THÁI QUỐC MƯU

TÀO THÁO (曹操)
 
Tào Tháo (曹操), tự Mạnh Đức (孟德), tên tục A Man (阿瞞), tự Cát Lợi (吉利). Sanh 155 tại huyện Tiêu, nước Bái trong gia đình giàu có. Từ bé là người rất thông minh, ít để ý đến việc nhỏ, tính tình phóng khoáng, thích giao du, nhưng rất ham đọc sách, đặc biệt là binh thư, là người biết quyền biến, nhiều mưu lược. Ông mất ngày 15 tháng 3 năm 220, tại Lạc Dương, Hà Nam, thọ 66 tuổi.
 
Trong Bách Khoa Toàn Thư viết: “Tào Tháo vốn xuất thân trong gia đình bình thường, không có tiếng tăm…” Người viết về Tào Tháo trong Bách Khoa Toàn Thư, không tra cứu kỹ, nên viết câu trên đây không đúng! Vì, thân phụ Tào Tháo là Tào Tung (曹嵩) 133-193, là đại thần nhà Đông Hán, giàu có, khi chưa làm quan từng bỏ ra 5 triệu ngân lượng để mua chức Thái Úy thời Hán Linh đế. Hán Linh Đế (汉灵帝) 156-189, tên thật là Lưu Hoằng (刘宏).
 
Bộ Tôn Tử Binh Pháp (孫子兵法), còn được gọi là Binh Pháp Ngô Tôn Tử, là sách chiến lược, chiến thuật nguyên tác bằng chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào năm 512 TCN, đời Xuân Thu.
 
Do có hai bộ Binh Pháp Tôn Tử cùng một tên, người đời sau gọi Binh Pháp của Tôn Vũ bằng Binh Pháp NGÔ Tôn Tử, còn Binh Pháp của Tôn Tẫn được gọi là Binh Pháp TỀ Tôn Tử hầu tránh nhầm lẫn giữa hai người họ Tôn (Tôn Vũ và Tôn Tẫn) đồng thời để phân biệt hai bộ binh pháp hoàn toàn khác nhau. Bởi, Tôn Vũ xuất thân từ nước Ngô, còn Tôn Tẫn xuất thân từ nước Tề.
 
Bộ Tôn Tử Binh Pháp trong bài nầy, là nói đến Binh Pháp của NGÔ Tôn Tử.
 
Bộ Binh Pháp Tôn Tử được Tào Tháo chú giải hay nhất. Ngoài Tháo ra còn có Mạnh Thị nhà Lương, Lý Thuyên nhà Đường, Đỗ Mục, Trần Hạo, Giả Lâm, Mai Nhiêu Thần nhà Tống, Vương Triết, Hà Diên Tích và Trương Dư cùng chú giải. Nhưng bản chú giải của Tào Tháo là có giá trị hơn cả. Như vậy cho ta thấy kiến thức văn học và binh pháp của Tào Tháo hơn hẳn những học giả, sứ quân, chư hầu cùng thời.
 
Hiện nay, cả thế giới đều sử dụng, dịch thuật đều căn cứ vào bộ Binh Thư Tôn Tử qua lời chú giải của Tào Tháo.
 
Tào Tháo còn viết bộ “Binh Thư Tào Mạnh Đức” nhưng đã thất truyền.
 
Ngoài tài năng chính trị, quân sự tột đỉnh, Tào Tháo còn là nhà thơ, nhà biên khảo, chú giải xuất sắc.
 
Trên lãnh vực văn chương, ba cha con ông được người đương thời gọi là Tam Tào, gồm: Tào Tháo, Tào Phi (Tào Phi 曹丕 tự Tử Hoàn 子桓, 187-29 tháng 6 năm 226. Sau khi tiếm ngôi nhà Hậu Hán xưng Tào Ngụy Văn Đế (曹魏文帝), là vị vua đầu tiên của Tào Ngụy) và Tào Thực, (Tào Thực 曹植, 192-232, tên tự là Tử Kiến 子建, khi mất thụy là Tư, còn được gọi là Trần Tư Vương. Ông là một nhà thơ nổi bật trong giới văn nhân thời Kiến An).
 
Tam Tào đều là những tên tuổi lớn trong Kiến An Thập Nhất Tài Danh. Một nền văn học phát sinh vào thời Hán mạt được gọi chung là Kiến An Phong Cốt.
 
Trong những bài thơ như Độ Quan San - Vượt Quan San phản đối “những ông vua làm khổ dân, bắt dân đi phu đóng thuế nặng”. Bài Đối Tửu ông hy vọng có những ông vua hiền sáng suốt cảm thông với những nỗi đau của dân chúng thời loạn Đông Hán.
 
Bài Cảo Lý Hành (Bài hành theo điệu Cảo Lý) có nội dung cho người đọc thấy một hình ảnh thu nhỏ sinh động của hiện thực với thảm cảnh chiến tranh, chiến trường phơi xương trắng, ruộng đồng hoang vắng.
 
Bài Giới Lộ Hành với bài Cảo Lý Hành miêu tả cảnh hoang tàng của Lạc Dương sau khi bị Đổng Trác đốt phá, thể hiện một niềm bi ai. Tất cả đều được truyền khắp dân gian. Người người thán phục.
 
Bài Thu Hồ Hành thể hiện tình cảm ưu hoài, sầu thảm còn rõ rệt nỗi buồn của kẻ đối diện với bóng xế đường chiều mà chưa đạt thành chí cả, làm vỡ tan ước vọng của mình.
 
Bài Quan Thương Hải nổi tiếng với việc lồng cảnh vật thiên nhiên để thể hiện ý chí tung hoành của bản thân.
 
Thơ của Tào Tháo còn biểu lộ ý chí quật cường và tinh thần tiến thủ tích cực của ông. Bài Quy Tuy Thọ là tiếng nói lạc quan, tuy biết rõ đời người hữu hạn và kẻ anh hùng nào rồi cũng về với cát bụi.
 
Qua các bài thơ trên của Tào Tháo đủ minh chứng cho các thế hệ sau biết Tào Tháo vốn là người nặng tình với đất nước, dân tộc. Ông phản đối bọn vua tôi trong triều đình chỉ biết hưởng lạc thú lúc thanh bình, khi đất nước hỗn loạn thì thu mình vào trôn ốc. Vua chúa thì bất tài, vô minh, bọn quan lại thì hèn nhát, co đầu rút cổ.
 
Thơ Tào Tháo chịu ảnh hưởng Nhạc phủ đời Hán nhưng thể hiện cá tính sáng tạo của ông rất rõ rệt nên được coi là lão tướng đất U Yên, khí vận trầm hùng. Những bài thơ hay nhất của ông sử dụng lời lẽ thuần phác, ít dụng từ hoa mỹ, hình ảnh thơ rõ ràng và giọng thơ bi tráng, hùng hồn, khiến độc giả cảm thấy phấn chấn như được cổ vũ khích lệ.
 
Đánh giá thơ của Tào Tháo, Học giả Nguyễn Hiến Lê viết: “Tào Tháo dùng binh giỏi mà văn thơ cũng hay. Bài Đoản Ca Hành (Bài hát ngắn) của ông, lời cực kỳ bi tráng. Từ thời Xuân Thu tới đây, ta mới gặp một bài thơ tứ ngôn cảm khái như vậy.” Nhận xét của Học giả Nguyễn Hiến Lê cho ta thấy Tào Tháo vốn là một anh tài.
 
Với nhận định của Học giả Nguyễn Hiến Lê, ta có thể kết luận, Tào Tháo là một nhà chánh trị hết lòng lo cho dân cho đất nước. Nhưng bị La Quán Trung vì tình hoài Hán đã uốn cong ngòi bút khiến ông từ một người hết lòng vì dân vì đất nước trở thành kẻ gian hùng, phản nghịch.
 
Học giả Dịch Quân Tả, người Trung Quốc, cho rằng: “Ông (Tào Tháo) là người có tài cao, hùng khí. Đời ông là một cuộc chiến đấu trường kỳ, nên văn chương của ông cũng từ đó mà ra. Những bài hay nhất như Khổ Hàn Hành, cũng là tác phẩm viết trong hoàn cảnh chiến đấu. Bài Đoản Ca Hành, sáng tác ngay trong đêm xảy ra trận Xích Bích.”
 
Còn trong Dị Đồng Tạp Ngữ viết: “Tào Tháo tài giỏi hơn người, khó ai có thể hại, tinh thông sử sách, lại giỏi về binh pháp".
 
Điều đáng chú ý là Tào Tháo muốn dùng tài hùng biện của mình và muốn đưa chính trị vào văn học, cho nên ông sáng tác nhiều bài thơ tứ ngôn. Thế nhưng, văn học luôn diễn biến theo từng thời kỳ của từng thời đại, tức là phải đi vào giai đoạn ngũ ngôn và thất ngôn… Người sáng tác cần phải chạy theo trào lưu mới để nhập cuộc.
 
Cuối thời Đông Hán 東漢 23-220, Tào Tháo là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất. Ông là người đặt nền móng cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc. Ông được con trai là Tào Phi truy tôn là Thái tổ Vũ Hoàng Đế.
 
Trong trận địa, Tào Tháo điều binh khiển tướng khiến kẻ địch phải kiêng dè, run sợ. Trong văn học ông là người xuất chúng. Ông chính là người văn võ vẹn toàn.
 
***
La Quán Trung 羅貫中 tự Bản, tên chữ là Quán Trung, 1330-1400, biệt hiệu là "Hồ Hải Tản Nhân" người Thái Nguyên (có thuyết cho rằng ông là người Lư Lăng, Tiền Đường, Đông Nguyên). Ông sinh vào cuối đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh, ước chừng vào khoảng năm 1300 đến năm 1400 giữa thời thống trị của nhà Nguyên Thuận Đế (Thỏa Hoàn Thiếp Mộc Nhĩ) và Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương). Có thuyết còn nói rõ rằng ông sinh năm 1328 và mất năm 1398. Ông là tác giả bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa rất nổi tiếng.
 
Họ La vốn dòng quý tộc thời Hán, có lẽ tổ tiên chịu nhiều ân sủng của Hán trào, nên khi viết bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quán Trung dựa vào bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ rồi hư cấu thêm thắt vào truyện. Đa số người đọc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa không biết điều đó, họ thường dựa vào bộ tiểu thuyết ấy mà đánh giá các nhân vật lịch sử một cách máy móc, sai lầm.
 
La Quán Trung biểu lộ rõ rệt tinh thần hoài Hán diệt Tào, viết không trung thực về Tào Tháo, biến Tào Tháo trở thành kẻ vô liêm sỉ, phản nghịch, gian hùng, nham hiểm,… Do ảnh hưởng của bộ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, nên dân gian, coi Tháo như là một tay gian hùng.
 
Thực tế, Tào Tháo là người có kiến thức uyên bác và là một nhà chánh trị lỗi lạc, nhà quân sự đại tài, nhà biên soạn, chú giải tuyệt vời.
 
Thời mạt Hán, Hán Hiến Đế 漢獻帝 tục danh Lưu Hiệp, tự Bá Hòa (伯和), 181-21/4/234, tại vị 189- 25/11/220, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Đông Hán và là hoàng đế cuối cùng của nhà Hán. Ông là kẻ bất tài, nhu nhược. Chư hầu nổi loạn, đồng ruộng bỏ hoang, dân chúng nghèo đói,…
 
Các chư hầu, lãnh chúa có quyền lực trong tay đều nổi dậy muốn soán ngôi Nhà Hán. Tào Tháo, là một trong những kẻ ấy, nhưng thay vì mưu đồ cướp ngôi, Tháo ra sức bảo vệ ngay vàng cho Hán Hiến Đế, ông ép Hán Hiến Đế phải phong ông làm Ngụy Vương để có danh chánh ngôn thuận đánh dẹp các nước chư hầu nổi loạn.
 
Trong sự nghiệp của mình, tuy gặt hái nhiều thắng lợi, nhưng, Tào Tháo cũng gặp không ít thất bại. Ngồi nhìn tuổi tác ngày càng cao mà chí lớn chưa thỏa, ông viết trong tác phẩm nổi tiếng Đoản Ca Hành để lộ nỗi buồn “như sương buổi sớm, ngày qua ngày thấy khổ nhiều hơn” khiến bài thơ mang âm điệu u uất, bi quan.
 
Bọn hủ Nho chịu ảnh hưởng nền giáo dục của Khổng Tử nhắm mắt phục vụ đế quyền một cách máy móc, cúi đầu làm kẻ ngu trung, đã “kết án” Tào Tháo là kẻ phản nghịch, gian hùng. Nhưng trong bộ chánh sử Tam Quốc Chí, Trần Thọ chép: “Tào Tháo là người “cơ trí nhạy bén, ứng biến, chơi bời phóng đãng”. Thường thì những kẻ chơi bời phóng đãng tính tình luôn hào sảng, phóng khoáng, khác xa với những kẻ ngụy quân tử luôn giả nhân, giả nghĩa, giả hình,… dùng bề ngoài để che giấu bản chất ti tiện, thấp hèn bên trong.
Năm 1957 khi Quách Hóa Nhược viết về Binh pháp Tôn Tử còn dẫn lời Đỗ Mục cho rằng: “Binh pháp Tôn Tử có 82 bài và 9 quyển hình vẽ cộng với cuốn “Ngô Việt Xuân Thu” ghi chép các câu hỏi và trả lời của Tôn Vũ với vua Ngô. Truyền đến đời Tam Quốc, được Tào Tháo chọn lựa, gọt sửa, chắt lọc, biên tập và chú thích, bỏ chỗ thừa, chép những phần tinh tuý và xếp thành 13 thiên, tức là cuốn Tôn Tử Binh Pháp lưu truyền đến ngày nay.”
Quách Hóa Nhược còn khẳng định: “Trong chú giải bộ Binh Thư Tôn Tử, Tào Tháo đã giữ lại đúng nội dung chủ yếu của Tôn Tử Binh Pháp, đó là một cống hiến không thể lu mờ.”
Những đối thủ của Tào Tháo như Lưu Bị, Viên Thuật, Tôn Quyền, Khổng Minh đều thua xa ông trên các lãnh vực: Kiến thức, quân sự, chánh trị, dụng người, quyền biến, nổi bật nhất là lãnh vực văn chương... Ông thật xứng đáng được cho là một con người giàu năng lực trên nhiều lãnh vực.
Lâu nay, nhiều nhà phê bình chỉ dựa vào bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung mà không đối chiếu với bộ chính sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, đã đánh giá Tào Tháo một cách sai lầm cố ý, trong khi, cả đời Tào Tháo chưa hề có những hành vi tàn độc như Lý Thế Dân đời Đường, giết anh ruột, em ruột và ngay cả các cháu ruột của mình để được nối ngôi vua; hoặc như Tùy Dạng Đế Dương Quảng đầu độc chính cha ruột là Tùy Văn Đế Dương Kiên, để cướp ngôi,…
Tháng 4 năm 1972, hai cuốn sách Tôn Tử Binh Pháp (Tôn Vũ) và Tôn Tẫn Binh Pháp đồng thời tìm thấy trong một ngôi mộ cổ từ thời nhà Hán ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Tháng 7 năm 1978, cuốn Tôn Tử Binh Pháp cũng được tìm thấy trong một ngôi nhà ở Thanh Hải Trung Quốc, những ngộ nhận kéo dài về cuốn Tôn Tử Binh Pháp bấy giờ mới được làm rõ.
Từ trước tháng 4 năm 1972, bản Tôn Tử Binh Pháp được lưu truyền cho là cổ nhất, đó là bản khắc đời Tống.
 
Trần Thọ, tác giả Tam Quốc Chí, đã đánh giá về Tào Tháo như sau: “Cuối thời Hán, thiên hạ đại loạn, anh hùng hào kiệt cùng nổi dậy, mà Viên Thiệu như hổ vồ bốn châu, mạnh mẽ chẳng ai chống nổi. Thái Tổ tính kế bày mưu, đánh dẹp trong nước, tỏ phép hay của Thân, Thương, bày kế lạ của Hàn, Bạch, chọn dùng người hiền tùy vào tài năng, quyền biến ngang dọc, không hiềm thù chuyện cũ, rút cuộc nắm giữ mệnh vua, làm nên nghiệp lớn, riêng Thái Tổ có mưu lược sáng suốt hơn cả. Hoặc có thể nói là người khác thường, xứng đáng vào bậc hào kiệt hơn đời vậy.”
 
Đánh giá về tài năng chính trị của Tào Tháo, nhà nghiên cứu Tào Hồng Toại viết: “Tào Tháo là nhà chính trị kiệt xuất thời phong kiến, xứng đáng được gọi bằng hai chữ anh hùng, về tính cách nhiều mặt thể hiện ra bằng sự tàn nhẫn thiếu tính nhân ái. Bởi vậy, người đời cho đó chính là sự bổ sung hiệu quả cho tính gian hùng của ông.”
 
“Trong hoạt động chính trị, Tào Tháo đã vận dụng khá nhiều tư tưởng Pháp gia, đề cao tài trí, coi trọng năng lực mà không quá quan tâm đến đạo đức, phẩm chất của người được sử dụng. Đây là một liều thuốc rất công hiệu, có hiệu quả vô cùng lớn trong việc cai quản, sửa đổi cục diện lỏng lẻo từ cuối thời Đông Hán trở về trước.”
 
“Tào Tháo hùng tài đại lược, dũng cảm mưu trí hơn người nhưng cũng là người đa nghi, nham hiểm và tàn nhẫn... Ông đã dung hợp được 3 loại Pháp - Thuật - Thế trong tranh giành quyền lực, đồng thời có thể vận dụng linh hoạt, hay thay đổi. Đây là một tính cách đặc trưng... Chính vì tính cách con người Tào Tháo rất nhiều mặt nên đời sau cũng có những đánh giá về ông rất khác nhau.”
 
Lời nhận xét của Tào Hồng Toại trên đây không hoàn toàn chính xác, bởi Tào Hồng Toại chỉ nhìn vào góc cạnh của nền đạo đức Khổng Tử, mà không xét về thời điểm xã hội, chánh trị của Hán trào khi mạt vận.
 
Làm chánh trị mà không đa mưu túc kế, không lừa lọc đối phương, không giết người khi cần phải giết, thì chẳng khác nào đưa dây thòng lọng cho kẻ khác tròng vào cổ mình lôi đi.
 
Việc Tào Tháo giết Dương Tu, chỉ vì Dương Tu ỷ tài cao, biết rộng,… nhưng tự cao, tự đại, hợm mình, kiêu ngạo,…
 
Dương Tu (杨修), tự Đức Tổ, là con trai của Dương Bưu, một đại thần dưới triều vua Hán Hiến Đế. Đến khi biết nhà Hán sắp mất không thể cứu vãn được, Dương Bưu bèn cáo bệnh xin về ở ẩn.
 
Dương Bưu cả đời thọ lộc triều đình, đến khi biết Nhà Hán sắp bị diệt vong bèn xin về ở ẩn, mà không biết làm bất cứ điều gì để giúp vua giúp nước. Đó là hành vi của kẻ chỉ biết thủ lợi cho mình mà chẳng nghĩ gì đến tiền đồ quốc gia dân tộc. Điều nầy nói lên bản chất đê hèn, khiếp nhược của bọn quan lại thời mạt Hán. Đa số, bọn quan lại nầy đều không ưa Tào Tháo, bởi Tào Tháo làm lung lay địa vị, quyền lợi của bọn chúng.
 
Ở chốn quan trường Tào Tháo với Dương Bưu 楊彪 141-225, là đại thần cuối thời Đông Hán có nhiều bất đồng, nhưng ông vẫn tin dùng con trai của Dương Bưu là Dương Tu. Tào Tháo cho Dương Tu hầu cận trong phủ, thường xuyên cho ở bên kể cả khi ở trong kinh thành cũng như xuất quân. Như vậy, Tào Tháo đối đãi với Dương Tu đúng theo câu nói nổi tiếng của ông “Dùng người thì phải tin, đã không tin thì không dùng”.
 
Dương Tu là người có đủ tài trí, phục vụ dưới trướng Tào Tháo. Bản chất kiêu ngạo, cậy tài văn chương, chữ nghĩa nên về sau chuốc vạ vào thân.
 
Một lần Tào Tháo sau khi đi thăm vườn cảnh của phủ mới được xây, lấy bút viết lên cổng chữ "hoạt", Dương Tu trông thấy bèn tự ý sai thợ phá cái cổng để làm to hơn. Tháo thấy vậy mới tức giận hỏi, thì Dương Tu mới nói là làm theo lệnh Tháo rồi chỉ ra chữ mà Tào Tháo viết có thể hiểu ra là "hẹp quá" nên cho phá đi làm lại.
 
Lẽ ra, cho dù Dương Tu đoán được ý của Tào Tháo chê cổng hẹp, nhưng phải thỉnh ý Tào Tháo trước khi phá cổng làm lại mới đúng. Dương Tu không làm điều sơ đẳng ấy lại chuyên quyền tự ra lệnh phá cổng làm lại. Điều nầy minh chứng Dương Tu là kẻ không biết tôn trọng Tào Tháo. (Tuy nhiên, phần trên đây chỉ do La Quán Trung hư cấu để tâng bốc tài của Dương Tu mà thôi. Trong bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ không hề đề cập.)
 
Lần khác, Tào Tháo đem binh ra chặn Lưu Bị, nhưng bị đánh thua mấy trận đành phải cắm trại cố thủ. Thời gian trôi qua, không thay đổi được tình hình chiến trường đâm ra chán chường, có ý muốn rút nhưng lại ngại xấu hổ trước ba quân, quần thần.
 
Một tối, tướng Hạ Hầu Đôn vào trướng Tào Tháo xin mật khẩu ban đêm cho doanh trại, Tào Tháo ngần ngừ một lúc rồi nói: “Kê cân” (Gân gà). Hạ Hầu Đôn thấy khẩu lệnh này lạ lùng quá nên thắc mắc bèn đem hỏi Dương Tu. Dương Tu cười lớn rồi bảo Hạ Hầu Đôn chuẩn bị gói ghém đồ đạc, chỉ nội trong 3 ngày nữa Tào Tháo sẽ hạ lệnh rút quân.
 
Đêm hôm ấy, Tào Tháo tuần hành thấy quân sĩ ở các doanh trại đều lo thu dọn hành trang chuẩn bị rút quân. Tào Tháo hỏi vì sao? Tất cả đều đáp Dương Tu truyền lệnh chuẩn bị hành trang để quay về. Tào Tháo tức giận, truyền dẫn Dương Tu ra chém đầu về tội: “Phao tin đồn nhãm. Làm rối loạn lòng quân”.
 
Cách hành xử của Dương Tu đưa ông ta vào cái chết. Thử hỏi, trong cuộc điều binh đánh giặc, có vị tướng lãnh nào có thể tha thứ cho hành vi ngu xuẩn Dương Tu?
 
Tào Tháo giết Dương Tu rất chính đáng. Còn Dương Tu bị giết là do bản tính tự cao và thói hợm mình của ông ta.
 
Việc Tào Tháo giết Chu Bất Nghi, một thiếu nên 17 tuổi nhưng tài cao, học rộng,… là một kỳ tài nhưng kiêu ngạo đã dám từ hôn không chịu làm rể Tào Tháo.
 
Khi Tào Phi biết được ý định của cha mình bèn hết lời can gián thì được Ngụy Vương Tào Tháo thẳng thắn trả lời: “Kẻ này không phải người mà con có khả năng kiểm soát”. Lúc ấy Tào Phi mới nhận ra sự đáng sợ của Chu Bất Nghi.
 
Khi một kẻ tài năng vượt bực nằm trong guồng máy của ta, nhưng đầu óc kẻ ấy ở ngoài tầm tay ta, mà ta không giết trước thì cái họa sẽ đến sau.
 
Tào Tháo giết Dương Tu để giữ nghiêm quân lệnh. Giết Chu Bất Nghi để bảo vệ cơ đồ cho con mình về sau. Giết Vương Hậu để ổn định lòng quân sĩ. Thử hỏi, trong hoàn cảnh của Tào Tháo ai là người không làm như vậy?
 
Cách cư xử với thuộc cấp, Tào Tháo hơn Khổng Minh xa. Khổng Minh giết Trần Thức và Mã Tốc chỉ vì thua trận. Nhưng không dám giết Quan công để mất Kinh Châu, trong khi Kinh Châu một điểm chiến lược tối quan trọng của Lưu Bị. Chứng tỏ rằng Khổng Minh đè bẹp kẻ cô thế, dưới quyền nhưng kiêng dè kẻ có thế lực (Quan công dựa vào thế lực của Lưu Bị nên Khổng Minh không dám giết). Trong khi việc thua trận của hai tướng Trần Thức và Mã Tốc không ảnh hưởng quan trọng bằng Quan công để mất Kinh Châu.
 
Khi phá tan đại quân của Viên Thiệu ở Quan Độ, cách xử sự của Tào Tháo cho ta thấy vô cùng khôn ngoan, sáng suốt.
 
Khi bại trận Viên Thiệu hoảng sợ thu tàn quân vội vã chạy qua sông Hoàng Hà. Tất cả công văn giấy tờ đều bỏ lại hết. Quân Tào Tháo kéo đến thu được tất cả công văn giấy tờ đó. Ông nghe thuộc hạ báo lên, trong những giấy tờ ấy có tên tuổi thuộc cấp của mình làm tay sai cho Viên Thiệu. Những thuộc hạ thân tín của Tào Tháo tìm ra từng tên từng người và đề nghị Tháo cho bắt hết để trị tội. Tào Tháo không chịu, lại còn truyền lệnh đốt sạch những giấy tờ ấy. Mọi người ngạc nhiên, không đợi họ hỏi Tào Tháo liền nói:
 
- “Khi ta yếu, Thiệu mạnh, chính bản thân ta còn chưa tự lo cho mình được, huống chi người khác. Họ muốn tư thông với Thiệu chẳng qua là muốn tìm đường sống mà thôi. Chẳng có tội gì mà ta phải xét xử!”
 
Cách xử sự khôn ngoan độ lượng của Tháo khiến cho người người kính phục. Những kẻ manh tâm phản bội ông vô cùng hối hận và cảm kích. Từ đó, họ một dạ trung thành với Tào Tháo.
 
Về tài quân sự của Tào Tháo, Mao Tôn Cương, nhà phê bình tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa, dù có thành kiến không tốt với Tào Tháo cũng thừa nhận rằng: “Việc binh của Tôn Quyền do Đại đô đốc quyết đoán. Việc quân của Lưu Huyền Đức do quân sư quyết đoán. Chỉ có Tào Tháo là tự tay nắm quyền hành quân, một mình quyết đoán. Tuy rằng có các mưu sĩ giúp mưu, nhưng phần quyết định cuối cùng bao giờ cũng do Tháo. Tháo tỏ ra xuất sắc hơn hẳn bề tôi. Thế thì Lưu Bị, Tôn Quyền không thể ví được với Tháo vậy. Cứ xem mỗi lần Tháo dự định mật kế, ban đầu các tướng đều không hiểu, sau khi thành công, các tướng mới thán phục.”
 
Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) một nhân tài quân sự, đã đề trên mộ Tháo rằng: "Nhất tướng chi trí hữu dư. Lương nhiên! Lương nhiên" (Dịch: (Tào Tháo là) một tướng trí dũng có dư! Giỏi thay! Giỏi thay!) Khen như thế thật chính xác!
 
Do không đủ lương thực cấp cho quân sĩ, Tào Tháo bèn mật sai Vương Hậu làm cái đấu đong gạo nhỏ lại để đong ít số gạo hầu kéo dài thời gian… Nhưng, sau đó Tháo đổ tội cho Vương Hậu tham ô, làm thất thoát lương thực rồi truyền lệnh chém đầu để trấn an quân sĩ. Tào Tháo tự biết mình giết oan Vương Hậu, bèn chuộc lỗi bằng cách trợ giúp gia đình Vương Hậu suốt đời.
 
Việc giết Vương Hậu, một quan chức coi việc quân lương, có phần bá đạo, nhưng nếu không giết thì không thể lường trước hậu quả sẽ xảy ra.
 
Trong cái bá đạo của Tào Tháo, hiển hiện lòng lương thiện, nhân hậu của ông mà ai cũng cảm thấy được. Vì nhu cầu, trong hoàn cảnh đó, buộc ta phải làm như vậy, như vậy… Để bù đắp lại, Tháo đã thể hiện được tấm lòng của bậc biết hành xử vương đạo.
 
Cái hay của Tào Tháo dám làm, dám nhận trách nhiệm, thấy sai dám sửa sai. Tào Tháo hơn những kẻ khác cả cái đầu.
 
Năm 216, Tào Tháo lùi hẳn về Bắc củng cố thế lực rồi dâng biểu ép vua phải phong mình là Ngụy Vương để có đủ uy quyền mà trấn áp quân Đông Ngô. Có tướng hỏi sao ông "không lập quốc và xưng đế"? Tào Tháo chỉ nói:
 
- “Trải qua bao năm chiến chinh hy vọng giữ vững giang sơn bờ cõi Nhà Hán. Nay được làm đến chức Ngụy Vương, đã mãn nguyện lắm rồi, nếu có thì chỉ mong được như Chu Văn Vương ngày xưa thôi chứ nào ham gì chức vị đế vương?”
 
Tào Tháo khôn ngoan trong nhận xét, không muốn mình mang tiếng phản nghịch Nhà Hán. Nhưng dọn sẵn đường cho con cháu ông sau nầy sẽ chiếm lấy thiên hạ.
 
Tào Tháo có cặp mắt tinh tường và biết cách dùng người mà Lưu Bị, Tôn Quyền không thể sánh ngang vai. Cho nên hào kiệt, anh tài trong thiên hạ đều hội tụ về với Tháo không kể xiết. Những Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng, Tuân Úc, Tuân Du, Trình Dục, Quách Gia, Lưu Hoa, Giả Hủ, Mãn Sủng, Mao Giới, Hứa Du, Chung Dao, Điển Vi, Hứa Chử, Lý Điển, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Trương Liêu, Trương Cáp, Từ Hoảng... Với lực lượng hùng hậu đó giúp Tào Tháo luôn ở thế thượng phong khiến Lưu Bị, Tôn Quyền phải kinh sợ.
 
Trong trận Uyển Thành, Tào Tháo mất người con cả Tào Ngang, người cháu là Tào An Dân và tướng Điển Vi; nhưng tới khi nhớ tới trận này, ông khóc Điển Vi nhiều hơn cả. Trong trận Quan Độ, khi Hứa Du bỏ Viên Thiệu sang hang Tào, ông không kịp xỏ giày mà đi chân đất ra đón.
 
Khóc Điền Vi và đi chân đất đón tiếp Hứa Du cho ta hai cách nghĩ: Thủ thuật chánh trị và do lòng chân thật của kẻ đầy bản lĩnh trên phương diện dụng người của kẻ làm chánh trị.
 
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa bản đầy đủ từ đời nhà Minh trở đi (bản của Mao Tôn Cương) có xu hướng ủng hộ Lưu Bị và nước Thục cũng như quá đề cao Gia Cát Lượng mà quên đi vai trò chính của Tào Tháo trong việc ngăn chặn cục diện đại loạn cuối thời Đông Hán.
 
Tào Tháo đã dồn nhiều tâm huyết vào đó, ông tuyển chọn nhân tài, chiêu đãi kẻ hiền, thậm chí phải làm nhiều việc tàn bạo như “chèn ép vua Hiến Đế”, “giết thái y Cát Bình”, “treo cổ Đổng Quý Phi đang mang long thai”, “đánh Phục Hoàng Hậu đến chết”,...
 
Các hành vi dã man, ác độc đó chỉ xảy ra trong hành trình để đạt đến mục đích thực hiện mưu đồ chính trị. Làm chính trị, không ai là kẻ lương thiện. Lâu nay dân gian chỉ trích Tào Tháo, đó chẳng qua là do ảnh hưởng từ ngòi bút của La Quán Trung trong Tam Quốc Diễn Nghĩa mà ra.
 
Những người kính trọng ông như Kiều Huyền, Hứa Thiệu. Kiều Huyền vốn làm quan đến Thái úy, là bạn vong niên với Tào Tháo đã nói: “Thiên hạ tất loạn, không có tài cái thế thì không trị được. Người dẹp an được thiên hạ tất là anh vậy!”. Nói rồi bèn nhắn nhủ giao vợ con cho Tháo để Tháo trông nom.
 
Hứa Thiệu, tên chữ là Tử Tương, người Nhữ Nam, vốn là danh sĩ, nhà bình luận nổi tiếng đương thời. Ai được Hứa Thiệu bình luận thì tức khắc nổi tiếng. Tào Tháo cũng đến xin Hứa Thiệu bình cho một câu, nhưng Hứa Thiệu không chịu dù Tháo nài nỉ hết mức. Tào Tháo sau đó bèn nhân lúc Hứa Thiệu ra ngoài, dí dao ra bức bách Hứa Thiệu. Hứa Thiệu đành phải đánh giá Tào Tháo là “năng thần (quan giỏi) thời trị và gian hùng thời loạn”. Tào Tháo nghe xong cả cười rồi bỏ đi.
 
Dịch Trung Thiên, người Trường Sa, Hồ Nam, năm 1981 tốt nghiệp đại học Vũ Hán, sau khi đạt được học vị thạc sĩ văn học ở lại trường giảng dạy, hiện là giáo sư Học viện Nhân văn Đại học Hạ Môn. Ông nhiều năm nghiên cứu văn học, mỹ học, tâm lý học, nhân loại học, lịch sử học... trong bộ “Nhân vật nổi tiếng đời Hán”, ông cho rằng Hứa Thiệu đã thấy được Tào Tháo là một nhân vật có hai mặt của thời bình và thời loạn.
 
Còn muốn trở thành năng thần trị lý hay gian hùng trong lúc thiên hạ nhiễu loạn cho thấy Tào Tháo là người biết chọn thời cơ mà xử sự công việc. Trong phương diện nầy cho ta thấy Tào Tháo là người đầy bản lãnh biết áp dụng từng hoàn cảnh mà thi thố tài năng, rất xứng hợp bản chất của các nhà chính trị.
 
Vả lại, còn phải xem vào thời đại sống và nguyện vọng chủ quan của Tào Tháo. Tào Tháo sống vào thời loạn, phải sử dụng mưu lược thích hợp cho từng hoàn cảnh, bị đánh giá là kẻ gian hùng đó lẽ tất nhiên.
 
Thời loạn lạc ai là kẻ chẳng lợi dụng thời cơ?
 
***
 
Tham khảo có trích đoạn:
- Quách Hóa Nhược, Binh pháp Tôn Tử,
- Tào Nghiêu Đức, Truyện Tôn Tử.
- Mã Nhất Phu, Binh pháp Tôn Tử.
- Đức Thành, Binh pháp Tôn Tử.
- Bách Khoa Toàn Thư. 

  Trở lại chuyên mục của : Thái Quốc Mưu