TỪ SÂM
NGƯỜI VẼ “ĐỒ BẢN” ĐOÀN 559
Ngày 27 tháng 1 năm 1973 hiệp định Pari kí kết. Lúc đó, tôi vào học kỳ 2 lớp 10 cấp 3 (Trung học Phổ thông bây giờ).
Tháng 2 năm 1973, Bộ tư lệnh 559 (Đoàn Trường Sơn) về đóng quân ở hai xã Hiền Ninh và Tân Ninh (Quảng Ninh, Quảng Bình cũ). Ông Đồng Sỹ Nguyên (người Quảng Bình, đại tá tư lệnh đoàn 559) ở trong ngôi chùa thôn Cổ Hiền (xã Hiền Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình cũ ) cách trường cấp 3 (nơi tôi học) vài trăm mét.
Xã Tân Ninh, chủ yếu là làng Nguyệt, ở nhà tôi là ông Nguyễn Tụng người Huế, trung tá, phó ban tác chiến. Nhà dì tôi (dì Ỉu) cách nhà tôi vài chục thước là ông Nguyễn Lược người miền Bắc, tôi không biết tỉnh nào, thượng tá, trưởng ban tác chiến. Ông Nguyễn Quý người Hà Tĩnh, đại úy trưởng phòng hành chính ở nhà chị Lới (bên trái nhà tôi). Chị Đảm người Hà Nam, chuẩn úy, quân y, chị Xiêm người Nghệ An, hạ sỹ, đánh máy ở nhà mự Duể và nhiều người nữa. Sau lưng nhà tôi là nhà vợ chồng nhà ông Xò mụ Rên, ông bà không có con là bộ phận “đồ bản” có 4 người. Anh Cảnh (Nguyễn Lương Cảnh, người Đồng Hới, Quảng Bình, thượng sỹ 26 tuổi trưởng bộ phận). Anh Vinh quê Nghệ An, (trung sỹ 24 tuổi, phó bộ phận) và hai người nữa. Hồi đó thiếu úy Đại đội trưởng có cần vụ rồi.
Khi “Đoàn 559” về đóng quân là Làng Nguyệt có điện. Hai máy phát điện của Ba Lan đặt ở nương cậu tôi (cậu Giúng) tức nhà chú Trường bây giờ. Mỗi nhà thắp một bóng đèn tròn 75W. Điện sáng lúc 6h30 tối, điện “tối” lúc 10h đêm.
Tôi thường chui ngõ sau để qua nhà ông Xò, đến bộ phận “đồ bản” chơi với mấy anh bộ đội và đánh bóng bàn. Đơn vị dựng lán lá cọ vừa đủ để bàn làm bằng hai mảnh ván ghép để trải bản đồ lên đó. Hết giờ làm việc là giăng lưới bóng bàn để các tuyển thủ “ve” và “tiu”. Tôi không hiểu “đồ bản” có ý nghĩa gì. Chỉ biết các anh lấy bút chì hai màu gọi là chì cu lơ vẽ chằng chịt lên đó. Có dấu hình tròn, hình vuông, hình mũi tên ngoằn ngoèo với tên các làng bản, các địa phương lạ hoắc.
Anh Cảnh bảo tôi, để có mũi tên có dấu hình vuông có khi hàng chục, hàng trăm chiến sỹ ngã xuống để mở đường. Tôi hiểu ra, suốt dải Trường Sơn, từ các đơn vị báo về, bộ phận “đồ bản” ghi chú trên bản đồ để phục vụ tác chiến ở chiến trường. Sau này, khi vào Đại học, học ngành “Khai thác Hàng hải”, tôi hiểu tầm quan trọng của “đồ bản” trong chiến tranh như “hải đồ” với người đi biển.
Có lần, đang đánh bóng bàn, anh Cảnh hoặc anh Vinh nghe điện thoại từ tổng đài báo về. Nghe tiếng “thưa tư lệnh, dạ, dạ”. Tôi biết anh đang trả lời ông Đồng Sỹ Nguyên. Có khi trả lời ông Lược, ông Tụng, ông Quý hoặc nhiều vị nào đó ở chiến trường. Tiếng điện thoại nghe rất nhỏ, yếu ớt, tiếng bom nổ, tiếng súng trộn lẫn, có khi các anh phải hét lên, có khi phải chờ rất lâu tổng đài mới nối lại.
Tôi nhớ một lần ông Nguyên hỏi, “xe có vào được không, có qua cầu được không, mùa này mưa to, suối đổ…”. Anh Cảnh im lặng, anh Vinh cũng xếp bóng, buồn xo góc phòng, thở dài.
Anh Vinh, anh Cảnh tập đánh bóng hai tay, tôi không hiểu vì sao. Anh đánh tay “thuận” tôi thua anh khoảng dăm trái, anh đánh tay “nghịch” thì anh thua tôi như vậy. Anh Cảnh nói, “nghề nghiệp phải tập như vậy”, tôi ngộ ra, nghề đồ bản của anh cần cả hai tay.
Cuối năm 1973 đoàn 559 rời làng Nguyệt vào đóng quân ở Quảng Trị chuẩn bị cho chiến dịch mùa xuân 1975.
Sau năm 1975 mấy năm, anh Cảnh rời quân ngũ. Chúng tôi gặp nhau thường xuyên mỗi khi tôi về Đồng Hới vì anh lấy con chú ruột tôi. Về “tác” anh gọi tôi bằng anh. Khi ông Đồng Sỹ Nguyên rời Đoàn 559 làm Bộ trưởng “Bộ giao thông vận tải”, ông thường giới thiệu các nhà báo muốn tìm hiểu thêm “Đoàn 559” thì gặp anh Cảnh, người “đồ bản” ông tin tưởng suốt cuộc chiến.
Ông Đồng Sỹ Nguyên đã mất, ông Lược, ông Tụng cũng đã mất. Ông Quý hơn 90 tuổi vẫn gọi điện thoại cho tôi từ thành phố Hà Tĩnh, mấy năm covy tôi không liên lạc được để hẹn ra thăm. Anh Vinh cũng đã mất. Chị Đảm, chị Xiêm tôi không tin tức mấy chục năm nay.
Anh Cảnh cũng đã mất (26.1.2023 tức mồng 6 tết Quý Mão). Cuộc đời anh đã bao lần lên thác xuống ghềnh như chấm đỏ trên “đồ bản” cuộc đời. Chấm đỏ ấy giờ đây đã hóa thành ngôi sao nhập vào dải ngân hà bình yên muôn thuở.
Nhớ về người lính, người vẽ “đồ bản” đoàn 559.