TIỂU NGUYỆT


Một Ngày Dài Một Đời Người
(Truyện Dài)

 
CHƯƠNG HAI
 
VỀ VỚI QUÊ NHÀ
 
Mấy hôm nay từ thị xã đến làng quê, đâu đâu cũng cũng xôn xao về cuộc di tản trên tỉnh lộ 7 đầy máu và nước mắt; khiến bà Chín bàng hoàng, lo lắng cho số phận vợ chồng con trai bà - Anh Tư, chị Trâm và hai đứa cháu nội đang bị kẹt ở thị xã Pleiku.
Bà Chín đứng ngồi không yên như có lửa đốt trong lòng, liền qua nhà ông bà Hải - cha mẹ con dâu bà, để nghe ngóng tin tức.
Vừa bước vào nhà, bà gặp Kim Lan - em gái của Kim Trâm, vừa dưới bếp đi lên. Bà hỏi:
- Ba má đâu cháu? Hổm nay có nghe tin tức gì của anh chị không?
- Dạ con chào bác Chín. Ba má con lên Đông Tác, chỗ tập trung những người di tản đưa về, tìm người quen hỏi thăm anh chị Tư rồi. Bác ngồi chơi uống chén nước, chắc cũng sắp về rồi đấy.
- Vậy hả cháu? Sao bác lo quá cháu ơi!
Kim Lan an ủi:
- Chắc hổng sao đâu bác. Hổm nay tụi cháu có học hành gì đâu, lo đi ủy lạo, quyên gạo, tiền, quần áo, thuốc men giúp đỡ cho những người được cứu về từ cuộc di tản, đang tập trung ở mấy trường học trên Đông Tác mà thôi, bác ạ.
Bà Chín hỏi dồn dập:
- Cháu có nghe tin gì về anh chị không? Có ai gặp tụi nó không vậy?
- Mạnh ai nấy chạy thoát thân ai biết được ai, hở bác!. Ai cũng mệt mỏi, đói khát, bệnh đau, không nói năng gì nhiều, thấy thương lắm bác!
Bà Chín thẫn thờ:
- Cầu Trời Phật phù hộ cho tụi nó trở về an toàn. Có gì chắc bác chết mất cháu ơi!
Kim Lan nhìn gương mặt hốt hoảng, tái xanh của bà Chín - giọng nhỏ nhẹ:
- Không sao đâu bác. Mình ở hiền sẽ gặp lành thôi. Chắc nay mai ảnh chỉ về chứ gì.
- Mong là vậy, cháu à!
Ông bà Hải đèo nhau trên chiếc xe đạp từ sáng sớm lên Đông Tác tìm kiếm, thăm hỏi tin tức vợ chồng con gái từ những người chạy thoát được trở về trong cuộc di tản ở tỉnh lộ 7. Hỏi thăm không ai biết gì về vợ chồng anh Tư, chị Trâm, càng làm ông bà lo lắng, sốt ruột hơn; nhưng đành trở về nghỉ ngơi, để sáng mai trở lên tìm kiếm tiếp.
Ông bà Hải vừa về đến nhà chưa kịp dựng chiếc xe đạp, bà Chín vội chạy ra mừng rỡ:
- Chào anh chị! Có tin tức gì của tụi nó không anh chị?
- Không gặp ai quen chị à. Mai tui sẽ đi tiếp, biết đâu có người quen biết được tin tụi nó thì sao. Nghe nói chết nhiều dữ lắm chị ơi!.
Bà Hải bỗng khóc òa lên:
- Hổng biết tụi nó có sao không, tui lo quá đi.
Bà Chín khóc theo:
- Cầu Trời Phật chứ biết sao chị!
Ông bà Hải nghĩ thương cho bà Chín. Chồng bà mất khi bà mới ba mươi lăm tuổi, bà nuôi ba đứa con thật vất vả, khó khăn. Đứa con gái lớn cũng bỏ bà ra đi khi chưa mãn tang ông Chín, chỉ sau một đêm nóng sốt, được cô y tá trong làng chích cho mũi thuốc, khiến bà đau đớn muốn chết đi; nhưng vì thương con bà gắng sống nuôi hai con còn lại trưởng thành. Con gái lấy chồng xa, con trai thi rớt tú tài 2, phải vào Thủ Đức, ra trường về đóng quân ở Pleiku; quân đoàn 2, chiến trường đang sôi động, đánh nhau ầm ì, khiến bà lo sợ, thảng thốt suốt ngày khi nghe có tin đánh nhau. Bà sống một mình, cô đơn, quạnh quẽ trong ngôi nhà cha mẹ để lại; ngày đêm luôn cầu nguyện mong được hòa bình, để con trai về sống cùng, tuổi già có nơi nương tựa.
Ông Hải - giọng trầm thấp:
- Chắc không sao đâu chị. Nay mai tụi nó về liền ấy mà. Hổm nay có đứa nào về ở với chị không?
- Có đứa nào đâu anh. Con Ba, mười ngày nửa tháng về thăm tui một lát rồi đi. Mấy đứa con nó đứa đi học, đứa đi làm, rảnh đâu mà về với mình. Đơn chiếc phải chịu vậy thôi. Mai mốt mong cho vợ chồng thằng Tư về thì mừng biết mấy.
- Tui cũng mong là vậy. Tụi nó về là mừng rồi - quay sang Kim Lan ông nói, cơm chín chưa con, dọn cơm mời bác Chín ăn luôn thể, về nhà ăn một mình buồn lắm.
- Dạ cơm chín rồi ba, để con xuống dọn cơm.
Nói xong Kim Lan quay xuống bếp dọn cơm lên mời cả nhà cùng ăn. Mọi người cùng ngồi xuống, ăn cho có ăn, ai cũng lo lắng, chộn rộn, nuốt không nổi cơm. Bà Chín nghĩ tủi thân, nước mắt cứ ứa ra như chực trào, vẻ mặt buồn thiu. Mỗi người đều đuổi theo mỗi ý nghĩ, yên lặng. Bữa cơm sum họp lại trở nên ngậm ngùi. Kim Lan thở dài không dám nói gì, sợ động đến nỗi buồn lo của mọi người. Nhưng rồi Lan cố gượng vui, mời mọc:
- Ba má và bác Chín ăn đi chứ! Con nấu canh tập tàng với cá mành, bỏ ít lưỡi rồng ăn cho mát - nói rồi, Lan lấy muỗng múc canh đổ vào chén của bà Chín, giục - Ăn đi bác Chín!
Bà Chín như sựt tỉnh lua một miếng cơm, gật gật đầu khen:
- Ngon thiệt. Cháu giỏi lắm.
Kim Trâm gùi thằng Toàn trên lưng, đôi chân run rẩy bước vào ngõ xiêu quẹo như sợi bún, rồi ngã quỵ xuống sân. Mọi người vội chạy ùa ra sân.
Bà Hải khóc hét lên: “Con ơi! Con sao vậy?”, rồi ôm lấy thằng Toàn, đỡ lưng con gái dậy, nhưng Kim Trâm không gượng nổi. Ông Hải bế xốc con gái chạy vào nhà đặt nằm trên divan. Bà Chín chạy theo vào, khóc quêu quao:
- Trâm ơi! Con sao thế nầy? Còn thằng Tư đâu rồi, hở con?
Kim Trâm nghe tiếng mọi người mở to đôi mắt nhìn cố gượng dậy, nhưng không thể. Cả người chị mềm nhũn không nhúc nhích nổi; hơi thở yếu ớt, miệng cứng ngắt không nói được gì dầu gắng hết sức. Chị đang trong cơn bấn loạn, rã rời.
Bà Chín giục Kim Lan:
- Cháu chạy lấy cho bác thau nước ấm và cái khăn, pha cho chị ly sữa. Nhanh lên cháu.
Kim Lan “dạ” rồi chạy xuống nhà dưới lấy thau nước ấm và cái khăn nhỏ mang lên. Bà Chín nhúng khăn vào nước vò nhẹ, vắt cho ráo rồi lau nhẹ nhàng lên mặt, lên tay chân cho Kim Trâm. Kim Lan bưng một thau nước ấm nữa, đưa bà Hải lau cho Toàn. Hai ly sữa nóng đã được Kim Lan đặt sẵn trên bàn.
Ông Hải nói với Lan:
- Con xuống bắt nồi cháo loãng cho chị và cháu ăn thêm nhé!
- Dạ!
Kim Lan xuống bếp bắt nồi cháo.
Thằng Toàn bỗng khóc thét lên, khiến cả nhà mừng rỡ. Bà Hải sai Kim Lan chạy đi mua thêm hộp sữa mới cho cháu. Bà ôm Toàn đung đưa trên tay vỗ về mà nước mắt cứ chảy dài trên má nghẹn ngào. Bà biết con cháu bà vừa trải qua cơn hãi hùng, thoát được cái chết chờ chực trong gang tấc và trở về. Bà nghĩ, biết bao người trong dòng người đổ xô về lộ 7, đã nằm lại đâu đó ven rừng; Trâm và Toàn được mò về đến nhà là điều may mắn cho gia đình bà lắm rồi, không cần gì hơn nữa.
Kim Trâm nghe nước mát thấm dần vào người. Chiếc đầu chị nặng trịch như có ai đè xuống ghìm chặt. Nghe tiếng khóc của con trai, chị giật mình như vừa qua một cơn mộng dữ. Chị vùng ngồi dậy rồi ngã xuống lại, cố mở đôi mắt thật lớn, nhưng chỉ hé được một chút rồi nhắm chặt, môi mấp máy như muốn nói điều gì nhưng không ai nghe được. Bà Chín kiên nhẫn múc đổ từng muỗng sữa cho Trâm.
Ông Hải xuống bếp múc chén cháo loãng đem lên đổ cho con gái. Bấy giờ mọi người mới nhớ tới bé Uyên, không biết đã xảy ra chuyện gì mà bé Uyên không về cùng mẹ nó?. Ai cũng lo sợ nhưng không dám nói ra, chỉ biết chờ Kim Trâm khỏe dần lại. Ông Hải khuyên mọi người, “chuyện gì xảy ra, thì cũng đã xảy ra rồi, có lo lắng, sợ sệt thì cũng vậy thôi. Trước mắt lo cho Trâm và Toàn bình phục là điều cần làm nhất thôi”. Nói dứt câu ông Hải bước thẳng lên nhà trên, thắp ba cây nhang đứng trước bàn thờ ông bà lâm râm cầu nguyện.
Kim Trâm uống hết chén nước cháo nét mặt trông tươi tỉnh lại, soãi dài tay chân ngủ một giấc.
Nửa đêm Kim Trâm mới tỉnh dậy. Mọi người bu quanh giường chị chờ đợi. Chị vừa khóc vừa kể lại mẹ con chị đã chạy theo đoàn người di tản như thế nào, chị bị mất bé Uyên ra sao? Chị không nhớ ra vì sao Uyên lạc mất, ai đã đem con bé đi, hay nó tự bỏ chị đi, khi tưởng rằng chị đã chết? Còn anh Tư? Chị không biết tin anh như thế nào từ buổi sáng bỏ nhà ra đi? Anh có trong đoàn quân di tản không? Chị chỉ biết hai tuần trước anh có về nhà thăm mẹ con chị, rồi trở lại đơn vị vì có lệnh cấm trại; kể từ hôm ấy chị không liên lạc được với anh. Bà Hải ngồi bên Kim Trâm - chị ngã vào lòng mẹ khóc tức tưởi, nghẹn ngào. Cả nhà ai cũng khóc theo chị. Bà Hải, bà Chín - hai người mẹ của chị, dù đang đau đớn nhưng gắng gượng tìm lời an ủi cho chị nguôi ngoai:“Con ơi! Bé Uyên sẽ không sao đâu. Rồi mình sẽ tìm lại thôi, biết bao người cũng bị thất lạc giữa đường, con à!”.
Ai cũng tin tưởng, hy vọng sẽ tìm được bé Uyên.
Bà Hải quay sang bà Chín, giọng nhỏ nhẹ:
- Xin chị để cho mẹ con nó ở đây thời gian, khi nào khỏe hẳn sẽ về bên ấy nhé! Tui sẽ chăm sóc cho mẹ con nó thay chị thôi.
- Cảm ơn chị! Cứ để mẹ con nó ở đây, khi nào khỏe hẳn mới về trên tui cũng được. Tôi sẽ chạy qua, chạy về.
Mẹ con Kim Trâm được bà Hải chăm sóc rất kỹ từ việc ăn uống đến giấc ngủ, luôn được bà yêu thương, vỗ về nên đã bình phục nhanh chóng. Sự ân cần của bà Hải, lòng thương quý của bà Chín, đã như những liều thuốc bổ mầu nhiệm vực Trâm đứng dậy. Tuy vậy trong lòng chị vẫn nặng trĩu nỗi lo, nhớ thương bé Uyên, cùng người chồng không biết hiện trôi dạt ở phương trời nào?
Bà Chín đã đón mẹ con chị về nhà rồi giao hết năm sào ruộng cho chị làm, bà chỉ phụ giúp chị cơm nước và chăm cháu Toàn.
Cảm thấy sức khỏe, công việc nhà đã tạm ổn định, Kim Trâm gởi con cho bà Chín trở lại tỉnh lộ 7, dọc theo những nơi đã đi qua để tìm kiếm bé Uyên.
Nhìn những lùm cây cằn cỗi, có nơi bị cháy sém khô khốc, hoang dại hai bên đường, chị càng nhớ bé Uyên quay quắt. Có lúc chị cảm thấy mình không hít thở nổi, nghèn nghẹn trong cổ. Chị thầm thì “con đường còn trơ vơ, rõ ràng đây, mà Uyên của mẹ đâu rồi?”.
Chị lần vào thôn xóm thăm hỏi những người dân sống quanh vùng, nơi con gái chị biến mất; nhưng không có tin tức gì của bé Uyên. Cả ngày chị thơ thẩn như người mất hồn, quanh quẩn bến sông dò la tin tức; với niềm hy vọng mong manh, sẽ có người mách bảo cho chị bé Uyên hiện ở đâu?
Trong các bờ cây dọc con đường như còn rờn rợn mùi tanh của những xác chết nằm vắt vẻo hôm nào phảng phất. Chị bỗng rùng mình như thần chết còn quanh quất đâu đây muốn nuốt chửng chị, khiến chị nhanh chân đi vội về chỗ tảng đá dưới chân cầu, nơi lần cuối bé Uyên ở cùng chị. Chị ngồi xuống tảng đá gọi con “Uyên ơi! Con ở đâu? Về cùng mẹ đi con ơi!” rồi bật khóc nghẹn ngào.
Chị trở về nhà người bần thần cả mười ngày, nửa tháng mới nguôi ngoai được đôi chút; nhưng nỗi ám ảnh thương nhớ con luôn đau đáu trong lòng; chị luôn nghĩ sẽ trở lại tìm con, tìm mãi, tìm mãi khúc ruột đã lìa xa ngày nào.
Chị quần quật làm năm sào ruộng bà Chín giao cho và cắm cúi nhận may quần áo cho bà con trong xóm để kiếm thêm thu nhập, cũng để quên dần nỗi nhớ thương. Vải vóc khan hiếm nên chị chuyên sửa, vá quần áo cũ là chính, lâu lâu có đợt hợp tác xã bán vải cho bà con, mới có khách may đồ.
Bà Chín ngày càng già yếu, đôi mắt đã mờ vì ngày đêm khóc thương con trai không tin tức, cháu nội bị lạc mất không biết sống chết thế nào. Bà chỉ mong ước được nhìn con trai bà trở về rồi có chết cũng an lòng.
Buổi trưa bà thường ngồi trên chiếc chõng tre ngoài hiên ngoáy trầu nhìn chừng ra ngoài ngõ. Bà dõi mắt nhìn như bà đang trông đợi một người hẹn đến. Có lẽ bà đang hy vọng một ngày nào đó con trai bà sẽ từ ngoài ngõ bước vào.
Bà Chín bổng giật mình khi thấy thấp thoáng, lờ mờ bóng một người bước vào từ ngõ; bà mừng rỡ chồm đứng dậy, như con trai bà đang rảo bước trở về với bà. Đó là dáng bà Dư nhà đối diện cổng nhà bà đến chơi. Hai bà chơi thân nhau từ thời mới về đây làm dâu, san sẻ cho nhau từ củ khoai, chén chè. Biết bà Chín mắt mờ ít đi lại, nên bà Dư thường sang thăm chơi nói chuyện để bà Chín vui; vậy mà mỗi lần bà Dư đến là mỗi lần bà Chín ngỡ tưởng con trai trở về với bà.
Giọng bà Dư rổn rang khi vừa bước vào sân:
- Có tin tức gì của thằng Tư chưa chị Chín ơi? Chị biết thằng Điệp con ông Cử xóm Chùa không? Người ta đồn nó đã chết ở biển Tuy Hòa, vậy mà nó vừa báo tin về nhà là đang học tập tận đâu ngoài Bắc đó chị.
Bà Chín hướng đôi mắt nhìn ra ngõ, giọng xa xăm:
- Sao lại tận ngoài Bắc hở bà Dư? Hổng lẽ thằng Tư cũng… - đang nói, bỗng bà Chín giật mình nín thinh một lát, rồi chép miệng - mà có số hết bà Dư ơi! Con người sống chết đều có số hết, phải không?. Nếu thằng Tư còn sống chắc cũng bị bắt học tập ở đâu đó rồi, phải không bà Dư?
- Chắc là vậy. Dù sao thì học tập vẫn hơn, còn có ngày trở về phải không chị? Nay mai sẽ có tin nó cho mà coi. Chị đừng lo gì hết, tui tin là nó sẽ về mà. Nó hiền lành, dễ thương mà chị!
Bà Dư thường đến thăm chơi, nói chuyện với bà Chín một chút rồi về không ngồi lâu; vậy mà hôm nào bà Dư không đến, bà Chín cảm thấy thiếu thiếu, trống vắng buồn làm sao ấy. Có tin gì mới về cuộc di tản hay những ai bị bắt học tập ở đâu, bà vội đến thăm báo cho bà Chín hay liền, không để lâu trong bụng được. Có món gì ngon, bà Dư luôn múc mang sang cho bà Chín. Bà Chín cũng vậy, có gì ngon cũng ngóng chờ bà Dư đến để cùng ăn. Hai bà như hai chị em ruột thịt, dù một người sinh ra ở miền cao, một người ở miền biển.
Gần một năm sau, Kim Trâm nhận được thư chồng gởi về từ một trại cải tạo ở miền Nam xa xôi. Chị mừng rỡ vì biết tin chồng còn sống, nhưng lo lắng vì anh học tập tận trong miền Nam, đường sá xa xôi, đi lại khó khăn. Dù vậy chị quyết đi thăm anh, để nhìn thấy tận mắt anh còn tồn tại, còn hít thở; để niềm ước mơ thuở nào trong chị mãi xanh mầm - được sống cùng nhau giữa quê nhà thân yêu, không còn chiến tranh, chết chóc, hận thù.
Lần đầu đi thăm anh, chị sợ một mình thân gái đến một nơi xa lạ, chưa biết, nên nhờ cha đi cùng. Chị chuẩn bị mọi thứ đầy đủ. Một chồng bánh tráng, một thẩu đường đen chị chặt sẵn từng cục, một bịch bột ngũ cốc, thịt cá thưng riêm khô và không quên mua một bịch thuốc rê cho anh.
Cha con chị xuống xe ở ngã ba ông Đồn, lên xe lam đi vào Long Giao, Xuân Lộc như anh Tư đã chỉ dẫn trong thư. Hai bên đường đất rộng bạt ngàn, xanh xanh một màu trải dài với những rẫy bắp, sắn, đậu thẳng tắp. Tự nhiên chị ứa nước mắt, thương chồng đã lao lực ngày đêm cực khổ từ bấy lâu nay mà chị không hay biết. Chị nghĩ trong lòng, sẽ ráng làm thêm kiếm tiền đi thăm nuôi anh, cho anh có chút bồi dưỡng dù khó khăn, vất vả.
Gặp mặt được anh, chị mừng mừng, tủi tủi, nước mắt cứ chực trào ra, phải lâu thật lâu mới bình tĩnh nói chuyện được. Anh an ủi, dặn dò chị cố gắng nuôi dạy con, chăm sóc mẹ già thay anh. Chị nhìn sâu vào đôi mắt anh, thấy được bao điều yêu thương anh muốn nói mà không nói được bằng lời với chị.
Đi một chặng đường dài bốn, năm trăm cây số chỉ được gặp nhau hai, ba mươi phút rồi chia tay. Chị cố nén những giọt nước mắt chia tay anh, để anh thấy chị mạnh mẽ sống mà an lòng; nhưng chị không kềm chế được lâu, nước mắt cứ trào ra chảy dài trên má, nghẹn ngào; rồi bỗng khóc nức nở khi anh bước theo người cán bộ trở về trại. Đôi vai chị run lên mỗi lần trông thấy anh quay nhìn lại. Cả anh và chị, ai cũng muốn níu kéo giây phút chia tay đầy nước mắt này - đi được năm, mười bước anh quay nhìn lại rồi đi tiếp; đến khi gần khuất hẳn, anh đi lui quay mặt về phía chị, cho đến khi không còn nhìn thấy nhau được nữa.
Lần đi thăm tiếp theo, tiếp theo sau nữa luôn có cha chị đi cùng, bởi ông không muốn để con gái đi xa một mình trong nỗi buồn. Lần nào gặp anh, chị cũng khóc rồi dặn dò anh cố gắng giữ gìn sức khỏe, học tập rồi trở về với chị, cùng chị tìm kiếm con gái. Chị nghĩ, một mình chị tìm hoài không có, biết đâu có anh cùng tìm sẽ có tin về bé Uyên sớm hơn.
Ông Hải lâm trọng bệnh rồi qua đời. Chị mất đi người cha kính yêu luôn kề cận bên mình là mất đi chỗ dựa vững chắc. Đi thăm chồng lần này, anh đã chuyển đến trại Z30 A - Đồng Nai; chị một mình tay xách, tay mang lặn lội tìm đường thăm anh; chị nghĩ thương cha, nếu như có ông đi cùng luôn an ủi, nhắc nhở - không phải lo lắng, sợ sệt gì.
Chị xuống tàu ở ga Gia Ray lúc bốn giờ sáng, nằm ở nhà ga chờ trời sáng hẳn rồi mới hỏi thăm người dân ở đây đường lên trại cải tạo Z30 A. Sáng sớm chị đứng trước sân ga chờ những người đi chợ, đi rẫy ngang qua để hỏi thăm đường. Hai vợ chồng một nông dân vác cuốc lên rẫy ngang qua sân ga, chị vội chạy lại hỏi thăm, giọng chị nhẹ nhàng:
- Anh chị cho xin hỏi, đường lên trại cải tạo Z30 A đi lối nào, và có xa lắm không vậy?
Người vợ nhanh nhảu:
- Rẫy tôi làm gần trại, chị có đi lên đấy thì đi cùng chúng tôi. Chị đi thăm chồng hở?
Kim Trâm mừng rỡ:
- Dạ tôi đi thăm chồng. Cảm ơn anh chị nhiều lắm. Cho tôi đi cùng với, lần đầu tiên đến trại nên chưa biết đường sá gì.
Chị vội tay mang, tay xách đồ đạc đi theo vợ chồng người nông dân, rẽ vào một con đường nhỏ trước mặt sân ga. Người vợ tỏ vẻ thân thiện:
- Đây là con đường tắt, dân làm rẫy thường đi lối này gần hơn. Người ta đi thăm nuôi theo con đường lớn chạy thẳng đến trại trước cửa chợ đấy chị. Nhưng đường lớn hơi xa, hơn cả cây số ấy chứ.
Con đường đất rộng chừng hai mét, hai bên là những rẫy bắp mới lên xanh mượt. Một màu xanh trải dài, thẳng tắp, rẫy tiếp nối rẫy bạt ngàn. Người vợ thấy Kim Trâm xách nặng, liền nói:
- Đưa tôi xách giùm giỏ bánh tráng cho. Chị ở ngoài miền Trung hở?
- Dạ, tôi dân Phú Yên chị à! Xa xôi, mỗi lần đi thăm khổ quá chị ơi!
Người chồng góp chuyện:
- Chị đi bằng tàu lửa à? Tàu xe khan hiếm lại đông người đi, chắc gì có chỗ ngồi hở chị?
- Tôi đứng rần cả chân, đến ga Tháp Chàm mới có chỗ ngồi được một chút, nhờ đứng gần người mới xuống tàu.
Người vợ xuýt xoa:
- Trời đất. Chị đứng từ ngoài đó vô tới Tháp Chàm luôn đấy hở? Tội chị quá!
Kim Trâm thở dài:
- Biết sao được chị, người đông quá mà tàu xe thì ít, phải ráng mà đứng thôi.
Đến rẫy của hai vợ chồng người nông dân, người vợ đưa giỏ bánh tráng cho Kim Trâm rồi chỉ tay về phía trước, nói:
- Chị đi một chút nữa là gặp con đường lớn của trại, rẽ trái vô một đoạn nữa là tới trại Z30 A. Chị đi nhé!
Kim Trâm cảm ơn đôi vợ chồng người nông dân tốt bụng rồi đi tiếp.
Đến trại, chị trình giấy cho cán bộ trực rồi ngồi ở phòng chờ thăm nuôi như những người khác đợi chờ. Chờ thật lâu, khoảng chừng gần hết buổi sáng, (người tù đi làm trở về), một cán bộ đi trước dẫn những người tù phía sau, từ trong đi ra. Chị mừng rỡ đưa mắt tìm anh lòng hồi hộp chờ đợi. Anh bước vào phòng thăm nuôi đưa mắt nhìn quanh quất tìm kiếm chị. Chị đứng dậy chạy lại nắm tay anh đưa lại chỗ ngồi của mình, đôi mắt đỏ hoe.
Anh nhìn chị lòng dạt dào thương cảm:
- Cảm ơn em đã vì anh. Anh sẽ trở về dù mau hay lâu để yêu thương em và con, bù đắp lại những vất vả, khổ đau mà em đã phải chịu.
Nghe anh nói vậy chị vui và cảm động vô cùng. Đấy như là một lời hứa, một lời thề nguyền “sẽ trở về” rất cần thiết cho sự chờ đợi, hy vọng trong chị ngày đêm. Chị có ý giấu không cho anh biết cha chị đã chết, nhưng khi anh mở gói thuốc rê quấn một điếu hút, rồi chép miệng: “Thuốc kỳ này em mua lạt quá!”. Chị vô tình bảo: “chắc tại mắt hơi đó anh à”. Anh giật mình: “Mắc hơi gì?”. Chị bỗng òa khóc lớn khiến anh hoảng hốt: “Cha mất rồi hở em?”. Chị gật gật cái đầu, khóc ngất không nói thành lời được. Anh nghẹn ngào khóc theo chị, nhưng rồi anh gạt nước mắt an ủi chị: “Thôi nín đi em, cha ở trên cao sẽ phù hộ chúng ta, anh sẽ mau được tha về và sẽ tìm được con gái thôi”.
Chị cũng tin là vậy. Niềm tin sẽ tìm được con luôn vững chải trong chị. Chị nghĩ dù năm, mười hay bao nhiêu năm đi nữa, có niềm tin thì sẽ có ngày mình tìm được. Thế là chị gắng sống, làm việc nuôi con, chăm sóc mẹ già thay chồng và tìm kiếm bé Uyên. Mỗi năm cứ vào tháng ba là chị trở lại liên tỉnh lộ 7 thật đều đặn để tìm con, để ghi nhớ cái ngày đau thương nhất cuộc đời mình.
Hai vợ chồng chị Trâm, anh Tư ngồi nhìn nhau biết bao điều muốn nói, nhưng không nói được gì. Có lẽ lời “vô ngôn” là ý nghĩa lớn lao đối với cả hai, nên chỉ nói bằng mắt, bằng cái nhìn đau thương, chan chứa nỗi niềm. Sự im lặng trong nỗi cảm thông là lời nói chân thật, đầy dủ nhất.
Người cán bộ bước lại chỗ hai người nhắc nhở: “Đã hết giờ thăm nuôi”. Kim Trâm giật mình bàng hoàng, vội nói nhanh như không kịp thời gian để nói cho anh nghe lời mình muốn nói - một lời hứa, một lời dặn dò: “Em sẽ lo cho con, chăm sóc m, và tìm bé Uyên chờ anh về. Anh yên tâm học tập và trở về với mẹ con em, anh nhé!”. Anh cầm tay chị đưa lên môi hôn, rồi vội bước theo người cán bộ đang đứng chờ anh.
Chị nhìn theo bước chân anh ngập ngừng không muốn rời phía sau người cán bộ. Anh đi mươi, mười lăm bước quay đầu lại như những lần trước, rồi đi tiếp - cứ thế cho đến khi khuất hẳn.
Chị hít thật sâu rồi thở ra nhẹ nhàng nén cơn xúc động rồi thu xếp đồ đạc trở về. Ánh nắng gay gắt, hanh hao trải xuống núi đồi buồn bã theo những bước chân vội vã của chị trở lại con đường cũ như thúc giục chị nhanh hơn nữa cho kịp giờ tàu chạy.

  Trở lại chuyên mục của : Tiểu Nguyệt