TỪ SÂM
LONG ĐẠI
Long Đại thuộc xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình (cũ). Nơi nhánh sông Nhật Lệ rẽ về phía núi Thần Đinh còn gọi là Đại Giang. Từ ngã ba sông chia làm hai nhánh ôm những hòn đảo nhỏ như chiếc thuyền gác mái nằm giữa sông và gộp lại chung dòng, len lõi giữa rừng già bạt ngàn ghềnh thác.
Long Đại cách làng Nguyệt theo đường chim bay chỉ vài cây số. Những năm tháng chiến tranh ác liệt hầu như cả ngày, cả đêm tiếng bom, pháo sáng. Từ bờ bắc sang bờ nam chỉ mấy trăm mét, qua sông là phà, gọi là phà Long Đại. Qua phà Long Đại theo đường 15 đi Vạn Ninh, Sơn Thủy vào nam.
Khi tôi còn chăn trâu, bọn trẻ ngồi đếm từng loạt bom, từng cụm pháo sáng chung chiêng trên bến phà, xem pháo 37 ly nổ râm ran, khói từng chùm mây trắng. Chỉ riêng phà Long Đại, làng Nguyệt có một binh trạm (binh trạm 15) chủ yếu chăm sóc thương binh và đảm bảo an toàn cho quân vào nam.
Từ phà Long Đại đến ngã 3 đông Trường Sơn (xã Vạn Ninh cũ) rẽ phải qua tây Trường Sơn, chúng tôi xin xe bộ đội (chủ yếu xe Zin 3 cầu) đến cây số 10 rẽ phải theo đường mòn khoảng mấy chục cây số là vào bản Cọi để mua sắn.
Năm lớp 10 (1972- 1973) chiến tranh miền Bắc kết thúc. Nhà trường tổ chức đi lấy gỗ về làm lại lớp học (trước đó học dưới hầm). Lớp chúng tôi chèo đò từ chợ Cổ Hiền vào cuối chiều, đến sẫm tối qua phà Long Đại (gọi là phà nhưng không là phà nữa mà cầu phao lắp ghép) ngược lên rào Đá. Chúng tôi ghé thuyền vào vạt nương mép bờ sông để lấy trộm rau cải nấu với mì sợi. Trời tối chẳng thấy gì cả. Cả bọn ào lên vơ lấy vơ để, một đứa một ôm. Lớp hơn 40 đứa tàn phá ruộng rau như nhổ mạ chưa đầy dăm phút. Xong, cả đám lao xuống thuyền chèo như bị đuổi. Khi thuyền đến bãi đậu, dựng lán trại, soạn đồ nấu thì không phải rau cải mà là cây thuốc lá. Chúng xanh mơn mởn, lá nhú bằng bàn tay trẻ con phảng phất mùi tơ non, ngai ngái. Đống “rau cải” héo khô sau đó vứt chênh vênh bên khe núi trong nắng bỏng, soong mì sợi không một màu xanh.
Hôm sau thuyền về qua vườn “rau”. Chúng tôi thấy một phụ nữ Vân Kiều quần áo rách rưới ngậm tẩu thuốc thẩn thờ trên bờ sông. Hai đứa trẻ ngồi cạnh cũng ngậm tẩu thuốc gầy đen như hai con khỉ. Ánh mắt họ buồn tênh, nhìn xa xăm thất vọng. Thế là tài sản tiêu tan như bị quả bom rơi trúng, như cơn lũ quét qua, mà bom thì đã hết, mà lũ thì đang mùa hạn.
Tôi xa bản Văn Kiều khi trèo đèo lội suối mấy chục cây số để mua sắn trong cơn đói khủng khiếp không lâu. Bây giờ, bên tai mình âm thanh lặp lại cơn đói và tiếng bom. Ngước lên, trời vẫn cao xanh vời vợi, trong vắt một màu, không một bóng mây vẫn đục.
Mỗi lần qua cầu Long Đại, kỷ niệm trong tôi là khói bom, tiếng súng, cái nhìn xa xăm của người mẹ Vân Kiều và những đứa con nghèo đói. Những nhà chòi xác xơ của bản xưa không còn ở đó, họ đi đâu tôi cũng không biết nữa. Thời gian đã xóa mờ, hai em bé nhỏ nay cũng đã hoa râm, người mẹ còn hay mất. Sông đôi bờ hoang vắng, rừng cũng đã thưa cây. Chuyện cũ chắc họ đã quên bởi thời gian bị gió Lào thổi cháy. Dãy Trường Sơn lớp lớp ngọn núi cởi trần, trọc đầu lở loét dựa vào nhau trùng trùng điệp điệp.
Cảnh xưa đã vãn, kỷ niệm còn đây. Bao nhiêu bom đạn cày xới, bao nhiêu bộ đội, thanh niên xung phong Thái Binh, Thanh Hóa, Ninh Bình...có anh chị không về nằm lại nơi này.
Đó là Long Đại.