TIỂU NGUYỆT

 
Bà Bốn Quẹo
 Truyện ngắn
 
 
     - Đứa nào lấp ló đấy bay?
     Nghe tiếng bà, Hùng chạy núp sau lò gạch, thở hổn hển, sợ bà nhìn thấy. Phấn dòm qua dòm lại, nói với bà:
     - Ai đâu mà lấp ló? Nội hoa mắt đấy thôi, con đâu thấy ai.
     - Ừ hén! Già nên mắt yếu rồi chăng? Nhưng sao bà thấy như có đứa nào thập thò trước gian phòng của mấy con nhỏ ấy!
     - Không có đâu bà, con không thấy gì mà.
     - Ông Hai mà bắt được là chết với ổng.
     Phấn trấn an bà nhưng đôi mắt cứ liếc sang gian phòng mấy cô gái ấy, nó biết anh trai nó tò mò dòm thử mấy cô ấy làm gì. Phấn an tâm khi thấy Hùng chạy trốn ra phía sau, nó an ủi bà:
     - Mắt yếu, mua thuốc dầu cá uống nha nội!
     - Kệ con ơi! Tiền bạc đâu mà thuốc với thang, tao lo cho hai anh em mày học tới nơi tới chốn, đứa nào cố gắng tao cho học miết, còn dở quá thì nghỉ ráng chịu.
     - Dạ! Con sẽ cố gắng, anh Hùng cũng vậy, không phụ lòng nội đâu.
     - Ừ! Ráng mà học kiếm cái chữ, thời buổi nào có học vẫn hơn. Người ta nói một, mình hiểu hai ba, chứ người ta nói mười mình hiểu một thì uổng kiếp này lắm con. Làm được con người không phải dễ đâu con ạ!
     - Dạ! Con biết rồi!
     - Không biết giờ con Huyền lưu lạc chốn nào? Sống ra sao? Mà thôi kệ nó đi, cái số cả. Con chị mày số khổ, tội nghiệp!
     Phấn nghe bà nhắc đến chị, lòng đau như cắt. Phấn thương chị không biết giờ lang thang nơi nào? Ba chị em mồ côi cả ba má, sống dắt díu nhau dưới sự cưu mang của bà, dù bà không mang nặng đẻ đau, nhưng thương chị em nó hết mực. Tấm lòng của bà thật bao la, nhiều lúc thương bà ghê, nhưng không biết bày tỏ thế nào. Phấn cầm tay bà mân mê:
     - Con thương bà! Thương quá đi!
     - Cha mày! Thương thì ráng học nghen!
     - Dạ!
     Bà có biệt danh là bà bốn Quẹo từ hồi còn rất trẻ, tay bà có tật từ khi mới sinh ra. Bà mở quán nước và tạp hóa ở lò gạch ông hai Thanh bán cho dân xóm Tre và khách qua lại trên đường. Trong xóm chỉ có quán bà nên buôn bán cũng đủ cho ba bà cháu sống qua ngày. Nghe những người lớn trong xóm nói rằng bà có chồng ở tít trên đất đỏ, mỗi lần về bà đi bộ có khi hơn nửa ngày mới tới nơi. Chồng bà có ba người con trai thì vợ mất, ông gặp bà sau khi mãn tang vợ. Bà vui tính, chịu thương chịu khó làm ăn, và rất thương người. Bà về với ông được năm năm thì ông bỏ bà ra đi khi bà chưa có mụn con nào, một mình chăm lo cho ba đứa con trai của chồng, từ việc cưới vợ cho đến bồng bế cháu. Bà coi ba anh con trai không khác gì con mình rứt ruột đẻ ra, cho nên các anh cũng thương bà như mẹ mình vậy. Vợ chồng anh con trai giữa chết trong một trận càng bỏ lại ba đứa cháu nội còn nhỏ xíu, bà phải nuôi nấng, chăm lo mọi thứ. Cả làng ai cũng thương và kính nể tấm lòng của bà, hiếm có người như thế.
     Rồi một ngày bà dắt ba đứa cháu nội mồ côi và vợ chồng của các con trai ông về quê mình sống. Hai cô con dâu bà làm gạch trên lò của ông hai Thanh, một anh dạy vỡ lòng cho những trẻ em trong làng, một anh theo phụ xe. Cuộc sống ổn định, ba cháu nội ở cùng bà, chị lớn là Huyền vào Nha Trang học may, hai người còn lại là Phấn và Hùng bà nuôi đi học.
     Huyền học may ra nghề về lại cùng bà chăm sóc hai em, Huyền dịu dàng dễ mến. Huyền có mái tóc dài mượt mà, dáng đi tha thướt sang trọng như cô gái thị thành ít ai biết nàng là cô gái quê. Con trai trong làng có nhiều anh thương nàng, tìm cách làm quen. Trong một kỳ nghỉ hè, Lân về thăm quê, anh gặp Huyền, đôi mắt nàng đã cuốn hút anh. Ngày nào anh cũng lại tiệm may tìm cách trò chuyện cùng nàng, tay cầm xấp vải, anh cười:
     - Huyền may giùm anh chiếc áo.
     Nàng cười:
     - Huyền may anh đừng chê xấu nhen, những người học hành, dân thành thị sợ em may không hợp, em dân quê mà.
     Anh cười lớn:
     - Anh cũng dân quê chứ có hơn gì ai, em may chắc chắn anh rất thích.
     - Huyền không dám đâu! Người quê làm sao sánh với thị thành.
     Anh cầm tay nàng nói:
     - Ước gì Huyền vá giùm cuộc đời anh.
     Huyền rút tay về, nàng cười nho nhỏ:
     - Cuộc đời anh làm sao mà phải vá? Anh cứ đùa!
     - Gặp em, tia chớp tình yêu làm đau trái tim, chứ sao!
     Huyền e thẹn khi nghe anh nói, nàng cúi đầu nói nhỏ:
     - Biết anh có nhớ em mãi không hay ít bữa vào thành phố rồi quên mất cô gái quê?
     - Anh sẽ nhớ mãi cô thợ may xinh xắn này, mãi mãi.
     Mỗi lần về quê anh luôn tìm đến thăm nàng. Hai người đã yêu nhau, họ rất xứng đôi. Anh mong đến ngày ra trường và xin cưới nàng, ba má anh cũng đã đến nhà dạm hỏi. Tình yêu hai người ngày càng thắm thiết, những cánh thư anh gởi nàng luôn trân quí, đọc và cất kỹ. Anh vào đại học với bao nhiêu ước mơ hoài bão, bao sự kỳ vọng của gia đình.
     Ngày ra trường anh về làm việc bên thị xã, ở trọ bên ấy, chủ nhật mới về nhà. Ngày ấy ở xóm Tre, buổi tối trai gái trong làng lên Xóm Mới ngủ sáng sớm về. Gia đình anh đã tổ chức lễ ăn hỏi, tháng sau là cưới, chủ nhật nào anh cũng về thăm Huyền.
     Trời hừng sáng, bà bốn đang nấu ấm nước bỗng nghe tiếng nổ lớn, liền nói:
     - Chết cha! Đứa nào đi sớm mang mìn nổ rồi không biết?
     Một lát nghe tiếng xôn xao từ ngoài Dốc Dòi, Hưng bạn của Hùng chạy vào sân la lớn:
     - Anh Lân về sớm vướng mìn chết rồi chị Huyền ơi!
     Cả nhà bùng dậy, Huyền lao nhanh ra dốc Dòi, mọi người chạy theo. Lân nằm bất động, mình đầy máu hai chân dập nát, thịt văng khắp nơi. Nàng bủn rủn tay chân, đôi mắt nhìn anh như nuốt chửng, hét lên một tiếng rồi ngã xuống đường bất tỉnh. Mọi người khiêng nàng về nhà, bà bốn lại phải như người mẹ chăm lo cho Huyền, đứa cháu bất hạnh của bà. Huyền như người mất hồn, ngơ ngơ ngác ngác, cả ngày không có tiếng nói. Nỗi buồn nén trong lòng như đốt chảy nàng. Cái chết của Lân đã làm nàng ngã quỵ, nàng như bị tâm thần khi tỉnh khi say.
     Càng ngày bệnh càng nặng, nàng đội nón đi miết, miệng lẩm nhẩm gì không ai nghe rõ, nét mặt buồn buồn đôi khi phá lên cười thật to. Đôi mắt Huyền ngây dại, vô thần, nhìn vào phía trước như nhìn vào khoảng không vô tận. Ngày ngày Huyền đi như thế bỏ ăn, bà bốn lại chạy trước chạy sau, lo đủ thầy về chạy chữa cho cháu nhưng vô hiệu. Huyền đi lang thang dù xa hay gần chiều cũng biết đường về nhà, lâu rồi nặng hơn, không về nữa, bà bốn phải đi kiếm. Một sáng mùa đông, Huyền ra đi từ sớm và không bao giờ trở về nữa dù bà bốn tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy bóng nàng đâu cả. Mọi người trong làng chép miệng “tội nghiệp” khi nhìn thấy bà và hai đứa cháu còn lại.
      Phấn học lớp ba, Hùng lớp nhất trường Cơ Bản. Hai anh em học rất chăm chỉ không bỏ buổi học nào dù trời mưa hay nắng, nó biết bà cực khổ lo cho hai anh em không để bà thất vọng nên cố gắng học. Sáng nào cũng được bà khui hộp cá ăn với bánh tráng rồi đi học, trưa về lúc nào cũng được ly nước chanh hoặc nước đá hột é. Trưa hai đứa coi quán cho bà ngủ, tha hồ tám chuyện, nói nhau nghe những gì ở lớp. Phấn nói nhỏ vào tai Hùng như sợ ai nghe thấy:
     - Hồi sáng anh có thấy người chết nằm trước cửa chùa ở ngả tư không? Eo ơi! Thấy mà ghê!
     - Nằm ngay chỗ đi qua sao không thấy, đui cũng thấy huống chi anh mày mắt sáng quắt.
     - Ở đâu ra mà nằm vậy anh? Thường xuyên chứ đâu phải lâu lâu mới có. Lạ thật!
     Hùng ra vẻ trầm tư suy nghĩ:
     - Thì cũng ở đâu đó... eo ơi! Lạnh cả xương sống!
     - Em thắc mắc ghê! Người chết như ... súc vật, nằm thấy sợ!
     - Em đừng kể cho nội biết bà la đó, đi học thấy gì hay nấy đó nghen. Đừng có đứng nhìn, nhào vô xem về ám ảnh ngủ không được đó.
     - Em biết rồi, thôi nghĩ mệt, không thắc mắc chi. Anh cho em thêm muổng hột é vào ly uống cho đã coi hi hi
     - Trời ạ! Để bà bán, mày uống cho cố vào hết cả vốn của bà đó con!
     Phấn cười khì lấy lòng anh:
     - Gì mà anh nói hết vốn, cho thêm chút nữa đi, bà ngủ rồi không sao đâu, hột é ngon quá, nhai cứ lạo xạo thấy vui.
     - Đưa đây bà cô! Cho chút xíu nữa nè!
      Cuộc sống êm đềm trôi theo ngày tháng, đôi lúc hai đứa chạnh lòng nhớ đến chị Huyền nhưng rồi chỉ nhớ thương không biết phải làm gì. Ba má mất sớm hai đứa không nhớ gì nhiều những kỷ niệm về ba má, nhưng nỗi buồn lớn dần khi nhìn thấy bạn bè có đầy đủ còn mình thì thiếu tình thương ba má, dù nội có lo cho nó thật đầy đủ. Nhiều lúc nhìn chúng bạn nó thấy tủi thân, xót xa trong lòng.
 
 
     ***
 
     Một buổi tối nọ bà đưa hai anh em Hùng và Phấn lại nhà ông Ba Trạch, mọi người xóm trong đi ngủ tập trung ở đó khoảng gần hai mươi người toàn trẻ em và người già, bao nhiêu trai tráng thiếu nữ đi lên Xóm Mới ngủ hết. Người lính Đại Hàn thấy Phấn dễ thương liền ẵm đặt ngồi trên đùi, miệng trâm trết mấy câu không ai hiểu gì. Bà Tư Điểu cười nói:
     - Nó nhớ con nó đấy, cứ ngắm con nhỏ không chớp mắt.
     Mọi người cười theo người lính, chú bảy Tạo cười khi thấy anh lính nói gì với Phấn trâm trết chẳng ai hiểu:
     - Nó nói gì vậy trời? Hay nó muốn bắt con Phấn về nuôi.
     Bà bốn nghe ông bảy nói thế hết hồn hoảng hốt:
     - Nó bắt làm gì ông? Ai nuôi cho nó? Nhưng mà sao nó cứ ôm con nhỏ không thả vậy bà con? Sao tự nhiên tui sợ dữ he.
     - Thì nó nhớ con nó chớ sao, một lát nó thả chứ giữ làm gì. Dù sao nó cũng là người, có thương có nhớ, nên khi thấy trẻ nhỏ nhớ con mình vậy thôi.
     Bà bốn cười nhưng trong lòng bắt đầu lo:
     - Lạy trời như lời bà tư nói, một lát thôi kẻo chết tui.
     Phấn bị người lính Đại Hàn ẵm đặt trên đùi, anh ta rất thích thú như ẵm con mình. Càng lúc trời càng tối, người lính không chịu thả Phấn ra, ôm khư khư vào lòng làm mọi người lo lắng hơn, ai cũng cảm thấy bất an, bà Tư Điểu nói:
     - Bà bốn này! Chờ cơ hội là dắt nó chạy trốn đi nhé! Tui thấy sợ rồi đấy!
     - Ừ! Chắc vậy!
     Người lính đi vệ sinh bà bốn lật đật dắt hai cháu chạy trốn, anh nhìn thấy chạy trở vào giành Phấn lại ẵm trên tay, mọi người càng lo sợ hơn. Phấn hốt hoảng la khóc om sòm làm bà bốn càng hoảng hơn. Mọi người có mặt ai cũng nín thở lo lắng cho bà. Có lẽ bí quá nên anh lính bỏ Phấn ra hàng rào, ba bà cháu lật đật chạy ra xóm sau trốn nhà ông Dư, mượn quần áo cháu ông cho hai đứa mặc vào. Người lính Đại Hàn trở vào không thấy Phấn la hét om sòm, tìm kiếm suốt đêm. Đêm hôm đó, cả xóm náo động, tiếng súng và tiếng la hét vang trời. Ba bà cháu nín thở, thao thức nằm trốn trong hầm. Hùng khóc nói với bà:
     - Sao mấy chị em con gặp toàn chuyện buồn không vậy nội? Toàn bất hạnh không hà.
     Bà bốn ôm hai anh em nó vào lòng an ủi:
     - Còn bà đây chi, tụi con có phước lắm mới được làm cháu bà đấy! Các con đừng lo, trời không nỡ phụ người có tâm đâu con.
     - Dạ! Nhưng con nghe xót quá! Thương bà ghê!
     - Thôi ráng mà ngủ một lát đi, mai bà cháu mình đi sớm lên Xóm Mới ở tạm mấy ngày chờ yên rồi về.
     Hùng và Phấn lau nước mắt, nghe lời bà cố chợp mắt. Bà bốn nhìn cháu nghe tình thương chan chứa trong lòng, mong các cháu được an bình, cháu bà đã khổ quá rồi.
     Sáng sớm hôm sau, bà bốn Quẹo dắt hai đứa cháu lên Xóm Mới. Trên đường đi, ba bà cháu cúi mặt không dám ngước nhìn ai sợ gặp người lính khi hôm. Đến gần cầu Bi gặp một tốp lính ngược chiều, ba bà cháu lúp xúp chạy, bà luôn miệng niệm Phật. Mấy bà cháu lánh nạn mười ngày bỏ cả bán buôn, chờ yên lắng rồi về lại.
     Quán nước bên đường của bà bốn lại mở cửa, bà bán buôn cũng đắt nhờ công nhân lò gạch. Ông hai Thanh dựng ba phòng vách ván trong khu lò gạch, ông mời về ba bốn cô gái phấn son lòe loẹt ở đó. Các cô thường lại quán bà bốn uống nước, mua đồ. Hai anh em Hùng thắc mắc hỏi bà:
     - Mấy cô đó làm gì ở đây vậy nội? Trét gì đầy mặt thấy mà ghê! Móng tay móng chân sơn gì mà đỏ chót, để dài thiệt dài.
      Bà bốn la Hùng:
     - Làm gì hỏi chi, nhỏ biết gì? Kệ người ta đừng nhìn vào.
     Hằng ngày xe Jeep, GMC thường dừng lại, lính vào lò gạch một lát rồi ra, hai anh em Hùng thắc mắc theo hỏi bị bà la vẫn câu cũ “Nhỏ biết gì hỏi, kệ người ta” càng làm nó thắc mắc, chú ý dõi theo mỗi khi có người vào nhưng không dám lại gần. Các cô gái thấy anh em Hùng dễ thương thường mua cho bánh hoặc kẹo, có khi chai nước ngọt. Hùng biết ơn nhưng không dám trò chuyện, nó sợ bà.
     Ba bà cháu với cuộc sống êm đềm bên lò gạch ông hai Thanh, đêm nào nghe tiếng chó sủa hai anh em sợ hãi nép bên bà, bà cười “Sợ gì con, một lát mấy ổng đi là hết”, bà vẫn ung dung coi việc chó sủa là thường. Lúc nào bà cũng cười, đặt lưng xuống là ngáy không lo gì cả cho nên sức khỏe bà rất tốt. Đêm nghe tiếng súng hoặc máy bay bà ẵm hai đứa vào hầm, chờ máy bay đi khỏi, tiếng súng yên ắng lại ẵm cháu ra, hai đứa ngủ say như chết không biết gì cả.
     Cháu bà lớn dần lên, Hùng và Phấn đã học trung học, không ai biết tin gì của Huyền. Có người cho rằng Huyền đã chết, có người cho rằng nàng đã có chồng. Dù vậy bà bốn Quẹo vẫn thản nhiên cùng hai đứa cháu còn lại, bà cho rằng “Trời cho gì nhận nấy, có số cả, giầy dép cũng có số huống chi con người”. Cho nên Huyền thế nào là số của nàng bà không làm sao phụ gánh được.
 
 
      ***
 
     Sau mùa xuân năm bảy mươi lăm, một buổi sáng Huyền trở về trên tay một cái xách nhỏ với mấy bộ quần áo và đứa con còn nằm trong bụng chờ ngày sanh. Huyền thất thểu vào nhà quỳ bên bà rồi khóc:
     - Bà ơi! Tha lỗi cho cháu!
     Bà bốn khóc, đỡ Huyền dậy:
     - Con kể cho bà nghe sự tình thế nào?
     Huyền khóc tấm tức vừa kể bà nghe vừa quẹt nước mắt:
    - Con không biết gì hết, khi con tỉnh ra thì cái thai trong con đã được ba tháng rồi. Con không dám về nhà, sợ bà xấu hổ vì có đứa cháu như con. Bà con thấy con tội nghiệp người cho gạo người cho thức ăn, có khi nấu sẵn rồi mang cho con. Con sống trong lò gạch bỏ hoang từ lúc nào chẳng rõ. Mấy tháng nay càng ngày con càng tỉnh hẳn, con nhớ đường nhưng không dám trở về. Hôm nay, gần ngày sinh, con liều trở về xin bà tha thứ. Con không muốn thế, nhưng số phận đã bắt con như vậy nên con phải chịu. Xin bà giúp con!
      Bà bốn ôm choàng lấy đứa cháu gái khóc tức tưởi, lưng bà cong lại càng cong, vai oằn xuống cưu mang cháu rồi chắt dù không ruột thịt máu mủ với bà, nhưng bà thương và che chở với tấm lòng bao la.
     Mấy bà cháu dắt díu về quê ông, dựng lại căn nhà trên nền xưa cũ. Căn nhà vách đất mái tranh có tiếng trẻ con với bao lời thị phi dèm pha. Tội nghiệp Huyền với cái bệnh tâm thần đã bị một người đàn ông nào đó phỉnh dụ. Từ khi Huyền có thai, nàng tỉnh hẳn. Huyền ít nói lại càng ít nói hơn, chăm chút con mọn mặc ai nói gì. Những năm ấy rất khó khăn, cuộc sống vất vả. Huyền giỏi thêu thùa may vá nên cuộc sống mấy bà cháu có phần ổn. Có nhiều người thương Huyền, nhờ người mai mối nhưng nàng ở vậy nuôi con, tình yêu đối với nàng như đã khép. Mối tình Huyền dành cho Lân quá lớn để nàng ôm trong tim mối chân tình của người đã khuất khó mở lòng ra với ai.
     Đứa con trai của Huyền lớn lên, bi bô ngọng nghịu là niềm vui cho cả nhà. Bà bốn Quẹo mỉm cười, miệng nhai trầu - nhìn thằng bé:
     - Thằng nhỏ dễ thương quá! Mồ cha nó! Đứa nào vô tâm bỏ con vậy không biết, nhưng có nó vui cửa vui nhà không sao, ai nói gì kệ.
     Những lúc như thế Huyền buồn bã lặng thinh, nhìn con trai với ánh mắt đầy yêu thương. Nàng nghĩ đấy là đứa con trời cho và nàng xem đó là con của Lân, người mà nàng yêu thương đã bỏ nàng ra đi trong tức tưởi. Huyền căm ghét trái mìn ngày ấy đã cướp mất đi tình yêu và trời bù lại cho nàng đứa con trai dễ thương, là lẽ sống để nàng tiếp bước.
     - Con anh Lân đó bà, thấy giống ảnh không, lúc nào con cũng thấy anh ấy qua thằng bé.
     - Trời ạ! Con còn quá trẻ, có người nào thương thì ưng đừng như thế buồn lắm con.
     - Thôi bà ơi! Có đứa con nuôi được rồi, con không muốn gì hơn.
     Bà bốn chép miệng “tội nghiệp” nhìn hai mẹ con Huyền. Cuộc đời vốn không bằng phẳng chút nào luôn gập ghềnh sóng gió, bà thương những đứa cháu mồ côi thiếu thốn đủ thứ.
     Huyền có đứa con càng đẹp ra, nước da trắng hồng mịn màng. Càng nhìn càng thấy mặn mà, nàng đẹp từ bên ngoài lẫn bên trong. Huyền rất thương người giống như bà, luôn giúp đỡ người neo đơn, khó khăn dù mình chẳng dư dả gì. Huyền noi gương bà luôn mang yêu thương đến mọi người, luôn hòa nhã vui vẻ với mọi người dù đời nàng luôn gặp những trắc trở khổ đau.
     Bà bốn ngày càng già, bệnh đau liên miên. Huyền chăm bà rất kỹ, luôn an ủi bà. Nàng xem bà như người mẹ, luôn kính yêu hết mực. Hôm cháu bà dưới quê lên thăm, thấy bà bệnh liền thưa:
     - Cô ơi! Cháu đưa cô về quê, cháu sẽ chăm sóc cho cô. Mai mốt cô có theo ông bà con lo cho cô yên mồ yên mả. Cô không có con cháu, sợ mai mốt thất lạc.
     Bà khóc, đưa hai tay cầm lấy tay người cháu trai con anh hai của bà:
     - Đây là nhà của cô, mấy đứa này là cháu của cô. Tuy cô không có mụn con nào nhưng cô coi chúng là ruột thịt không nỡ rời xa. Con thông cảm cho cô, cô không thể.
     - Nhưng cô ơi! Tụi nó lớn hết rồi tự lo cho bản thân được. Cô lo dưỡng tuổi già mai mốt có theo ông bà cũng ở nhà mình là tốt hơn.
     Huyền quì xuống bên bà rồi khóc:
     - Bà ơi! Lúc nào chúng con cũng xem bà là ruột thịt, ở với chúng con để chị em con có cơ hội trả hiếu cho bà - Quay sang người cháu của bà, Chú ba ơi! Để bà ở đây tụi cháu sẽ lo cho bà đầy đủ, chú đừng lo, tụi cháu coi bà là Nội thật sự. Bao năm bà lo cho tụi con, giờ con không thể để bà ra đi như thế. Chú thương con là nên để bà sống cùng, con rất biết ơn chú.
     Người cháu bà cảm động trước tấm lòng của Huyền và tấm lòng bà dành cho mấy chị em, ông rơi nước mắt:
     - Cháu nói vậy là chú yên tâm rồi, có khó khăn gì cứ nói chú. Bà có sao thì báo liền nghe chưa.
     - Dạ! Con cảm ơn chú!
     Người cháu con anh hai bà ra về, bà sống cùng mấy chị em Huyền. Ngày càng già nhưng bà rất minh mẫn, luôn nhắc nhở chị em nàng.
     Một sáng Rằm tháng bảy, bà ngủ một giấc không bao giờ trở dậy. Bà đã theo ông bà đúng ngày lễ Vu Lan. Đức Phật từ bi đã đón bà về trong vòng tay yêu thương của Ngài trong sự tiếc thương của tất cả mọi người bên những đứa cháu mồ côi mà bà cưu mang.
                                
                                12.2016
  Trở lại chuyên mục của : Tiểu Nguyệt