TỪ SÂM
CẮT CỎ CUỐI NĂM
Làng Nguyệt những năm 1970.
Năm tôi 15 tuổi, ông Dù, đội phó bảo, buổi trưa và chiều “cân cỏ” là được chấm thêm vài điểm. Công việc đơn giản, cân lên, ghi tên người, bao nhiêu kí lô vào sổ. Tôi nhân lời, đó là lần đầu tiên trong đời tôi làm thêm ngoài giờ.
Cắt cỏ, làng Nguyệt gọi là bứt cỏ. Cận tết, mùa gió lanh, có se sắt, úa vàng. Trâu rẽ xương sườn, rận bám đầy lông, cá chết nổi trắng Kiệt. Gieo mạ trước khi mùa cấy bắt đầu gần một tháng. Sau gieo mạ đến cắt cỏ. Người cắt, bỏ cỏ vào 2 đầu triêng, một triêng có 4 sợi mây (tức 4 tao), kết lại để luồn đòn triêng gánh trên vai. Họ cắt cỏ vào buổi sáng khi cỏ ngậm sương, ướt đẫm, cỏ về khoảng 10h30 trưa. Tôi cân xong, ghi sổ. Họ đổ cỏ vào kho hơn chục mét vuống, kho lợp mái rạ có cửa bằng tre xung quanh trống hoác. Kho nằm ở trước nhà ông Khiết (ông Khổn), lối đi (trôổng) xuống nhà cậu Dự nhà chị Lước ngày nay. Trâu đi cày được nhận cỏ theo tiêu chuẩn của đội.
Hầu hết là những người đàn bà cắt cỏ, có người chồng mất vì bệnh tật, vì chiến tranh vì đau ốm hoặc thoát ly. Buổi sáng họ nhịn đói đi làm. Đó là những người đàn bà xóm tôi như mự Gới, mự Ba, o Rí, o Lới, o Niệc, mự Dũn, mự Diệp, mự Ía, mự Thuận, mự Dến, mự Thiết, dì Niệu, mự Dinh, mự Gốm, mự Chuyết, dì Khể, mự Thịnh, o Biệu, mự Khần, chị Thảy, mự Duể, mự Chuyết, mự Diễn, mự Dù, mự Tri, mự Ánh, mự Khần, mự Siềm, o Rên, mự Nẩm, mự Điểu, mự Nượng, chị Vế vv...
Mỗi lần họ cân cỏ, công điểm cũng chỉ đủ vài nắm gạo trong nồi cháo nấu suông. Buổi sáng cắt cỏ, chiều họ phải xuống ruộng cấy. Chân trần, áo mỏng, lom khom trong gió mùa bấc rét thấu xương. Mùa này nước trắng đồng, bóng người chấm tròn như bóng cò lặn lội đến chiều 30 tết mới cấy xong.
Những người còn sống tuổi cũng đã 90 mắt mờ chân chậm, nhiều người đã mất. Một thời đội trưởng, đội phó mấy chục năm mẫn cán như ông Chuyết, ông Dù bây giờ chỉ trong huyền thoại.
Làng Nguyệt một thời, nhớ khi tết đến xuân về.