Vương lĩnh lệnh, sai quỷ sứ bắt hồn Trọng Tương xuống âm phủ, phán rằng:
 
- “Như nhà ngươi thông minh biết sự công đoán thì phải xuống Diêm La mà phân xử những án, nội trong 6 giờ cho xong thì Ngọc Hoàng mới xá tội cho ngươi.”
 
Khi đó, Tư Mã Trọng Tương ngồi làm chính tòa thay thế Diêm Vương phân xử các án, trong 6 giờ đồng hồ thì xong hết.
 
Nội dung xử án của Trọng Tương chính là xét án các nhân vật lịch sử Tây Hán – Đông Hán.
 
Trọng Tương thụ án các nhân vật thời Tây Hán và xét xử như sau:
 
- “Tào Tháo, nguyên kiếp trước là Hàn Tín, có công lớn gồm thâu nước Sở đem về cho Hán Cao Tổ, thế mà không hưởng được lợi lộc gì, lại bị tru di tam tộc, nên qua đời Tam Quốc, tác giả cho Tào Tháo soán ngôi nhà Hán, làm vua một thuở để trả thù: xưa Hán Cao Tổ hiếp bức thế nào thì giờ đây Tào Tháo hiếp bức thế ấy, và trước Lã Hậu giết Hàn Tín, nay Tào Tháo bắt Phục Hậu thắt cổ mà giết lại.”
 
- “Khoái Triệt, mưu sĩ của Hàn Tín, biết Hán Lưu Bang là người ăn ở không có hậu, nên bày kế cho Hàn Tín giữ vững nước Tề, tách khỏi Lưu Bang, hòa với Hạng Vũ, giữ thế chia ba thiên hạ. Hàn Tín không nghe vì không nỡ phản bội Lưu Bang. Sau, Khoái Triệt tái kiếp làm Khổng Minh Gia Cát Lượng, thực thi kế chia ba thiên hạ theo hình chân vạc và cầm binh đánh cho Tào Tháo chạy dài cho biết tài biết trí của quân sư.”
 
- “Tiêu Hà hèn nhát, không dám can gián Lã Hậu, lại tòng mưu giết Hàn Tín, nên qua đời Tam Quốc, Tiêu Hà đầu kiếp làm Dương Tu, bị một tô canh gà làm lanh nói toạc, bị Tào Tháo bắt tội tiết lộ cơ mưu, sai chém đầu răn loài lẻo mép, mà cũng là người bạn xấu hèn nhát của kiếp trước.”
 
- “Bành Việt và Anh Bố là hai tướng tài có công lớn mà chết oan nên cho đầu thai trở lại: Bành Việt làm Lưu Bị, Anh Bố là Tôn Quyền, để sau này cùng với Tào Tháo chia ba thiên hạ, hưởng lộc cả quyền cao.”
 
- “Đinh Công là tướng nước Sở, vẫn có tiền ân với Lưu Bang, sau bị Lưu Bang giết, cho đầu thai
làm Chu Du để phò Tôn Quyền, bị Khổng Minh chọc tức, trào máu chết lúc 36 tuổi.” (Trong bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, không  có chuyện Khổng Minh chọc tức Chu Du trào máu chết – Thái Quốc Mưu).
 
- “Hạng Vũ, tính tình cương trực, khí tiết anh hùng, lòng không tà vạy, nên cho đầu thai làm Quan Vũ, trấn nhậm Kinh Châu, khi chết hưởng được hương khói ngàn thu. (Trong bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, Quan công không có tài cán chi cả - Thái Quốc Mưu).
 
- “Sáu tướng của Hạng Vũ, phản lại Hạng Vũ theo Lưu Bang, cho đầu kiếp làm sáu tướng trấn giữ năm cửa ải của Tào Tháo, bị Quan Vũ phò hai chị dâu vượt 5 ải chém 6 tướng, để răn loại người phản chúa.” (Trong bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, không có chuyện Quan công qua 5 ải, chém. 6 tướng - Thái Quốc Mưu).
 
- “Phàn Khoái trung hậu, vũ dũng, ăn thịt tươi uống rượu nguyên bồ, cho đầu thai làm Trương Phi, cũng rượu, cũng mạnh mẽ, cũng nóng tính như lửa không thua gì kiếp trước.”
 
- “Thích Cơ và con trai là Lưu Ẩn, trước bị Lã Hậu ghen giết chết, nay đầu thai làm Cam Phu nhân và thái tử A Đẩu (Lưu Thiện), hưởng nghiệp nhà Thục Hán.”
 
- “Kỷ Tín có công thế mạng Lưu Bang, trung nghĩa hơn người, cho đầu thai làm Triệu Vân, một tướng kỳ tài, phò Lưu Bị.”
 
- “Hạng Bá là chú của Hạng Vũ, nỡ phụ cháu mà theo Lưu Bang, và Ung Xỉ là tôi của Hạng Vũ mà phản Hạng theo Lưu, nên đầu thai: Hạng Bá làm Văn Xú, Ung Xỉ làm Nhan Lương (2 tướng của Viên Thiệu), bị thanh long đao của Quan Vũ (Hạng Vũ) giết chết.” (Trong bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, Quan công không hề sử dụng Thanh Long Đao. Mãi 300 năm sau thời Tam Quốc đến đời Tống mới có Thanh Long Đao - Thái Quốc Mưu).
 
Còn những nhân vật quan trọng khác mà không thấy Trọng Tương xử án như: Đổng Trác, Lã Bố, Vương Doãn, Điêu Thuyền,... . (Trong bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, không có nhân vật nào tên Điêu Thiền hay Điêu Thuyền - Thái Quốc Mưu).
 
Tóm tắt án do Trọng Tương xử như sau
 
- Tiền căn: Hàn Tín - Hậu kiếp: Tào Tháo.
- Tiền căn: Tiêu Hà - Hậu kiếp: Dương Tu.
- Tiền căn: Lưu Bang - Hậu kiếp: Hán Hiến Đế.
- Tiền căn: Anh Bố - Hậu kiếp: Tôn Quyền.
- Tiền căn: Lã Hậu - Hậu kiếp: Phục Hậu.
- Tiền căn: Bành Việt - Hậu kiếp: Lưu Bị.
- Tiền căn:Khoái Triệt - Hậu kiếp: Gia Cát Lượng.
- Tiền căn: Hứa Phụ - Hậu kiếp: Bàng Thống.
- Tiền căn: Phàn Khoái - Hậu kiếp: Trương Phi
- Tiền căn: Hạng Vũ - Hậu kiếp: Quan Vũ.
- Tiền căn: Kỷ Tín - Hậu kiếp: Triệu Vân.
- Tiền căn: Thích Cơ - Hậu kiếp: Cam phu nhân.
- Tiền căn: Lưu Ẩn - Hậu kiếp: Lưu Thiện.
- Tiền căn: Đinh Công - Hậu kiếp: Chu Du.
- Tiền căn: Hạng Bá - Hậu kiếp: Văn Xú.
- Tiền căn: Ung Xỉ - Hậu kiếp: Nhan Lương.
- Tiền căn: Dương Quán - Hậu kiếp: Biện Hỉ.
- Tiền căn: Vương Ế - Hậu kiếp: Vương Trấn.
- Tiền căn: Hạ Quản - Hậu kiếp: Khổng Tú.
- Tiền căn: Lã Đằng - Hậu kiếp: Hàn Hộ.
- Tiền căn: Tiêu Hà - Hậu kiếp: Dương Tu.
- Tiền căn: Lã Mã Đồng - Hậu kiếp: Tần Dương.
 -Tiền căn: Trọng Tương - Hậu kiếp: Tư Mã Ý.
 
Thượng đế thấy Trọng Tương xử án phân minh, bèn phán cho đầu thai vào nhà họ Tư Mã, đặt tên là Tư Mã Ý, hiệu là Trọng Đạt, để ngày sau con cháu của nhà Tư Mã chấm dứt cục diện Tam Quốc, thống nhất Trung Quốc, mở ra nhà Tây Tấn.
 
* Ý NGHĨA:
 
Tác giả truyện “Trọng Tương Vấn Hán” đã khéo xếp đặt di chuyển từ Tây Hán đến Tam Quốc thành một đại cuộc luân hồi quả báo.
 
Truyện Trọng Tương Vấn Hán, tuy do trí tưởng tượng đặt ra nhưng có phần giống như thật, với mục đích chỉ rõ sự luân hồi quả báo từ kiếp này sang kiếp khác, có tính cách khuyến thiện phạt ác, không ai tránh khỏi luật Nhân Quả, rất hợp với tín ngưỡng của dân gian nên được truyền tụng.
 
Tác phẩm "Trọng Tương Vấn Hớn" gồm 920 câu thơ lục bát, xin trích ra sau đây vài đoạn tượng trưng:
 
* TRỌNG TƯƠNG vấn HÁN
 
Trải xem sử cũ Hớn trào,
Cao Hoàng noi dấu Đường Nghiêu dựng nền.
Sáu trăm muôn lửa dõi truyền,
Thánh Thần ngự trị vững bền kim âu.
Đến tuần Linh Đế nối sau,
Quang Hòa tự thuở năm đầu nguyên niên.
Thấy trong nước có sanh hiền,
Họ nhà Tư Mã ở miền Ích Châu.
Trâm anh thói có phong lưu,
Đời đời truyền dõi nghiệp nhu học hành.
Bẩm sanh một gã tinh anh,
Mẹ cha mới đặt tên là Trọng Tương.
Thông minh đi đứng khác thường,
Sớm khuya đèn sách văn chương học hành.
Trót thông mã sử lục kinh,
Mới nên tám tuổi nổi danh thần đồng.
Xa gần thôn ấp ngợi khen,
Biểu dưng trong quận có trang kỳ tài.
Chiếu ra ứng thí chương đài,
Chức quan dưới chẳng biết tài cao xa.
Từ ngày trở lại quê nhà,
Ở nơi biển liễu tường hoa ngày chầy.
Máy linh chẳng khác vần xây,
Song thân một phút cỡi mây tách ngàn.
Trọng Tương nước mắt đượm chan,
Than rằng Tạo Hóa khép oan lòng người.....
 
HÀN TÍN TRẠNG CÁO rằng:
Bây giờ mới hỏi Hớn Vương,
Vua sao nỡ phụ chẳng thương nhơn thần?
Phò Lưu, diệt Hạng, bặt Tần,
Gẫm xem Tín đã nhiều lần công lao.
Chẳng hay can cớ làm sao?
Cho nên giết Tín lẽ nào nói ngay.....
Rằng: “Ngươi là tướng có danh,
Cớ chi Lữ Hậu tư tình giết ngươi?
 
BÀNH VIỆT TRẠNG CÁO rằng:
Việt liền rón rén thưa lời,
Rằng vua điền điệp đi chơi lâu về.
Lữ Hậu tánh vốn dâm mê,
Nào còn đoái đến thửa bề nhơn luân.
Hỏi trong văn võ quần thần,
Rằng ai dung mạo hơn phần sắc thinh?
Thái giám rằng ngươi Trần Bình,
Song còn phụ giá thánh minh ngoài trào.
Lại hỏi ai khá thứ sau,
Bày vào nội yến y trào trung trương.
Thưa rằng: Bành Việt Lương vương,
Xem dường dung mạo có phương hơn người.
Bèn sai chiếu chỉ đi mời,
Tôi bèn vưng mạng đến nơi điện ngoài.
Thấy quan Thái giám truyền lời,
Rằng vưng sắc chỉ dạy người vào trong.
Tôi vưng thẳng đến đền rồng,
Thấy bà Lữ Hậu đứng cùng bệ giai.
Sẵn sàng tiệc ngọc an bài,
Tay bà Lữ Hậu khuyên mời quỳnh tương.
Vậy bèn lửa dục nhiều đường,
Tôi nghĩ là sự phi thường chẳng không.
Đạo làm thần tử chi trung,
Thảo ngay chẳng giữ, hổ cùng cao xanh.
Lữ Hậu giận chẳng thuận tình,
Giết người cắt lưỡi hành hình chỉnh ghê.
Ra lòng độc dữ nhiều bề,
Chẳng cho mai táng, phân thi tan tành.
Ngỡ trông ơn đức cao minh,
Xét soi lòng kẻ trung thần làm tôi.....
 
ANH BỐ TRẠNG CÁO rằng:
Thưa rằng tôi cũng người ngay,
Vốn cùng Hàn Tín nhiều ngày công linh.
Những ngờ hưởng phước thái bình,
Ơn vua tước trọng đãi mình ấm phong.
Khăng khăng giữ một chữ trung,
Cớ chi đến nỗi mắc vòng thân lao.
Vả đà bạn cũ cùng nhau,
Đều đi viếng kiểng tới đầu biên giang.
Phút liền thấy sứ tái truyền,
Của vua cầm thực ngự tiền ban cho.
Chúa tôi tình thiệt nào lo,
Tiệc bày ăn uống say no dật dờ.
Tánh linh dạ động bấy giờ,
Hỏi rằng vật lạ ai đưa đến chầu?
Sứ rằng song chẳng biết đâu,
Tôi bèn khiến đến đuôi đầu hỏi tra.
Bây giờ nó mới nói ra,
Thịt ngươi Bành Việt, vua đà mổ phanh.
Tôi nghe hình thậm hãi kinh,
Tủi thầm thương nghĩa ngươi Bành hữu công.
Có chi oan thác khi không,
Ngùi ngùi cảm động, trong lòng xót xa.
Công phò nghiệp cả Hớn gia,
Chẳng làm phản nghịch, nào ra dâm hình?....
 
HẠNG VƯƠNG TRẠNG CÁO rằng:
Trọng Tương xem án mới tường,
Hỏi rằng: Hàn Tín vốn đường tôi ngươi.
Ra lòng quyết chí về Tây,
Phò Lưu diệt Hạng, chẳng hay lẽ nào?
Hạng Vương thưa hết thấp cao,
Xưa nhơn vật gặp hỗn hào chiến tranh.
Liều mình hết sức bình sanh,
Dựng thành nghiệp Sở xưng danh trùng trùng.
Tánh ngu chẳng biết anh hùng,
Cho nên Tín chẳng ở cùng, trách ai?
Đến khi thua trận đất Cai,
Đụt xông mới khỏi ra ngoài Tề vây.
Lạc đường chẳng biết nẻo đi,
Phúc liền xảy gặp đá kề bên sông.
Hỏi rằng nào nẻo được thông,
Điền phu nó chỉ về Đông thẳng đường.
Chẳng ngờ phải chước Hớn vương,
Sai người cày đó giả chàng điền phu.
Trước sau chẳng thấu căn do,
Vậy nên sa xuống hạ ngu khốn mình.
Bốn bề toàn những Hớn binh,
Tình cờ xảy gặp bạn lành Mã Thông.
Những ngờ nghĩa cũ phục dung,
Ai ngờ nó lại trở lòng chẳng hay.
Giục đem sáu tướng lại vây,
Phải liều tự vận khỏi tay loài phàm.
Há rằng phụ nó cho cam,
Quân thần nghĩa nặng nỡ làm thù sâu.
Giải niềm oan khuất bấy lâu,
Ngỡ trông rõ được mối sầu bấy thu.
 
(Trọng Tương ngồi thế Diêm Vương xử án:)
Trọng Tương nghe biết căn do,
Sửa sang kẻo kẻ hạ ngu ức lòng.
Gẫm xem sáu tướng kích công,
Tham giàu quên nghĩa là lòng bất nhơn.
Tội ngươi không xiết kể chi,
Phải làm răn kẻ mãn khi sanh hiền.
Luận cho Hạng Võ sanh lên,
Khiến người cải tộc đặt tên kẻo trùng.
Bắt đày sáu tướng kích công,
Một tay Hạng Võ đều thì giết tươi.
Răn loài phản nghịch một đời,
Hổ mình cho biết đạo trời chẳng dung.
Hỏi nào các tướng tứ tung,
Đem ra hội nghị luận công trọng tiền.
Đầu nguyên xuất thế tùy duyên,
Phán rằng chủ định họ tên các nhà.
Đoạn thôi, đòi Hàn Tín ra,
Vì ngươi hết sức Hớn gia được tuyền.
Cho ngươi quá bán sơn xuyên,
Trước đà hưởng phước sau đền trả oan.
Thác sanh hậu duệ nhà quan,
Lại về dòng tộc được huờn thửa công.
Sanh làm con gã Tào Tung,
Tên là Tào Tháo gian hùng có danh.
Vả hay quen việc dụng binh,
Được làm Hớn tướng tung hoành Hứa Xương.
Tước phong danh hiệu Ngụy Vương,
Bỏ công lành trước nắng sương dãi dầu.
Toàn gia đều hưởng sang giàu,
Oai ra một phút đâu đâu phục tùng.
Sau về địa hạ sắc phong,
Cho làm Võ Đế thỏa lòng cần lao.
Đoạn thôi mới dạy Hớn Cao,
Thác sanh rồi lại lộn vào Hớn gia.
Để cho Hàn Tín tự chuyên,
Đêm ngày kinh khủng chẳng an tòa ngồi.
Bởi chưng bạc hại công người,
Oan ức những kẻ tôi ngươi khốc tình.
Cho ngươi lại được huờn sinh,
Đạo Trời nhẫng thấy đành rành chẳng tư.
Truyền đem Lữ Hậu lại đây,
Cừu lòng ở dữ tánh mầy gian ngoan.
Đầu thai cho lại dương gian,
Vào nhà họ Phục lại huờn giáng sanh.
Ngồi cùng Hiến Đế cung đình,
Để cho Hàn Tín gia hình trả oan.
Vì mầy tham độc thiên ban,
Giết cùng đền số họ Hàn mới tha.
Tín thưa: Còn sự Tiêu Hà?
Hiến người lại giáo, trở ra hại người.
Trọng Tương thấy Tín thưa lời,
Bây giờ mới dạy chuyện ngươi Tiêu Hà.
Đầu thai về họ Dương gia,
Mai sau thác xuống tên là Dương Tu.
Nguyên xưa Hớn đến Tân đô,
Chẳng tham tiền bạc, thâu cho bản đồ.
Dốc lòng chí khí trượng phu,
Lập cho nghiệp cả để phò minh quân.
Chẳng ngờ Hớn Tổ thiểu ân,
Cho nên phải lụy chung thân nào toàn.
Tiến hiền rồi lại hại hiền,
Về sau cho phải lại đền bổn thân.
Ba lần ngồi tính Hớn quân,
Làm cho sanh bạc trả ơn hội nầy. v.v....
(Trọng Tương xử án xong, bước xuống:)
Trọng Tương bước xuống ngai vàng,
Đều huờn áo mão, trả quyền Diêm Vương.
Lại đặt lẽ ấy cho thường,
Lời ra xem thấy có phương nhiệm mầu.
Tài nầy chẳng phải tài ngu,
Kiện nầy có đến sáu giờ liền xong.
Ta rày vốn lấy lẽ công,
Bảo thôi tâu đến cất dùng trạc liên.
Ngọc Hoàng xem thấy phán truyền:
"Người nầy đoán kiện đã nên anh hùng.
Ba trăm án kiện đều bày,
Sáu giờ tra án đạo Trời chẳng sai.
Phép làm tôi quá thưởng công,
Chức cao lộc trọng phỉ lòng tôi ngươi.
Rày đà khỏi uất ức người,
Đầu thai cho nó vào nơi công hầu.
Đức nhà Tư Mã đã lâu,
Rày cho nó lại nối sau chuyên quyền.
Đặt Tư Mã Ý là danh,
Chữ là Trọng Đạt, khôn hiền thông minh.
Xưa là chủ bạc đến sanh,
Cháu con Tào Tháo mặc mình sửa sang.
Tính vừa ba nước hiệp vương,
Thâu về một mối chiếm đương tay chàng."
Phán thôi sắc xuống công đàng,
Diêm Vương mở đọc phân minh lịnh truyền.
Thôi bèn thỉnh Trọng Tương liền,
Khuyên mời tiếp đãi ngự tiền để trên. (ngưng trích)
 
* CÓ HAI HÀN TÍN SỐNG CÙNG THỜI.
 
Cùng thời với Hàn Tín, còn một nhân vật khác cũng có tên Hàn Tín (Theo Sử ký Tư Mã Thiên, thiên Hạng Vũ bản kỷ và Cao Tổ bản kỷ, các bản dịch của Phan Ngọc, Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi. Danh sách các thiên của sử ký có 1 thiên nói về Hàn Tín (thứ hai) này).
 
Hàn Tín tức là Hàn Vương Tín, vốn con cháu nước Hàn thời Chiến Quốc. Khi các nước ở Sơn Đông nổi dậy chống Tần, để có danh nghĩa tập hợp lực lượng, người ta tìm lại con cháu của chư hầu cũ đưa lên ngôi. Đại thần nước Sở là Hạng Lương đã sai Trương Lương đến Hàn Thành tìn con cháu vua nước Hàn được Lưu Bang lập làm Hàn vương để có vây cánh đánh với Hạng Vũ. (Như vậy Hàn Vương Tín nầy không phải là họ Hàn như tướng quân Hàn Tín về sau là Sở Vương Tín).
 
Năm 204 TCN, Hạng Vũ vây ngặt Huỳnh Dương. Lưu Bang nhờ Kỷ Tín đóng giả vai mình ra hàng. Nhân đó Lưu Bang chạy thoát về Thành Cao, cử Hàn vương Tín cùng Tung Công, Ngụy Báo và Chu Hà ở lại giữ thành. Hạng Vũ biết bị Kỷ Tín lừa, giết Tín rồi đánh thành mạnh hơn.
 
Chu Hà, Tung Công giết Ngụy Báo vì sợ Báo lại phản Hán lần nữa. Cuối cùng Hạng Vũ vẫn hạ được thành, Tung Công và Chu Hà không hàng nên bị giết, Hàn Vương Tín bị cầm tù. Lúc này Đại tướng quân Hàn Tín (tức Sở Vương Tín) đang bình định nước Triệu.
 
Khi diệt xong Hạng Vũ, Lưu Bang cải phong sai Hàn Tín lên Thái Nguyên là vùng xa xôi, giáp địa giới Hung Nô (hệt như cách làm của Lưu Bang đối với Sở vương Hàn Tín), do đó dẫn đến việc Hàn Vương Tín làm phản, dẫn Hung Nô vào đánh Hán. Sau này, Hàn Vương Tín chạy sang nương nhờ bên Hung Nô.
 
Rất ngẫu nhiên là cả hai Hàn Tín đều nổi danh trong thời Tần mạt Hán hưng, đều theo thờ Lưu Bang và cả hai đều bị vua phụ. Đây có lẽ là sự trùng hợp ngẫu nhiên có một không hai trong lịch sử.
 
Thái Quốc Mưu
Atlanta, Mar. 22, 2017
____________________
 
Tham khảo có trích đoạn:
- Sử Ký, Tư Mã Thiên.
- Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê.
- Hán Sở Tranh Hùng.
- Bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ.
- Bộ tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, La Quán Trung.
- Tôn Tử Binh Pháp, Tôn Tử.
- Bách Khoa Toàn Thư.
- …

 

  Trở lại chuyên mục của : Thái Quốc Mưu