TRẦN HUYỀN ÂN

Trời Đất Trong Ca Dao

1.
CON NGƯỜI GIỮA TRỜI VÀ ĐẤT
 
       
Mở đầu đoạn Tự ngôn sách Việt Hán văn khảo, cụ Phan Kế Bính viết:
       
“Ta trông lên bầu trời, trăng sao vằng vặc, sông ngân hà lấp lánh, lúc cầu vồng mọc, khi đám mây bay, bóng dáng chiều hôm, cơn mưa buổi sớm, làm cho sướng mắt ta, gọi là văn chương của bầu trời. Ta nhìn xem dưới trái đất, ngọn núi kia cao chút vút, khúc sông nọ chảy quanh co, chỗ rừng rú, nơi hồ đầm, cây cổ thụ um thùm, đám cỏ hoa sặc sỡ, nào thành, nào quách, nào tháp, nào chùa, nào đám đồng điền cây cối tốt tươi, nào chỗ thị thành lâu đài san sát, làm cho vui mắt ta, gọi là văn chương của trái đất”. (1) Cụ lại kể đến “câu thơ đoạn phú, khúc hát điệu ca” gọi là “văn chương của loài người”. (1) Vậy thì những câu ca dao nói về trời đất chính là “văn chương của loài người” nói về “văn chương của bầu trời” và “văn chương của trái đất”.
       
Sở dĩ con người có thể đem văn chương của mình để diễn tả văn chương của trời đất vì giữa muôn loài thì con người là động vật có sự hiểu biết vượt trội hơn tất cả. Từ đó, con người ý thức được vị trí của mình, như cụ Huỳnh Thúc Kháng khẳng định trong Bài thơ lưu biệt (tương truyền cụ viết năm 1908 trước khi đi đày Côn Đảo): “Ư bách niên trung tu hữu ngã”. Vâng, trong cõi trăm năm này có ta, ta là chứng nhân trong một giai đoạn thời gian trước bao nhiêu biến thiên dưới bầu trời, trên trái đất.   
 
Con người, tin vào ngôi sao bản mệnh trên trời, nên sống một cách rất ung dung tự tại. Nhà văn Võ Phiến cho rằng:
               
Dưới trần đời sống do sao định        
Tính tuổi nhìn lên hỏi ý trời             
Tương lai ngó suốt trong như kín              
Mây khói êm êm các cuộc đời…(2)
       
Bằng cả thị giác lẫn tâm linh, con người nhìn thấy trời có khuôn mặt tròn và đỏ, có màu da xanh dịu, có lưng chứa đầy mây, có chân nối liền với núi với biển, có những góc riêng dành cho mỗi chủng tộc… và hiểu rằng trời là vị vua của tất cả các vị vua, trời có mắt nhìn thấu suốt, có ngọn đèn soi xét, trời ban phước hay giáng họa xuống trần gian, trời làm ra ngày đêm sáng tối nắng mưa gió bão. Trời quyết định hết thảy mọi vui buồn của kẻ dưới (gọi chung là thiên hạ) … Trời là đối tượng để bất cứ ai cũng có thể tỏ bày tâm sự, gặp điều bất như ý, gặp vận không may, con người cất tiếng kêu trời, than thở với trời…
 
Ông Lê Văn Siêu trong đặc san Văn xuất bản tại Sài Gòn năm 1967 có bài Đố ai vẽ được Ông Giời, ông viết Giời, không viết Trời và giải thích về sự khác nhau:
 
“Cái xu hướng thay chữ GIỜI (G.I) bằng chữ TRỜI (T.R) sao thấy có vẻ gì như là thiếu suy nghĩ vậy? Trong tiếng Pháp thì thật không hề thấy có người nào làm việc thay chữ Dieu bằng chữ Ciel cả. Thì Giời, đã được người mình hiểu là từ bao nhiêu nghìn năm nay là Dieu, là Ông Thiên, Ông Xanh,  là đấng Tối cao, toàn Năng, toàn Thiện, toàn Mỹ, toàn Chân, sao bây giờ mình lại nỡ để lẫn ý niệm ấy với một ý niệm về một vật hữu hình là Trời đối với đất, đối với biển, như Trời biển bao la, Trời cao đất dày… chẳng hạn.(3)
       
Chúng tôi không hẳn hoàn toàn nhất trí với ông Lê Văn Siêu, nhưng cũng không có gì phản đối, chân thành tôn trọng quan điểm của ông (Giời và Trời có khác) và nghĩ rằng: Thôi thì tiên sinh cứ gọi là Ông Giời, chúng tôi theo thói quen cứ gọi là Ông Trời, nhưng trong hai tiếng Ông Trời của chúng tôi bao gồm cả ý niệm tâm linh mầu nhiệm và ý niệm hữu hình của khoa học tự nhiên.
       
Có thể là không bao giờ gặp nhau nhưng trời và đất không phải là lưỡng cực tương phản. Đất cũng có những quyền uy tâm linh. Đất là tượng trưng của Xứ Sở Ông Bà. Đất là cõi về để lại gặp nhau, nhìn nhau có hổ thẹn hay không.
 
Con nguời, sống thân thiện với nhau và sống thân thiện với trời đất. Trời cao đất dày. Lên trời xuống đất. Đầu đội trời chân đạp đất, thiên phụ địa mẫu, trời là cha đất là mẹ. Khi ta sống trời che đất chở, trong nền tảng đạo đức chí công, khi ta già dần dần gần đất xa trời, khi ta chết là về với đất như con về trong lòng mẹ.
       
Làm một con người đứng giữa trời đất thật vô cùng khó khăn. Và cũng khó bề phân định, lý giải theo một tiêu chuẩn nào. Vậy hãy mượn những giây phút nhàn đàm, dùng những câu chuyện phiếm, thay cho chén rượu nồng, nhìn lên trời, nhìn xuống đất gọi là cùng vui bên nhau…
 

2.
NHÌN LÊN TRỜI
 
 
Hình ảnh “Trời” tự ngày xưa:
       
Mỗi con người, đố ai nhớ được lần đầu tiên nhìn thấy trời vào lúc nào. Hẳn là khi ấy còn quá bé nhỏ, không hình dung được cái khoảng xanh vô tận trong tầm mắt ấu nhi và chưa hình thành một ý niệm gì trong bộ óc non nớt.
       
Cũng không thể nào nhớ được lần đầu tiên nghe người lớn nói và nghĩ theo đó là trời tròn. Vâng, trời tròn thật, đỉnh cao nhất ngay trên đầu ta, rồi thật đều đặn, từ từ hạ xuống thấp dần, đến khi gặp ruộng đồng, núi non, biển đảo hay làng xóm, đó là chân trời. Thế nhưng chân trời tưởng là thật mà không thật, ta hăng hái đi đến nghĩ rằng chân trời liền với mặt đất, sẽ chống tay hay dựa lưng lên cái màu xanh ấy thanh thản nghỉ ngơi, tiếc rằng chân trời cứ lui lại và lui mãi.
       
Còn cái màu xanh gọi là da trời có thật hay không? Có khi nó được đồng hóa với mây để được gọi là mây xanh. Tận trên mây xanh là chỗ tột cùng. Mây xanh bao bọc lấy mây trắng, mây vàng, làm bức nền khổng lồ cho mây trắng mây vàng tạo nên bức tranh mỹ thuật:
 
Trên trời có đám mây xanh
Chính giữa mây trắng, chung quanh mây vàng…
       
Phía trong da trời, chín từng mây phủ, là thiên đường chăng? Ít nhất cũng là đất hứa, là ước mơ cho những sĩ từ mười năm đèn sách làm con cá quyết vượt vũ môn thành rồng:
             
Một mai con cá hóa long       
Chín từng mây phủ nằm trong da trời.
       
Trời và đất cách nhau một khoảng xa, cái vùng trống không ấy là lưng trời. Trong tầm mắt con người thì đó là nơi những cánh chim bay lượn, những con diều vẫy vùng theo gió ngân nga tiếng sáo.
       
Và quan trọng hơn cả, chỉ trừ ban đêm và những lúc mưa dầm gió bấc, ta luôn luôn nhìn thấy mặt trời. Thật ra chỉ trừ ban đêm còn lúc mưa dầm gió bấc có khi vẫn nhận ra mặt trời, chỗ ấy quang hơn chung quanh. Mà nếu không nhận ra thì ánh sáng dàn trải khắp nơi đủ chứng tỏ sự hiện diện của mặt trời.
       
Người xưa cho rằng mặt đất, nơi ta sống, đứng nguyên một chỗ. Mặt trời bắt đầu lên từ hướng đông, ấy là lúc mặt trời mọc, buổi trưa ở trên đỉnh là lúc mặt trời đứng bóng, mặt trời đi dần về phương tây rồi chìm khuất là mặt trời lặn. Giữa lúc mặt trời mọc và mặt trời đứng bóng là nửa buổi, giữa lúc mặt trời đứng bóng và mặt trời lặn là xế.
       
Chuyện xưa kể lại… Hồi đó có đến 10 mặt trời, cõi nhân gian suốt ngày nóng như lửa thiêu không sống nổi, mới rước một nhà thiện xạ đến, ông ta bắn rơi được 9 mặt trời, mặt trời thứ 10 sợ quá trốn biệt, bây giờ cõi nhân gian là một đêm dài u tối. Nhà vua (?) hỏi ý kiến hết thảy sinh linh, được biết chỉ có gà trống mới có thể gọi mặt trời trở lại, nhưng mặt trời trốn bên kia biển, mà gà trống không biết bơi. Vịt biết bơi thì vịt đang ấp trứng. Nhà vua liền nhờ gà mái ấp trứng thay vịt, vịt chở gà trống qua biển gọi mặt trời. Từ đó có giao hẹn, khi gần hết đêm gà trống gáy 3 lần, lần thứ nhất  nhắc nhở mặt trời chuẩn bị, lần thứ hai lên đường và lần thứ ba vừa sáng, mặt trời hiện diện. Để ban thưởng công lao của vịt, nhà vua ban cho một khăn choàng cố, vịt quấn vào, thích quá, vừa chạy vừa reo “đẹp…đẹp… đẹp…” và quên mất chuyện ấp trứng. Do đó gà mái lại tiếp tục ấp trứng và xảy ra cảnh “mẹ gà con vịt”.
       
Ban đêm, nhìn lên trời, nếu trăng tỏ sẽ thấy mặt trăng, những đám mây và vô số những ngôi sao. Mặt trăng khác với mặt trời ở chỗ ánh sáng có màu vàng nhạt, nhẹ nhàng, mát mẻ. Về hình dáng, trong chu kỳ một tháng mặt trăng trải qua nhiều thay đổi, nào trăng non, trăng lưỡi liềm, trăng tròn, trăng khuyết. Đêm trăng mờ hay không trăng thấy nhiều sao hơn, và có những đêm trời đất hoàn toàn tối tăm.
              
Trăng kia chớ tưởng mình cao              
Ba mươi mồng một trăng nào thấy đâu
       
Những ngôi sao, tùy theo mùa, có khi là dải ngân hà vắt ngang qua nền trời, sao bò cạp, sao vịt, có sao giữ nguyên vị trí như sao bắc đẩu trong chòm tiểu hùng tinh bên cạnh chòm đại hùng là sao bánh lái. Sao bắc đẩu cho ta định vị hướng bắc hay sao nam tào cho ta định vị hướng nam.
              
Trên trời có vịt có công           
Có sao bánh lái có sông ngân hà…
...                            
Có hôm rồi lại có mai              
Kìa ông sao vượt chờ ai giữa trời?
       
Đó chỉ là những gì khi nhìn lên trời ta thấy được bằng mắt. Về phương diện siêu hình, bằng tâm linh con người hiểu rằng trời là một đấng quyền uy tối thượng.
Quyền uy và đức độ của trời
       
Đúng như lời mời gọi có phần thách đố của ông Lê Văn Siêu, không ai vẽ được chân dung trời. Mặt trời không phải là mặt của ông trời, chân trời, lưng trời không phải là chân, lưng của ông trời. Gọi ông trời bằng các danh hiệu ngọc hoàng, thượng đế, là chuyện của văn chương chữ nghĩa, ông trời đội mũ mang hia, thiết triều, có bá quan văn võ chầu hầu, là chuyện của sân khấu, hát tuồng, cải lương, ca kịch, của các vở tấu hài, không có trong tâm thức dân gian. Đối với người phàm ông trời không có dung nhan, không có cả một hình tượng ảo, nhưng là bậc quyền uy vô hạn, sáng suốt, đức độ và rất gần gũi với  những kẻ nghèo khó, khốn cùng.
       
Trời bất tử, sống lâu, sống mãi, nên cũng có lúc bị người nào đó bất mãn một chuyện riêng tư thành bất kính, gọi là trời già. Cũng có người tuy chẳng phải bất kính nhưng xét theo công việc y như một công nhân theo khuôn mẫu đúc ra vật này vật nọ, gọi là hóa công, tạo hóa, thợ tạo, thậm chí mấy ông nhà nho còn gọi là trẻ tạo hóa hoặc là con tạo! Con tạo? (Không phải thằng tạo). Vậy trời thuộc loại “lưỡng tính”. Hóa ra các bậc cõi trên là thế. Quan Thế Âm Bồ Tát là một “thiện nam tử” mượn sự tướng của thế đạo để dẫn dắt nhân gian hướng thượng quay về chánh đạo.
       
Tác giả Lục súc tranh công viết:
              
Trời hóa sinh muôn vật           
Đất dong dưỡng mọi loài (4)
       
Ta thường nghe lời an ủi: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Hoặc ít nhất cũng là: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Những người phải trải qua cơn khổ sở ngặt nghèo, rồi có khi: “Trời thương khiến cho được giỏi giang, làm ăn no đủ”. Đôi bạn xa cách, mỗi người một phương, gặp nhau, yêu thương, xây dựng một gia đình hạnh phúc, ấy là nhờ duyên trời. Đến khi mãn kiếp làm người thì trời kêu. Có thể người trẻ đi trước người già, người mạnh khỏe đi trước người ốm yếu, bởi tại số mạng trời định: “Trời kêu ai nấy dạ!”
       
Trời nắm giữ kỷ cương cả vũ trụ, có lưới trời lồng lộng, không cho kẻ gian manh nào lọt tội, dẫu cho biết được đường trời để chạy cũng không thoát nổi. Tùy mức độ phạm pháp trời xử phạt, trời đày, trời hành, trời hại, nặng nữa thì trời đánh, quá nặng thì phạt đến quả báo kiếp sau. Phụ tá cho trời có Bắc Đẩu, Nam Tào, Thiên Lôi. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Tử Quang miêu tả cảnh hai ông đang ngồi đánh cờ thì : Bắc Đẩu ngồi quay mặt về nam, mặc áo trắng, dung mạo dữ tợn, giữ việc ghi sổ tử, Nam Tào ngồi quay mặt về bắc, mặc áo hồng, dung mạo rất đẹp, giữ việc ghi sổ sinh. Dư luận đàm tiếu rằng hai ông có ít nhất một lần nhận hối lộ sửa đổi sổ sinh sổ tử. (5). Thiên Lôi rất nổi tiếng trong dân gian, không ai không nghe danh, đó là là người thi hành án, tuyệt  đối phục tùng mệnh lệnh, trời chỉ đâu đánh đó. Ông này tính khí nóng nảy, đôi khi làm việc không đến nơi đến chốn. Gặp đứa tráo trở quá, gian manh quá, nó lừa cho ông đánh hụt để trời mang tiếng và nó thành ra “thứ trời đánh trật búa, đồ trời đánh không chết”.
       
Ngẫm nghĩ thấy làm trời không dễ. Quyền uy lớn thì trách nhiệm lớn. Trời có mắt sáng suốt, nhìn xa trông rộng. Trời còn có ngọn đèn để soi xét khắp nơi, trời không binh ai, không bỏ ai.
 
Trời còn phải gần dân và có tấm lòng nhân hậu bao dung. Cửa nhà quan sâu như biển, lính canh lớp lớp từ ngoài vào trong, đã khó vào mà vào rồi khó ra. Hầu môn nhất nhập thâm như hải nhớ nhau lắm cũng chỉ như ông Vũ Hoàng Chương nghiêng chân rốn biển mà xem lửa bùng. Cửa nhà trời không thế, giống như cửa chùa (ngày xưa) rộng mở, đến lũ trẻ con có thể dắt nhau:
       
Dung dăng dung dẻ       
Dắt trẻ đi chơi       
Đến cửa nhà trời…
 
Lòng nhân hậu của trời thấy rõ khi có kẻ gọi trời là thợ tạo, trẻ tạo… trời chẳng chấp nê gì. Khi sử dụng hình phạt thì trời đánh tránh bữa ăn, Thiên Lôi không được thi hành án khi phạm nhân đang ăn. Nghe nói hồi xưa có người bị tội tìm cách lách luật, thấy ông Thiên Lôi xuống là bưng chén cơm lên ăn, ngồi nhơi nhơi mãi. Thiên Lôi chờ không được, bỏ về, sau lại xuống, thấy phạm nhân vẫn ăn. Năm lầm bảy lượt như vậy, Thiên Lôi mỏi mệt, lặng lẽ… cho qua, mới có việc trời đánh hụt.
       
Những ai có lỗi mà biết phục thiện, lo tu tỉnh thì sau một thời gian trời ngó lại, có khi xóa án cho. Những ai đói rách lang thang, đêm nằm trên chiếu đất nơi đồng không mông quạnh, thì trời cũng đâu có hẹp hòi, dù thật cao xa, vẫn đưa màn trời cho đắp tạm.
 
Trời rất giàu có. Của trời là kho vô tận. Trời cho ai thì người ấy hưởng. Có khi do tu nhân tích đức mà được, có khi tự nhiên thấy thích thì trời cho, có khi phải van xin. Người ta tin tưởng trời không phụ kẻ có nhân, trời không đóng cửa ai. Một vài trường hợp trời có biểu lộ hơi… nhỏ nhen một chút. Cho rồi lấy lại, chẳng ai dám cãi, dám chống:
       
Của trời trời lại lấy đi       
Giương đôi mắt ếch làm chi được trời! (6)
 
Trời cũng biết hưởng thụ chứ! Đâu chỉ “Trời đất hương hoa, người ta cơm rượu”. Lệ tế ở đền Xã đền Tắc phải là vua đứng tế và phải dâng đủ tam sinh. Làm trời khó quá, đồng thời sướng quá. Thiên hạ vẫn nói: “Sướng như trời”. Trời sướng thì con trời cũng sướng: “Sướng như ông trời con”.
Những hiện tượng thiên nhiên
       
Trời sinh ra thời tiết bốn mùa ấm lạnh, sinh ra nắng mưa sương gió, tạo thành những vùng khí hậu khác nhau. Con người và vạn vật nương theo đó mà định cư hay di trú, bố trí cuộc sống tạo thành nếp bình ổn. Con người mong sao nắng mưa gió vừa phải để thuận tiện việc cấy cày:
              
Ơn trời mưa nắng phải thì              
Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu              
Công lênh chăng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng
       
Hay ít nhất cũng được thảnh thơi thoải mái:
              
Lạy trời đừng nắng đừng mưa              
Râm râm gió mát cho vừa lòng tôi
       
Gió thuận mưa hòa cũng là thời điểm trời ngó lại với kẻ sa cơ lạc bước:
              
Phượng hoàng đậu chốn cheo leo              
Sa cơ thất thế phải theo đàn gà              
Bao giờ gió thuận mưa hòa             
Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng
 
Tuy biết rằng nắng mưa cũng đem lại không ít vất vả gian lao:
              
Nắng mưa sương tuyết bấy chầy          
Cho đau lòng cuốc cho gầy mình ve
...
              
Thương anh dãi nắng dầu mưa              
Hết khơi ruộng thấp cày bừa ruộng cao
       
Người ta chấp nhận đó là sự đương nhiên của lòng trời cũng như lòng người:
              
Mai mưa trưa nắng chiều nồm              
Trời còn luân chuyển huống mồm thế gian
 
Những hiện tượng này xảy ra trên bầu trời và cả trên mặt đất, mặt biển, tùy mức độ gia tăng đã tạo ra hạn hán, lũ lụt, sấm chớp, sóng thần, dông bão, động đất… con người gọi là thiên tai. Trước các cơn cuồng nộ của trời vạn vật từ con người đến các loài động vật lớn nhỏ, những cây cổ thụ, những cộng cỏ non thảy thảy đều kinh hãi, run sợ, khép nép, đau khổ và chết chóc.
 
Nhiều khi núi non sạt lở, sông suối đổi dòng, cửa biển lấp chỗ này xé chỗ kia. Sách vở gọi đó là những cuộc tang thương (ruộng dâu biến thành biển xanh và ngược lại). Trên bình diện xã hội cũng từng có các cuộc tang thương, mọi trật tự thế gian đều đảo lộn!
       
Trời làm một trận lăng nhăng       
Ông hóa ra thằng thằng hóa ra ông
Gia đình của trời
 
Họ hàng của trời xem ra cũng ít lắm! Không nghe nói có bác chú cô dì. Chỉ có một ông cậu là con cóc, hình dáng xấu xí (đó là theo quan niệm thẩm mỹ đã thành nếp của riêng chúng tôi, hỏi lấy tiêu chuẩn nào phân định đẹp/xấu để khen chê thì xin chịu), quanh năm ngồi trong hang trong hóc, thỉnh thoảng mới nhảy ra, thế nhưng mở miệng ra kêu là động lòng trời  ngay trong khi tiếng kêu từ bạn đồng lớp của nó là ếch chẳng có giá trị:
              
Cóc kêu một tiếng thấu trời      
Ếch kêu ì oạp mấy đời hơn ai!
 
Một số tư liệu nói rằng trời có hai cô con gái (hoặc cháu gái) là Chức Nữ và Hằng Nga. Chức Nữ được nói nhiều về sự liên hệ với cha hơn. Cô ấy lấy một chú mục đồng rồi mải mê yêu đương bỏ quên canh cửi bị trời đày mỗi người phải sống một bên sông Ngân Hà, hàng năm chỉ một lần gặp mặt. Điều này chứng tỏ tính nghiêm minh của trời, dẫu là con gái cưng khi phạm lỗi vẫn cứ  phạt, chẳng bao che, chẳng nương tay.
 
Không nghe nói trời có con trai. Mấy chàng uống rượu khi đã xỉn xỉn hát nghêu ngao:
       
Hiu hiu gió thổi đầu non       
Mấy thằng uống rượu là con ông trời
 
Đó chỉ là rượu nói. Không đáng tin chút nào. Mấy ông vua Tàu ngày trước tự xưng là thiên tử (con trời) triều đình của họ là thiên triều, bốn bên đều là Hồ, Phiên, Nhung, Địch thấp kém. Xin nhờ ông Lê Văn Siêu – nhà văn và nhà nghiên cứu lịch sử, văn học Miền Nam trước năm 1975 - cho ý kiến về việc này:
 
“Mấy anh vua Tầu khoe mình là con Giời thì chả qua là khoác lác láo và nhận vơ mà thôi. Hoặc giả ông Giời Tầu nhà họ như thế thì biết đâu được? Cho nên khi có những kẻ hống hách và bắng nhắng hão, ta thấy người ta nói: làm như ông Giời con ấy! Tỏ rằng người Việt Nam cổ không ngửi được các thứ Thiên Tử Tầu đâu! Và nước Việt Nam bị trong vòng đô hộ của Tầu hơn một ngàn năm mà vẫn thoát ra để nghênh ngang riêng mình một cõi được, chỉ là nhờ ở cái tinh thần kỳ lạ trên đời đây thôi”. (7)
 
Ôi, con trai của trời chỉ là những thằng uống rượu (theo ca dao) và những kẻ hống hách và bắng nhắng hão (như ý kiến ông Lê Văn Siêu) sao? Bởi vậy trời cứ làm trời mãi, không truyền ngôi cho ai, trời mà truyền ngôi là chết hết muôn loài!
 
Trời luôn luôn là đấng toàn năng vĩnh cửu. Vì, không có trời ai ở với ai?
 
Trăng và Sao:
       
Cách gọi thông thường là mặt trăng. Một mặt đơn giản vì trong ngôn ngữ trăng không hàm ý bao trùm tất cả như trời, một vầng trăng là đủ, không có chân trăng, lưng trăng… Nhưng một mặt trăng có nhiều tên hơn trời. Ngoài cái tên nguyệt đã dược Việt hóa (cũng như thiên trời địa đất) còn những Hằng Nga và thỏ ngọc sống trong cung Quảng Hàn vân vân. Những chuyện xưa tích cũ trong dân gian có nhiều khi na ná giống chuyện Tàu, mọi người cứ kể, cứ nghe, cứ hiểu nhưng không quan tâm mấy đến phần điển tích bác học. Trời đã già. Trăng cũng đã già, dù không ai biết trăng bao nhiêu tuổi:
              
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?              
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?
       
Khác với trời là có trăng non (không có trời non):              
Chàu rày đã có trăng non              
Để anh lên xuống có con em bồng
       
Trăng cũng lưỡng tính như trời, khi là ả, khi là con, khi là ông.
              
Nhất cao có một ả trăng              
Đến khi trụt xuống cũng bằng ngọn tre
...
Đợi chờ đã mấy con trăng              
Thề xưa ai nhớ ai rằng đã quên!
...
Đứng xa hỏi với ông trăng              
Duyên chàng nợ thiếp bén chăng hay lìa?
       
Nhưng trăng nghiêng về nữ tính hơn, vì vậy cũng mang nhiều điều tiếng hơn. Một câu hỏi thẳng tuy có hơi sỗ sàng:
              
Trăng rằng trăng chẳng nguyệt hoa              
Sao trăng chứa Cuội trong nhà hỡi Trăng?
       
Đã là trăng, đương nhiên có chuyện nguyệt hoa rồi. Nên thơ biết bao nhiêu, trước cảnh:
              
Vì mây cho núi lên trời              
Vì cơn gió thoảng hoa cười với trăng
...              
Ra về dặn nguyệt thề hoa              
Hoa cười nguyệt tỏ tình ta càng nồng
       
Trăng là một hình tượng đẹp, dù trăng thanh, trăng tròn hay trăng khuyết. Cho nên khi yêu nhau người ta mặt trăng làm chứng cho lời thề chung thủy chứ không mượn mặt trời. Chưa có trăng thì phải đợi chờ, gác mái chèo lên và neo con thuyền lại:
              
Em về sao được mà về              
Mái chèo chưa ráo trăng thề chưa soi
       
Những đêm không trăng người ta phải dùng đèn. Bởi vậy nảy sinh ra sự cạnh tranh giữa trăng và đèn, sự cạnh tranh không đáng có, dù sao trăng cũng là một thành phần trong vũ trụ, là vệ tinh của địa cầu, còn đèn chỉ là vật dụng nhỏ trong bao nhiêu phương tiện của con người:
              
Đèn khoe đen tỏ hơn trăng              
Đèn ra giữa gió còn chăng hỡi đèn?              
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn              
Sao trăng lại phải chịu luồn đám mây?
       
Điều so sánh này hoàn toàn khập khiễng, mỗi bên có sở trường sở đoản khác nhau, và tác dụng được phát huy tối đa trong một phạm vi không gian khác nhau, với điều kiện khách quan khác nhau.
       
Mặt trời, mặt trăng, trái đất chỉ có một, sao thì hằng hà sa số:
              
Đố anh đếm hết sao trời              
Để em kết tóc ở đời với anh
       
Người ta biết về sao rất ít, chỉ là một phần trong ức triệu. Người ta chỉ chú ý đến những ngôi sao, chòm sao xác định phương hướng, hay dự báo thời tiết để theo đó sắp xếp công việc làm nông, đi biển, bày tỏ sự vui mừng hoặc lo lắng đối trước những hiện tượng thiên nhiên nhìn thấy và mượn những ngôi sao cho lời tỏ tình rồi làm chứng cho cuộc tình. Ca dao thường nhắc đi nhắc lại những sao hôm, sao mai, nam tào, bắc đầu, thần nông, sao sâm, sao thương, bờ sông ngân hà với công múa, vịt lội…
       
Sao ở xa quá, không sáng bằng trăng, nhưng cũng đủ soi rọi phần nào. Đêm đêm ngồi ngoài sân, thường nhìn thấy một lằn sáng xẹt qua rồi tắt mất, có khi dài, khi ngắn, đó là sao băng. Có người tin rằng vào lúc đó ta có ngay một điều ước nói lên với không gian cao rộng thì sẽ được trời xanh đáp ứng. Tất nhiên phải là một điều ước nhỏ, có phần lãng mạn, tình tứ vui tươi, yêu thương thân mật chứ không phải là điều ước vụ lợi chuyện cửa nhà giàu có.
 
Người ta sợ nhất là khi sao chổi xuất hiện. Dân gian nhìn xem đuôi sao chổi chỉ về hướng nào, rồi quay về hướng nào. Những vùng đất nằm trong tầm quét của nó sẽ bị mưa bão, nắng hạn, lũ lụt, cảnh đói khổ chết chóc sợ khó bề tránh khỏi…   
 
(Còn tiếp...)  
  Trở lại chuyên mục của : Trần Huiền Ân