TỪ SÂM
BẠO VÔ
Bão quê mình mình gọi là bạo, bão tới tức là bạo vô.
Hồi nhỏ, mình chứng kiến bạo năm 1967 mà nghĩ tới là “tởn đến tra, đa nổi sảy”. Làng Nguyệt, lụt không sợ mà sợ bạo. Hồi đó cũng có dự báo thời tiết của Nha khí tượng. Cả làng chỉ có một cái đài Hungary ở nhà o Biệu có 4 chân to như cái chạn, bóng điện tử đỏ lòm như cục than, con nít tưởng có người núp trong đó nói ra nhưng nhìn vô không thấy.
Nha khí tượng dự báo lúc trật lúc trúng. Hồi sinh viên có môn khí tượng thủy văn, mình vừa dốt vừa lười nhưng biết sơ về dự báo. Mỗi đài một dự báo theo đầu vào của các trạm khí tượng thủy văn báo về. Trạm thì thưa thớt, nhân viên trạm đo bằng mắt, bằng tay, theo cảm nhận là chính. Ngày nay, có vệ tinh từ trên cao ngó xuống nên dự báo ngày càng chính xác để cho thiên hạ biết. Hồi đó, nhà mình ba gian hai chái, ngói liếp (ngói mi cang), thượng chua, hạ gõ, có tra (gác), lụt vô có khoai khô, nép vườn có hàng chuối làm bối nên nỏ sợ. Trước khi bão đến, mây ráng đỏ, trời im gió, sếu, cò, vịt trời bay từng đàn, kêu thất thanh. Cấp trên có lệnh về, đội trưởng loa tay “a lô, a lô, bạo vô, bạo vô, bà con chuẩn bị chôống dà chôống cựa, cho trâu lên Rào Đá, Rào Trù”.
Nhà ni chặt tre, nhà tê chẻ lạt. Nhà có khu đị tức tam giác ở góc hai mái, buộc nhau như buộc bánh chưng, ràng nhau như ràng bánh tét. Xong nhà đến chuồng trâu, chuồng heo, cả chuồng gà nữa. Con nít tưng tưng trong bụng, vô lo, chờ bạo vô coi ra răng.
Khuya, gió dần to, tinh mơ bạo tới. Người có nhà ngói sơ tán qua nhà tranh. Nhà tui chạy qua nhà ông Liềng (nhà anh Siêng bây giờ), con nít núp bên cót đựng lúa, hay núp dưới gầm giường, gầm bàn. Gió xoe xóe, rít từng cơn như trời hút thuốc lào. Mặt đứa mô cũng tái nhợt, hai tay bịt tai, chui vô gầm giường như đà điểu chui cát, lò ra cái khu (mông).
Nhà tui ngói liếp, gặp bạo là nhược điểm lộ ra, gió thò tay vô cạy được một viên là lật tung cả mái. Sau tiếng rít là tiếng rơi loảng xoảng. Ngói tụt dần, từng viên níu kéo nhau bằng khớp ở giữa nhưng bất lực, tiếng rẹc rẹc dài như dao cứa rồi rơi xuống hiên sau nổ choang như pháo.
Khoảng mấy tiếng sau, gió nhẹ dần là mưa nặng hạt. Nhà ngả nghiêng, mấy nhà lợp tranh mái xơ như tóc mấy o thành thị mới sấy xong. Cây rơm gục đổ, bờ tre nghiêng ngã, xác xơ như đàn ông say rượu. Nạp chuối gãy rạp, tàu lá bị xé nát như đàn bà sau cuộc đánh ghen. Trái trên cây, lá trên cành rụng tràn mặt đất. Nhà mình hoang tàn như sau trận bom phá. Ngói dồn về từng cụm đè lên nhau thành đống. Mái bóc từng mảng, rui mè cong queo lòi ra xương sườn, cột kèo như xương cù lẳng. Từng mảng trời to bằng cái nôống, cái nẻn, lỗ chỗ dần sàng.
Mưa nhạt nhòa, mắt thẩn thờ, nhà ướt, thóc ướt, áo ướt, mền ướt, bếp lạnh tanh, sách tả tơi, vở nhòe nhoẹt chữ. Bố mình nhặt từng viên ngói vỡ như nhặt từng mảnh trái tim tan nát. Ngoài kia, nước dâng trắng đồng. Lấy gì để che mưa che nắng. Rồi tiền sách, tiền gạo, tiền học cho con đang tuổi đến trường. Ông như que củi ướt, như cành cây gãy ngang sau bão. Đói và rét bắt đầu phủ lên làng Nguyệt.
Phải hơn cả tháng mới khắc phục hậu quả. Làng như miếng áo rách chằng chịt miếng vá khi mùa đông tới. Nhìn các ngôi nhà nửa ngói nửa tranh như thợ cắt tóc tạo bậc trên đầu, như ruộng bậc thang. Nhìn các lớp tranh, ngói khác nhau, các màu khác nhau như vệt vôi đè lên bức tranh loang lỗ, dễ nhận biết đã nếm trải mấy mùa bão giông. Qua bao thế hệ, miền trung bão vẫn thế, lụt vẫn thế nhưng chúng ngày càng hung hãn hơn vì phá rừng, ngăn sông.
Miền Trung, người dân được tích lũy những ngón gia truyền sẵn sàng nghênh chiến với giặc trời truyền kiếp.