TỪ SÂM

CHỢ CÔỘC VÀ NẠP RẤY
 

Cách đây khá lâu tôi có viết bài về “chợ Côộc” tức chợ Cổ Hiền, nhưng thú thực tôi không hiểu tại sao có tên chợ Côộc. Những năm xa xưa, chợ có cây đa lớn ở giữa, cây đa có gốc to quê tôi gọi là côộc, chợ này cũng là chợ gốc tức côộc, lớn nhất khu vực các xã Tân Ninh, An Ninh, Vạn Ninh, Duy Ninh, Hiền Ninh, Gia Ninh.... Tên chợ xuất phát từ đó chăng. Nhưng quê tôi có câu “Ồ ô ô ồ ôộc, Cà Côộc lá lay, Cổ Hiền đơm xay, Bình Thôn nấu náng, Nguyệt Áng dọn ràng, mời làng tới ăn”. Câu vè là các địa danh, chợ Côộc lại nằm trên đất Cổ Hiền, có gì đó “mâu thuẫn”.
Tôi hỏi nhiều người, mỗi người có ý kiến khác nhau. Bỗng nhớ tới anh Văn Tăng, nhà nghiên cứu văn hóa thôn Quảng Xá, cũng xã với tôi. Anh nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa.
Sau khi nói chuyện với anh, tôi hiểu ra.
Chợ Côộc đặt theo tên đất, vùng Côộc ngày trước, thuộc Cổ Hiền ngày nay.
Những năm 1970 về trước, Nạp Rấy là lùm đất dài khoảng 300 mét, rộng ước 4 mét, cao gần 1 mét, từ đầu (phía tây) thôn Thế Lộc (xã Tân Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình cũ) ra gần sông Kiến Giang. Hồi nhỏ tôi chăn trâu ở đó. Nạp Rấy cây cối um tùm, chim chóc nhiều. Tôi nghĩ là nó là điểm cuối của lũy Cổ Hiền trong hệ thống Lũy Thầy. Trong sách viết về lũy Cổ Hiền, điểm đầu là chân núi Thần Đinh và điểm cuối là phá Hạc Hải (quê tôi gọi là Vời). Nhưng thực tế phá Hạc Hải từ thôn Tân Thành vào Lệ Thủy. Vậy là, sử sách viết có tính ước lệ. Mặt khác, lũy Thầy thường song song với sông Kiến Giang, Nạp Rấy lại khác, gần như vuông góc, đâm thẳng ra sông Kiến Giang, nó song song với mương (kênh) Quảng Xá.
Tôi phân vân và hỏi nhà nghiên cứu Văn Tăng. Hoá ra Nạp Rấy không phải là nối “chót” của lũy Cổ Hiền. Ngày trước, để ngăn cách ruộng đất các thôn, các cụ thường đào mương, nên có mương Quảng Xá, mương Thế Lộc, mương Cầy Trường...
Nạp Rấy song song với mương Quảng Xá là vậy. Ừ nhỉ, sự hiểu biết nông cạn của mình được sáng tỏ.
Quê tôi có câu “70 học 71”, “biết thưa thốt không biết dựa cột mà nghe” tức người sau một tuổi phải học người hơn dù chỉ một tuổi, huống chi kẻ hậu sinh như tôi học “miễn phí” nhà nghiên cứu Văn Tăng thuộc thế hệ trước.
Nhiều lần tôi gọi cho anh để “dựa cột” nghe anh giải thích cũng là hạnh phúc của người dốt về văn hóa như tôi.
 
ĐẤT NGƯỜI ÂM
 
Trong bài “Cánh đồng ký ức”, tôi viết về với tuổi thơ trên cánh đồng làng Nguyệt.
Cỏ vươn lên trời người xuôi về đất
Đồng cô đơn chớp một cánh cò
Nước đục sao thân cò gầy rạc
Dấu chân cò dẫm lên dấu chân tôi thuở trước
Không tìm nỗi một con cua con ốc
Cò gắp lên từng mảnh tuổi thơ tôi
Nơi Cồn Đồng, tôi viết bài thơ về Mẹ. Nỗi đau thiếu thời cho tôi thấm câu ca dao “Mất cha còn ăn cá, mất mẹ liếm lá dọc đường”.
Huyệt sâu hóa chiếc nôi vuông
Ru người đất hát lời buồn mẹ ru
Một đời gom góp nắng mưa
Để dành một ít ngày thưa đêm dày
Nợ người bán cả giêng hai
Nợ đời bán cả một thời xuân xanh
Nơi Cồn Đồng, tôi viết về người anh, thầy giáo Nguyễn Đại Lụt, người tri âm. Những ngày ung thư giai đoạn cuối, anh cố nén cơn đau để hoàn thành việc tu bổ giếng Hoang làng Nguyệt như một kỷ niêm của “Thời chúng ta đang sống”.
Anh nằm cỏ đắp ấm êm
đất hóa võng đưa hát lời bình yên
tiếng dế vui đùa tuổi thơ
với nhện giăng mùng
cào cào giã gạo
hương lúa vẫn thơm sau mùa gió bão
hoa ngũ sắc Cồn Đồng sưởi ấm mùa đông
Nơi đây, sẽ là ngôi nhà tương lai của tôi. Ngôi nhà Cõi Âm cuộc đời.
Tôi đã đặt chỗ trước trên chuyến tàu từ biệt cõi tạm, cho cuộc trở về vào cõi hư vô.
Trong bài “Làng Nguyệt” đoạn vĩ thanh, tôi ao ước
nơi mẹ tôi nằm trăng khuya còn lạnh
nơi cha tôi nằm nắng bỏng hoàng hôn
ở phố thị giấc mơ tôi chia nửa
như gió cô đơn thương nhớ cánh buồm
tôi chỉ ước khi mình là hạt bụi
đậu xuống phù sa cây lúa quê nhà…
Và tôi đã chọn bãi đậu của hạt bụi là Cồn Đồng. Tôi sẽ nghe tiếng mây bay về, tiếng gió tiễn đi. Có được ngôi nhà là công sức, mồ hôi và sự chia sẻ của những người thân, những năm tháng nhọc nhằn của người xây dựng nó, xin được cảm ơn tất cả.
  Trở lại chuyên mục của : Từ Sâm