Chân dung Tản Đà qua nét ký họa
của Trần Hoàng Thi

 
"Tài" và "Tật" Của Tản Đà Trong Mắt Bạn Bè Cùng Thời
Trần Hoàng Thi
 

Hôm nay Trần Hoàng Thi giới thiệu cùng bạn đọc một số những mẩu chuyện về "Tài" và "Tật" củaTản Đà khi ông còn sống, làm báo và làm thơ qua mắt bạn bè cùng thời với ông (tài liệu viết sưu tầm trên báo chí)
 
Trước hết, ta hãy thử nhận diện Tản Đà qua  bức chân dung được Vũ Bằng vẽ với ít nhiều nét hí họa: "Tóc ông cắt ngắn kiểu ăng-bốt nửa muối nửa tiêu, không để râu, nối lè nhè mà lại hơi cà lăm, không gầy mà cũng không mập quá, mới trông thì có vể khỏe mạnh, cổ ngắn, mắt hơi ngầu đục, đặc biệt nhất trong khuôn mặt ông là cái mũi dẹt, to, trông như một quả cà tô - mát chưa chín hẳn mà ai đã nghịch ngợm mà cắm vào hai má khá đầy, trên cặp môi mỏng so với mặt" (Tản Đà uống rượu cho tôi say đến bây giờ - văn học 1970). Khi còn là cậu học trò ở trường Hàng Vôi, Hàng Kèn Hà Nội. Vũ Bằng đã sùng bái Tản Đà đến nỗi: "Chiều nào, bất cứ bận việc gì, tôi cũng tà tà đi đến trước cửa nhà Thăng Long dán mũi vào cửa kính nhìn vào trong để xem ông Tản Đà vừa quạt cái hỏa lò con để trên giường vừa nhắm rượu một mình, Tôi sợ ông như một ông tiên..." đâu chỉ có Vũ Bằng, mà một con người có tiếng là cương cường  như Phan Khôi cũng bị "ngợp" trước Tản Đà ở lần đầu tiên gặp mặt. Đó là năm 1918, trên gác báo Nam Phong, khi được nghe vị khách mới tới chơi, là Nguyễn Khắc Hiếu, Phan Khôi lập tức: " như có điện chạy trong người, ghe rợn, vùng đứng dậy! Thật thế. Cái tên Nguyễn Khắc Hiếu bây giờ không phải vừa, đối với tôi bây giờ long trọng lắm. tôi nghe mà rùng rợn lên, có thế thật"(Tôi với Tản Đà thi sĩ -Tao Đàn, 1939). Chúng ta biết rằng từ khi Tản Đà cho in tác phẩm đầu tiên trên "Đông Dương tạp chí "(1915) tới năm (1927-1928), khối lượng sáng tác văn học lúc này thưa thớt, và một mình Tản Đà làm nên "cơn gió lạ" thổi suốt văn đàn trong Nam ngoài Bắc, tạo một tên tuổi, một uy vọng văn chương, đủ sức khiến kẻ khác phải kính ngưỡng. Tuy nhiên đó chỉ là ấn tượng "đầu tiên" ấy đa phần sự thể sẽ trở nên khác. Lưu Trọng Lư thú nhận: "Gặp Tản Đà một bận là điều khoái trá vô cùng, gặp ông lần thứ hai thì vẫn còn là một cái vui thích bắt đầu gượng gạo, và gặp đến lần thứ ba thì là một điều khó chịu, Và lần thứ tư, thứ năm...v. v.thì xin thú thực là một...tai nạn ". Vũ Bằng còn nói kỹ hơn về chuyện này (Tao Đàn, 1939: " Người như Tản Đà để ở xa mà kính trọng cảm phục thì được, Chứ ở gần thì không thể nào chịu nổi!...Bất cứ ở đâu ông cũng coi như chỗ không người, ăn uống bừa bãi nói lè nhè ầm ĩ, có khi đương yên lành chẳng làm sao bỗng đổi giọng gay gắt với người đối thoại, tuồng như ông là đấng trích tiên thật, thiên hạ ai cũng phải sợ ông..." Trong những trường hợp như vậy "đương sự" chỉ còn bấm bụng, tìm cách tự an ủi bằng một công thức xưa cũ: Kẻ có tài thường có tật!
Lưu Trong Lư cũng lý giải cho tâm lý tự an ủi trong bài báo: " Phải kể rằng mấy mươi năm ta mới có được một người như Nguyễn Khắc Hiếu, thì sự ngông cuồng của tiên sinh ta cũng phải coi như là một cái vinh dự và một cái nghĩa vụ mà chịu lấy".
Trong cung cách ăn uống đời thực của Tản Đà cũng để lại nhiều dấu ấn  kí ức của
nhiều người cùng thời có phần lạ đời của ông, hầu như ai cũng không thể bỏ qua một vài chi tiết về sự kỹ tính của Tản Đà khi ngồi vào mâm rượu, về thói khảnh ăn, về tài năng sáng tạo của ông trong việc chế biến đồ nhắm và cả sự vô địch về ngồi dai của ông nữa! Bản thân Tản Đà không ít lần tuyên ngôn về sự ăn uống, ví như:
Đồ ăn không ngon thời không ngon, giờ ăn không ngon thời không ngon, chỗ ngồi ăn không ngon thời không ngon, không được  người cùng ăn thời không ngon...", hay:"ăn là tất cả một nghệ thuật, mà  nghệ thuật ăn nhiều khi khó hơn nghệ thuật viết văn", Thậm chí, bàn về văn chương ông cũng cố tìm cách để "dây dưa" với chuyện ẩm thực “Văn chương có giống như mâm gỏi. Đĩa cá lạng. đĩa dấm ngọt thời người thường dễ ăn, còn miếng mắt, miếng xương phải đợi con nhà gỏi, Văn chương có giống như thịt chim. Xào, thuôn nướng chả thì dễ chín, hấp cách thủy lửa không đến mà nhừ hơn!". Trong cuốn "Uống rượu với Tản Đà" Trương Tửu đã không ngần ngại gọi ông là Epicurien, người tôn thờ chủ nghĩa khoái lạc, Epicurien trong thú ẩm thực này của Tản Đà có tác dụng như là một chất thử phản ứng  của người quan sát cùng thời mà có thể biết người đó la đồng chất hay dị chất với Tản Đà. Phan Khôi là một cực:  “cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà mất thì giờ lắm, tôi không chịu được nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hỏa lò để ở bàn và tự làm lấy món ăn, có khi mãn một tiệc ăn người nhà phải thay than trong hỏa lò đến năm sáu bận. Thường thường một mình ông vừa ăn uống lại vừa viết văn nữa. Ông cho thế mới là thú" (Tôi với Tản Đà Thi sĩ). cũng dễ hiểu thôi một người  xông xáo dấn thân nhiệt tình như ông Tú Khôi thì cái sự nhẩn nha ăn ăn uống uống của Tản Đà quả là nhiêu khê không thể "nuốt trôi"được (sự dị chất hai người lớn đến mức, đã có lần trên " An Nam tạp chí", Tản Đà đã lên tiếng chém Phan Khôi!). Cực bên kia, đồng chất với Tản Đà, có thể  kể tới các nhân vật tiêu biểu như Nguyễn Tuân hoặc Đinh Hùng - những người tôn thờ chủ nghĩa cá nhân “sống không giống ai và cũng để không ai giống mình”. Trong bài "Tản Đà Một kiếm khách" (Tao Đàn năm1939), đọc đoạn viết về Tản Đà một mình bơi ra tít ngoài khơi cửa biển Sầm Sơn, ngồi trên tảng đá sống trâu, dùng dao nhọn nạy những con hầu ăn sống, uống rượu giữa một vùng đỏ ối bóng tà dương, mới thấy văn Nguyễn Tuân khoái hoạt hào sảng biết chừng  nào. Tác giả của"Vang bóng một thời" đã nhìn ra ở bữa rượu này của Tản Đà có một cái gì đó độc sáng, vô tiền khoáng hậu, biểu hiện cái tôi khác thường, không thể lặp lại, và nó trở nên rất đỗi  quyến rũ với ông!
Nói về Tản Đà trong mắt người cùng thời, tất không thể  không nói tới Ngô Tất Tố, người đã cùng Tản Đà chung sức chèo lái con thuyền "An Nam tạp chí" qua bao phen sóng vùi gió dập, người đã cùng Tản Đà "Nam Tiến" khi đảm nhiệm phụ trách chuyên trang văn chương cho tờ "Đông Pháp thời báo" của Diệp Văn Kì Tại Sài Gòn (khoảng từ 1927 -1928). Vì gần gũi với Tản Đà, nên Ngô Tất Tố cũng là người không ít dịp phải điêu đứng "chịu trận" bởi sự bất thường của "ông thần ngông" Nguyễn Khắc Hiếu. (Bạn đọc không nên quên lần vào Sài Gòn viết cho báo của Diệp Văn Kỳ, Tản Đà đã mang theo cả vợ con, nhưng cả lúc vào lẫn lúc ra Tản Đà đều đi chỉ một mình, vợ con ông phó mặc một tay Ngô Tất Tố Thu xếp!)
Ông đầu xứ Tố đã có lần liệt kê hai "tội danh" của Tản Đà với vũ Bằng: 1:"Tản Đà có cái tật không ai chịu nổi: không có tiền thì rầu rĩ, oán trách, rũ người ra như con cú, thế mà một khi có tiền thì lại không muốn làm việc gì hết, chỉ uống và ăn, hết ăn lại uống. Chưa uống thì lại bảo không có rượu như cái máy không xăng nhớt không chạy được, uống vào say rồi thì nằm khoèo ra ngủ và lí luận một mình rằng say mà làm việc thì hỏi đời còn cái gì thú nữa?" Và 2,"Cái tội nặng nhất của Tản Đà là không biết sửa sai, không biết nghe lời anh em khuyên bảo. Cái số anh em thành thực khuyên ông rất hiếm, còn cái số nâng ông lên, sợ cái tài ông mà không dám làm mích lòng ông thì cả đống. Vì có nhiều kẻ nịnh ông một cách mù quáng như thế, ông bị hại mà không biết, mỗi ngày mỗi tự phụ thêm lên..." (Vũ Bằng người ghét Tản Đà. Văn, 1971).Bất bình  với Tản Đà  tới mức tuyệt giao trong suốt mười năm cuối đời của thi sĩ tửu đồ, thế nhưng khi Tản Đà qua đời trên chiếc giường nát ở cuối phố Cầu Mới (1939), Ngô Tất Tố Đã khóc, "khóc cho đất nước mất một thi tài, mà khóc luôn cái giống thi sĩ từ ngàn xưa đến ngày nay bao giờ cũng chỉ là một thứ người vì quá giàu cảm lụy mà khổ sở suốt cả một đời người cho đến chết" (Người ghét Tản Đà). Không chỉ một Ngô Tất Tố khóc Tản Đà. Ngay từ khi Tản Đà qua đời, giới làm văn,làm báo - trước hết ở Hà Nội, sau đó là cả nước - đã chuyển động rùng rùng như một cơn địa chấn. Hàng loạt tờ báo đăng cáo phó, viết bài tưởng niệm, thậm chí ra hẳn những số đặc biệt về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Điều đáng nói là trong số các tờ báo ấy, có không ít tờ trước khi Tản Đà mất không bao lâu đã nhắm ông như một đối tượng thú vị để tha hồ chế giễu, công kích  có tờ báo đã "bỏ đói" ông, theo nghĩa đen, bằng cách không dùng bài của ông. Một sự hối hận chăng? Có lẽ thế. Nhưng điều chắc chắn khi ấy, những người cùng thời với Tản Đà ai nấy đều cảm nhận có cái gì đó rất nghiêm trang đang diễn ra: Bậc thi bá trái tính, trái nết của làng thơ Việt Nam đã lìa trần!.
 

  Trở lại chuyên mục của : Trần Hoàng Thi