TỪ SÂM
 
  
 THÁNG MƯỜI
 Tháng mười, tháng mùa lũ về. Khi nước bạc từ sông Đại Giang chưa kịp rửa sạch chân núi đã ào ạt đuổi nhau về khỏa ngập bờ ruộng. Nước từ Lệ Thủy theo sông Kiến Giang chầm chậm dâng tràn bờ mương. Người làng Nguyệt đi “làm phu” cho các “mỏ cá”. “Phu” đổ về đập ông Tề, đập Năn, Cốống, bàu Su, bàu Chỉnh. Những bước chân hối hả, rối rít gọi nhau cất rớ. Ui chao, mẻ rớ có khi vài con, có khi cả nhúm, cả đàn. Cá thát lát, cá tràu, cá rô, cá giếc, cá mương vv. May mắn có cá chép, cá lúi bằng bàn tay. Cá buôi từ sông Kiến Giang tràn qua các thôn Hỏa Lò, Quảng Xá bơi về, nhảy tung tăng làng Nguyệt. Cá mùa lũ béo tròn núc níc. Cá chớp trắng trong rớ, chạy loanh quanh trong nơm rồi nằm thiêm thiếp ngủ trong oi, trong vịt. Cá xắt khúc, ướp muối, vài lá gừng lót dưới đáy tréc, liu riu lửa, có thêm vài quả ớt xanh thì tốn cơm quá chừng. Làng Nguyệt rạo rực chân sáo trẻ trâu, thầm thì to nhỏ nước xuống, nước lên. Con nít được chèo bối, được ngồi trên tra nhai khoai loọc trong cơn bấc khe khẽ về, thì thầm gọi cửa giữa khuya.
 Bối được kết bằng thân cây chuối. Chuối hột là tốt nhất vì thân to, xốp và dài đến vài ba mét. Khoảng dăm cây kết lại bằng nẹp gỗ buộc sợi mây. Mỗi bối chở được vài ba người. Bối càng to người làm, người ngồi nhất là con nít càng hãnh diện. Người lớn, trẻ con dùng sào chống dạo từ nhà này sang nhà khác để thăm nhau, chào nhau, giúp đỡ nhau. Nhà nhà giữ lửa bằng con cúi bện từ rơm dài sải tay. Lửa ủ trong cúi ngủ vùi như trẻ nhỏ. Chỉ cần thổi nhẹ là bùng lên cười lách tách.
  
 Một năm có khi vài ba trận lụt là thường. Lụt càng to, mùa sau lúa càng trĩu hạt, khoai càng to củ. Trẻ con thấy lụt là mừng. Nhìn nước chảy là biết nước lên hay xuống. Nhà tôi gần đàng Kiệt, có ngày ra dọi nước đến năm bảy lần. Lấy mẻ chai gạch làm dấu. Ngập vạch, nước lên là reo lên háo hức. Xa vạch, nước xuống là mắt buồn vời vợi...
  
 Làng Nguyệt có ba vụ gặt (theo âm lịch) là vụ chăm vào tháng tư, nơi cấy muộn mé qua tháng năm. Vụ tám vào tháng 8 và vụ mười vào tháng 10. Vụ 10 lúa không cấy mà vại thóc ở đất cao. Đất ở phía tây làng Nguyệt từ bàu Chỉnh, qua Chùa ra đến Hà Dệ. Bây giờ là phía trên máng Cẩm Ly. Phía đông từ nhà o Thuẩn ra đến giếng Hoang tức phía đông đường liên lạc. Phía bắc từ nhà o Sua, nhà ông Sói, nhà ông Trường là cuối làng Nguyệt. Ruộng trải từ miếu Tư xuống Áng dọc đến nhà ông Trê, ông Khúng. Ngày trước là vùng đất làm vụ 10. Hết vụ 10 là gieo mạ. Khi mạ xuống cấy thì trồng khoai. Khoai trồng sớm ra giêng bới củ. Củ nhỏ nhưng chống đói mùa giáp hạt gọi là “khoai đói”.
  
 Lúa vụ 8 thường bị rạp gãy nằm sát đất, bị ngập nước chưa kịp chín khi lũ về. Bà con hối nhau gặt chạy lũ. Thóc còn đọng sữa phải hấp chín. Khi cho thóc vào cối giã gọi là lúa dẹp. Nếu rang lên gọi là cốm dẹp. Lúa nếp thơm ngon hơn lúa lòn miền bắc gọi là gạo tẻ. Khi gió về, cái rét nằm ngổn ngang. Bọn trẻ thường lấy lúa rang lên gọi là trắt. Trắt thơm miệng và xua cái đói lúc nào không hay. Mỗi đứa trong thôộng, trong cặp, có khi trong bao lác đều có gói trắt mang theo. Giờ ra chơi con gái ngồi bệt trên vành nón ăn trắt đánh chuyền. Con trai thò tay nhón trộm bỏ miệng nhai cả vỏ.
 Mùi hoa bưởi thơm đêm lần cuối, như lời chia tay mùa thu trong tiết trời se lạnh, thời gian nhẹ bước vào tháng Mười.
  
 Trời chưa kịp sáng, gió mùa tỉnh giấc, những đôi vai gầy đưa quê vào phố, bước chân ướp lạnh trong sương. Tôi nhớ về bước chân tuổi thơ tôi ra chợ. Giờ đây, giữa một tháng mười nhà cao, tầng tầng, lớp lớp, lại có một tháng mười kỉ niệm thuở nào.