TRẦN HUIỀN ÂN
Ngôi Trường Của Mẹ
Cha mẹ tôi trải qua bảy tám năm xa quê. Nhiều người trong làng thường tỏ ra tự hào ở xứ ta có “ông Năm, bà Năm” từng đi khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh. Khi ra đi cha tôi là ông đồ nho, khi trở về là người khuyến học quốc ngữ. Và ủng hộ tích cực nhất cho sự vận động này, thực hiện bằng công việc cụ thể chính là mẹ tôi.
Hồi ấy, làng Vân Hòa của tôi có trường công liên hương tại ấp Phước Hậu, nhưng đất đai quá rộng, từ nhà tôi ở ấp Bình Trị và ấp Bình Điền lân cận đến Phước Hậu đi bộ mất nửa buổi, vì vậy đa số trẻ con hai ấp này không đi học được. Nhỏ tuổi thì không đủ sức đi, tìm nhà quen gởi trọ cũng bất tiện. Lớn lên một chút thì còn lo giúp đỡ công việc gia đình, chăn trâu, dọn vườn, bẻ thơm… Để giải quyết việc này, cha tôi xin phép mở một “gia đình học hiệu” và cất gian trường bên cạnh nhà. Tuy nói là gia đình học hiệu nhưng thực tế cha tôi tìm thầy mời về dạy chương trình lớp Năm và lớp Tư cho cả trẻ con hai ấp Bình Trị, Bình Điền. Tôi còn nhớ thầy Vưu người Tuy Hòa và thầy Liên người tận ngoài Quảng Bình. Mẹ tôi có một gánh hàng xén, mỗi tháng chín phiên bán ở Chợ Đồn. Mọi chi phí cất trường, đóng bàn ghế, bảng đen, mua sổ sách bút mực cho thầy, việc ăn ở của thầy tại nhà tôi đều do mẹ tôi lo liệu, trích từ lợi tức trong gánh hàng xén ấy. Giữa tháng mẹ tôi “kiểng” thầy số tiền lương.
Học sinh chẳng những được học miễn phí, không phải đóng góp một khoản nhỏ nào, còn được tổ chức sinh hoạt như trường công, có bầy đàn, ca hát, tập các trò chơi, tìm dấu đi đường… Mấy môn này thì trẻ con thôn quê dễ rành lắm. Thay vì công bố vị thứ hàng tháng mẹ tôi xin thầy công bố vị thứ hàng tuần vào mỗi chiều thứ bảy. Trò nào học giỏi được thưởng. Phần thưởng là giấy manh, thước gạch, bút chì, ngòi viết và mực viên… cũng do mẹ tôi cung cấp. Hồi ấy chưa có tập vở, học trò dùng giấy manh đóng vở, tự gạch dòng bút chì để chép bài, làm bài. Ngòi viết có nhiều loại, chúng tôi gọi theo hình dạng là ngòi viết lá tre, ngòi viết rông, ngòi viết bầu và ngòi viết ễn. Mực viên dùng hai màu xanh và tím, một loại giống như viên thuốc aspirine, một loại viên hơi tròn. Mấy trò thường xuyên được thưởng thì giấy bút mực dư học cả năm, khỏi phải mua. Học ở đây xong, đứa nào cha mẹ cho học tiếp thì ra Phước Hậu vào lớp Ba, đứa nào không có điều kiện phải ở nhà thì cũng ít nhiều đã biết đọc biết viết.
Tôi xem học trò học thì thích lắm. Có mấy trò ở Bình Điền lớn tuổi, đứng gần bằng thầy, dân làm ruộng đen thui và chắc nịch. Mấy trò con gái dân Xóm Chợ thì trắng trẻo ẻo lả… Nhưng tôi không muốn đi học. Cha mẹ tôi ban đầu gợi ý, sau bảo thẳng mấy lần tôi vẫn lặng im. Tôi còn nhỏ, mẹ tôi cũng không ép, nhưng sau này suy ra chắc mẹ tôi hơi thất vọng vì “khuyến học” thằng con trong nhà có phần khó khăn. Tôi rất thích loại kẹo bạc hà đựng trong ve thủy tinh hình giống như trái bầu, mỗi lần đi Dinh mẹ tôi mua về cho một vài ve. Mẹ tôi cũng mua sẵn cho tôi một bộ “giáo khoa thư” và nhiều lúc ngồi lật sách ra chỉ cho tôi những hình vẽ, giảng giải. Thành ra trước khi biết chữ tôi đã thuộc lòng câu: ”Sách này do Nha Học chánh Đông Pháp giao cho các ông Trần trọng Kim, Nguyễn văn Ngọc, Đặng đình Phúc và Đỗ Thận soạn. Nhà nước giữ bản quyền. Cấm không ai được in lại”. Mẹ tôi nói khi biết chữ tôi sẽ đọc được trong sách nhiều chuyện hay nữa. Bà Trưng bà Triệu cỡi voi, ông Đinh Bộ Lĩnh bẻ bông lau làm cờ đánh giặc… Tôi vẫn im lặng. Cho đến một hôm, ra đứng cửa sổ lớp học nhìn vào, nghe thầy giáo hỏi một trò khá lớn về một bài toán cộng, trò ấy không trả lời được. Câu hỏi gần giống như có lần mẹ tôi đã giảng cho tôi qua hình vẽ trong sách Toán pháp giáo khoa thư lớp Đồng ấu… Tôi nhớ mang mang như thế, và nhẩm tính nghĩ ra ngay, chõ miệng vào đáp. Đáp xong, vừa sợ thầy vừa mắc cỡ, vụt chạy về nhà. Trong bữa cơm trưa tôi sợ thầy Liên rầy thì trái lại được thầy khen thông minh. Mẹ tôi nhân đó nhắc lại có lần ông Tham Khang từ Dinh lên chơi đã “xem tướng” tôi, bảo: “Thằng nhỏ này đầu tròn, mũi cao, tốt, sẽ học thông minh đấy. Thế là sáng hôm sau tôi đi học”.
Học 24 chữ cái rồi vần xuôi, vần ngược, ráp vần, tập đọc… Vần xuôi nghe như cầu kinh, vần ngược nghe như thần chú. Khi biết đọc sách chỗ nào không hiểu tôi đem hỏi mẹ, được mẹ giảng giải rõ ràng. Bây giờ đã quên hết, chỉ còn nhớ hai chuyện. Chuyện thứ nhất, trong sách có hình vẽ một ông cỡi ngựa và nhiều người đang cuốc đất gánh đất hay làm gì đó, ghi là “Chánh tổng coi đê”. Con đường trước nhà tôi thỉnh thoảng có đồng bào dân tộc thiểu số cỡi voi đi qua. Voi, gọi là “ông bồ” tai to vòi dài… lạ lắm, cách ăn mặc của “thằng nài”, cái ống điếu, tiếng nói lơ lớ…cũng lạ lắm, vui lắm. Lúc ấy thường gọi chung đồng bào các dân tộc thiểu số là “người Đê” (Ê Đê). Mỗi lần như vậy lũ trẻ chúng tôi gọi nhau đi “coi Đê”. Tôi lấy làm lạ, tại sao ông Chánh tổng cũng đi “coi Đê” như lũ nhóc chúng tôi. Mẹ tôi mới giảng cho tôi biết về những con đê đắp bên sông, trong hình là ông Chánh tổng đang trông coi dân chúng đắp sửa đê. Chuyện thứ hai, khi đọc bài về “Trầu Cau” có câu :
“… người vợ chết hóa ra dây trầu không leo ở cây cau…”.
Rõ ràng trong hình vẽ dây trầu quấn vào cây cau sao lại nói dây trầu không leo ở cây cau? Mẹ tôi giảng cho biết, xứ mình gọi là dây trầu thì ngoài Bắc gọi là dây trầu không.
Trong một năm thầy Liên dạy tôi học hết chương trình lớp Đồng ấu và Dự bị để ra trường công liên hương học lớp Sơ đẳng (lớp Ba). Đầu năm 1945, chuẩn bị thi bằng Sơ học yếu lược mỗi trò được cấp một giấy căn cước, dưới có chữ ký quan Tuần vũ tỉnh Phú Yên Trần văn Lý. Chữ ký dài, đầy đủ và rõ ràng, gần chữ v (văn) có một chữ v khác bằng bút chì màu đỏ. Tôi nói với mẹ: Quan Tuần vũ ký sai phải sửa lại chữ v. Mẹ tôi giảng cho biết đó là chỗ một thầy thông thầy phán đã xem trước, thấy đúng, làm dấu để quan Tuần vũ ký chứ không phải sai và sửa.
Tôi nhớ mãi vì đây là lần cuối cùng chuyện trò cùng mẹ. Học lớp Ba tôi phải ở trọ, chủ nhật sau về thì mẹ tôi bệnh, rồi bệnh nặng và qua đời. Đau thương trùm lên gia đình tôi. Tiếp theo là những biến cố dồn dập của đất nước… Gia đình tôi rời khỏi làng Vân Hòa và xa cách mộ phần mẹ.
Bây giờ, mỗi khi hồi ức về mẹ, tâm tưởng tôi vẫn là tâm tưởng đứa trẻ lên bảy lên tám… Tôi tự hỏi: Bao nhiêu bạn bè thời thơ ấu ấy, nay ai còn ai mất, ai lưu lạc phương trời, ai đang ở làng quê, ai đã thành ông bà nội ngoại, kẻ giàu sang, người nghèo khó… giữa bao nhiêu bận rộn của cuộc sống, có lúc nào họ nhớ lại những ngày học tại “nghĩa thục” của mẹ tôi không? Có lúc nào họ nhớ lại hình ảnh mẹ tôi không? Tôi nghĩ rằng họ không phải là kẻ bạc !
Trần Huiền Ân