TỪ SÂM

 
CHÉN CƠM THẠCH SANH
 
Tôi binh nhì, đơn vị đóng quân ở thôn Lai Thị xã Tân Dân, huyện An Thụy, Hải Phòng. Tôi trọ nhà bá Quýnh.
Ở đó, gọi bác là bá. Tên vợ gọi theo tên chồng. Gọi bá Quýnh là thế.
 
Năm 1975 là năm đói kém. Nhà bá 6 miệng ăn. Cả nhà thương tôi dân miền trung tuổi thơ đói khổ.
Thường, sau 9 giờ đêm tôi sinh hoạt đơn vị về. Nhà đã ngủ. Bá gọi vô bếp, vặn nhỏ ngọn đèn hạt đỗ, lấy trong chạn một bát cơm đầy có con cá thường là cá giếc kho. Hôm thì bát cháo gạo tươi, nhà ăn gì có cái đó như là cơm Thạch Sanh vậy.
 
Đơn vị tôi chuyển xuống thị xã Kiến An bá nhắn về. Mắc việc, hai hôm sau tôi mới về. Cả nhà bá về ngoại. Quang, em út ở lại, nói “Bu (mẹ) em để phần anh trong chạn”. Một đĩa xôi nắm, một đùi gà góc tư đã… lên men. Hai ngày trước nhà có giỗ, tôi đoán thế. Bỏ đùi gà và đĩa xôi vào bụi tre góc vườn, tôi tiếc ngẫn ngơ.
Bá lại nhắn, tôi lại về. Khi tôi xuất ngũ vào Nha Trang, tôi hẹn ngày trở lại.
Nhớ Hải Phòng. Nhưng đường xa lại càng xa, cái khó bó đôi chân…dừng lại. Chỉ nỗi nhớ ngày một đầy thêm. Lời hẹn ngày về chỉ là…lời hẹn.
 
Hơn 30 năm sau mới trở lại. Vào nhà bá mà tôi không cần hỏi ai. Dù đường làng ngõ xóm thay đổi nhưng cái giếng còn đó, cây nhãn còn đó, nó vẫn vị trí xưa. Nó là cái mốc, như mốc biên giới, có ai dời đi đâu mà lạc.
Tôi vào buồng trong như người nhà. Bé Mộng đang nằm ngủ. Hồi đó em 12 tuổi. Nay tóc đã hoa râm. Em ngơ ngác hỏi “anh Sầm phải không”. Em nhận ra, tôi mừng lắm. Ruộng không có, em đi làm thuê trên phố tháng vài triệu. Em Quang, bé út lên 8 lớp nay tóc đã đốm sương. Em cũng đi làm thuê ngày có việc ngày không.
Hồi đó, thường vào tối thứ bảy tôi đàn cho các em nghe và giải thích “giải phóng miền Nam, các em sẽ được sung sướng muôn phần…”. Tôi không dám nhắc chuyện cũ, thời thế khác rồi. Nhà mới, con người vẫn cũ, nhà chỉ thay lớp sơn ngoài và người thay cái áo, thêm tuổi mà thôi. Góc sân, mùi rơm vung vãi sau mùa gặt. Bá lưng còng vẫn dọn vườn, cây mít bồng bế những đứa con khẳng khiu còi cọc, nhãn đang độ ra hoa, mấy gốc chè xanh đang nẩy búp. Góc bếp còn nguyên vẹn. Chạn tre cũ được thay bằng nhựa mới. Tôi hỏi "Bá còn nhớ con không". Bá trả lời, " Nhớ chứ, chú hứa về Lai Thị mà". "Bá có nhớ bá để phần cơm cho con không". Bá lặng im…
Chị Xuyến giải thích “khoảng mấy năm lại đây gặp ai bu cũng nhớ. Còn bu giúp ai, cho ai cái gì bu thường quên”.
 
Ngày trôi qua như Hải Phòng chớp mắt.
Một khuya. Chị Bốn, người bà con nhắn tin “bá Quýnh mất rồi. Trước khi mất không biết sao lại nhớ hết. Có nhắc tên cậu nhắc đến mấy lần, bá còn nhắc để cơm cho cậu”. Như cây già bật rễ, bóng mát cũng theo đi, để lại khoảng tình thâm trống vắng.
Tôi nhớ về tuổi xuân và kỉ niệm. Về tình người và khổ đau. Về hạnh phúc và món nợ đời chưa trả.

 
  Trở lại chuyên mục của : Từ Sâm