VINH HỒ
Gà Trong Ca Dao Tục Ngữ
Nguồn NET: Tranh dân gian Đông Hồ.
Trong 12 con Giáp, Gà rất thân thiết gần gũi với người VN, nên ca dao tục ngữ có dính dáng đến Gà vô cùng phong phú. Trước thềm năm mới Đinh Dậu, kính mời quý đồng hương xem hình ảnh con gà trong văn chương bình dân, suy gẫm, và sẽ nhận ra bao điều gởi gắm trong đó của tiền nhân:
Ăn tiêu nhớ đến mùi hành
Ăn gà nhớ đến rau canh thuở nào
Bán gà cho cáo
Bán gà kiêng ngày trời gió, bán chó kiêng ngày trời mưa
Bé ăn trộm gà, già ăn trộm trâu, lâu nữa làm giặc
Bìm bịp bắt gà con
Bìm bịp bắt gà trống thiến (gặp hên)
Bơ vơ như gà con lạc mẹ
Bút sa gà chết
Bụt trên toà, gà nào dám mổ mắt
Buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê, thịt gà
Cà kê dê ngỗng
Canh bạc ăn thua nhau lúc gà gáy
Cáo già không ăn gà hàng xóm
Cáo nào tử tế với gà
Cau hoa gà giò (các thứ ngon)
Cau phơi tái, gái đoạn tang, chim ra ràng, gà mái ghẹ
Chán gà nhà, chuốc cò nội
Chân gà lại bới ruột gà
Chim sổ lồng, gà sổ chuồng
Ăn tiêu nhớ đến mùi hành
Ăn gà nhớ đến rau canh thuở nào
Bán gà cho cáo
Bán gà kiêng ngày trời gió, bán chó kiêng ngày trời mưa
Bé ăn trộm gà, già ăn trộm trâu, lâu nữa làm giặc
Bìm bịp bắt gà con
Bìm bịp bắt gà trống thiến (gặp hên)
Bơ vơ như gà con lạc mẹ
Bút sa gà chết
Bụt trên toà, gà nào dám mổ mắt
Buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê, thịt gà
Cà kê dê ngỗng
Canh bạc ăn thua nhau lúc gà gáy
Cáo già không ăn gà hàng xóm
Cáo nào tử tế với gà
Cau hoa gà giò (các thứ ngon)
Cau phơi tái, gái đoạn tang, chim ra ràng, gà mái ghẹ
Chán gà nhà, chuốc cò nội
Chân gà lại bới ruột gà
Chim sổ lồng, gà sổ chuồng
Nguồn: NET: gà con
Chó ăn đá, gà ăn muối
Chó ăn đá, gà ăn sỏi
Chó ba quanh mới nằm, gà ba lần vỗ cánh mới gáy
Chó cậy nhà, gà cậy chuồng
Chó cậy nhà, gà cậy vườn
Chó cùng nhà, gà cùng chuồng
Chó giữ nhà, gà gáy sáng
Chó lê trôn, gà gáy gở (điềm xấu)
Chó liền da, gà liền xương
Chó quen nhà, gà quen chuồng
Chó tháng ba, gà tháng bảy
Chớp đông hay nháy, gà gáy hay mưa
Chúa vắng nhà, gà mọc đuôi tôm
Chúa vắng nhà, gà vọc niêu tôm
Chuồng gà hướng đông, cái lông chẳng còn
Chuồng phân nhà để gà người bới
Chữ viết như gà bới
Chửi như mất gà
Nguồn: NET: gà mái
Con cò trắng bạch như vôi
Thằng Cam con Quít đẹp đôi chăng là
Thằng Cam thì ham chọi gà
Con Quít ở nhà ăn vụng cháo kê
Thằng Cam ở đâu chạy về
Giận đánh con Quít bò lê bò càng
Mẹ Quít ở đâu chạy sang
Mày phủ mày phàng mày đánh con tao
Con tao có cưới có cheo
Tự nhiên làm đĩ nó theo mầy về?
Con gà tốt mã vì lông
Răng đen vì thuốc, rượu nồng vì men.
Con quạ tha lá lợp nhà
Con cua chẻ lạt, con gà dựng phên
Nguồn NET: gà mái
Con gà cục tác
Chú lác cầm chèo
Con mèo cầm lái
Con nhái chạy buồm
Con tôm tát nước
Con giếc đòi ăn
Con thỏ chạy quanh
Xui cua đi kiện
Bà huyện ăn tiền.
Con chó huyền đề
Con gà năm móng
Lấy về mà nuôi
Cỏ gà loang lổ, trời đổ mưa ngay
Cỏ gà màu trắng, điềm nắng đã hết
Cỏ gà mọc lang, cả làng được nước
Con giữ cha, gà giữ ổ
Có chân mà chẳng có tay
Chỉ có 4 ngón hỏi ngay con gì?
Thưa anh chắc hẵn con gà
Gà thì có cánh nhưng mà không tay
Bốn ngón bươi móc tối ngày
Là gà mái nổ có tài nuôi con.
Con cà con kê (lan man dông dài hết chuyện này sang chuyện khác)
Con tông gà nòi
Cõng rắn cắn gà nhà
Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà nhảy ổ
Cơm đâu no bụng chó, thóc đâu no bụng gà
Cơm gà cá gỏi
Cơm gà mất bạn
Con gà rừng tốt mẽ khoe lông
Chẳng cho đi chọi nhốt lồng làm chi...
Con công ăn lẫn với gà
Rồng kia, rắn nọ, cao đà sao nên?
Cơm dừa kèm với bánh đa
Cái đĩa thịt gà kèm với lá chanh
Con gà tốt mã về lông,
Răng đen về thuốc rượu nồng về men
Con chim kêu đồng nội
Con gà gáy tại cội dầu đôi
Hai ta duyên mãn tình hồi
Ai có điều chi phân đi nói lại
Kẻo duyên nợ xa rồi, hỡi anh!
Con gà mái rỗ
Lót ổ trên cao
Có thương thì thương cho chắc
Nếu giục giặc thì lý không thương
Giục ngựa buông cương
Lên đường thượng lộ
Tới ngã ba rồi
Không ai ngộ hơn em
Con rắn không chưn nó đi năm rừng bảy rú
Con gà không vú, nuôi nỗi chín mười con
Phải chi nhan sắc em còn
Lăn vô chỗ đó chịu đòn cho cam
Cổ tay em vừa trắng vừa tròn
Răng đen rưng rức, chồng con kém người
Khốn nạn thay nhạn ở với ruồi
Tiên ở với cú, người cười với ma
Con công ăn lẫn với gà
Rồng kia, rắn nọ coi đà sao nên
Nói nên mà ở chẳng nên
Quang rơm gánh đá sao bền hơn mây
Da gà tóc hạc
Da trắng như trứng gà lột
Da trắng như trứng gà bóc
Dáo dác như gà mắc đẻ
Dùng dao mổ trâu cắt tiết gà
Đãi cứt sáo lấy hạt đa, đãi cứt gà lấy hạt tấm (cần cù)
Đầu gà còn hơn đuôi trâu
Đầu gà đít vịt
Đầu gà má lợn
Đẻ như gà
Độc hạc kê quần
Đông như đám gà chọi
Đuôi trâu không bằng đầu gà
Đuổi gà cho vợ
Anh về thưa với mẹ cha
Bắt lợn đi cưới, bắt gà đi cheo...
Ếch tháng ba, gà tháng bảy
Gà ăn hơn công ăn (công: con công).
Gà ăn không hết bạc (quá giàu có)
Gà ba lần vỗ cánh mới gáy, người ba lần suy nghĩ mới nói
Gà ba tháng vừa ăn, ngựa ba năm vừa cỡi
Gà béo bán bên Ngô, gà khô bán láng giềng (hám lợi)
Gà mà chê thóc chẳng bới thì người mới chê tiền
Gà cỏ trở mỏ về rừng
Gà con lạc mẹ
Gà cùng chuồng đá nhau
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm
Gà đẻ gà cục tác
Gà đẻ trứng vàng
Gà trắng chân chì, mua chi giống ấy.
Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua
Gà già khéo ướp sẽ trở lại tơ,
Nạ dòng trang điểm thì gái tơ sẽ mất chồng
Gà đẹp mã nhờ lông, người dễ trông nhờ của
Gà độc thịt, vịt độc trứng
Gà gáy canh một hỏa tai, gà gáy canh hai đạo tặc (gà gáy sai canh báo hiệu có điềm xấu)
Gà giò ngứa cựa
Gà khôn giấu đầu, chim khôn giấu mỏ
Gà lấm lưng, chó sưng đồ (lấm lưng là chịu trống, sưng đồ là động dục.)
Gà luộc hai lần (ý nói lấy chồng lần thứ hai, tình cảm nhạt phai)
Gà luộc lại, gái cải giá
Gà mái đen, cả ổ đều đen (nòi nào thì giống nấy)
Gà mái gáy gở (gở: càn gở)
Gà mái gáy sáng tiêu tán sự nghiệp
Gà mái gáy mai, lụn bại cửa nhà
Gà mái không gáy (không phải việc của phụ nữ)
Gà mới lên chuồng (mới chập tối)
Gà mượn áo công
Gà tơ xào với mướp già
Vợ hai mươi mốt chồng đà sáu mươi...
Gà bán ngày gió, chó bán ngày mưa
Gà ngủ, cáo không ngủ
Gà người gáy, gà ta cũng đập cánh
Gà người gáy, gà ta cũng te te
Gà nhà bôi mặt đá nhau
Gà nhà lại bươi bếp nhà
Gà què bị chó đuổi (bị tai hoạ dồn dập)
Gà ri mâm gạo (gặp may)
Gà trống nuôi con
Gà tức nhau vì tiếng gáy
Gà chết nhau vì tiếng gáy
Gà mở cửa mả
Gà mái đá gà cồ
Gà trắng chân thì mua
Gà nâu chân thấp mình to
Đẻ nhiều trứng lớn, con vừa khéo nuôi
Chẳng nên nuôi giống pha mùi
Đẻ không được mấy, con nuôi vụng về
Gà què ăn quẩn cối xay,
Hát đi hát lại tối ngày một câu
Gà què ăn quẩn cối xay,
Hát bảy đêm ngày chỉ có một câu
Gà đẻ trứng vàng
Gà đẻ gà tục tác, ác đẻ ác tu la
Gà đen chân trắng mẹ mắng cũng mua
Gà trắng chân chì, mua chi thứ ấy
Gà chết vì tiếng gáy
Gà ghét tiếng gáy
Gà kia mày gáy chiêu đăm
Để chiếu tao nằm, tao nghỉ chút nha
Gà kia tốt mả tốt lông
Đã đem đi chọi giữ lồng làm chi
Gà đẻ gà cục tác, bác đẻ bác la làng
Gạo tám xoan, chim ra ràng, gái mãn tang, gan gà giò
Giàu lợn nái, lãi gà con
Giết gà lấy trứng
Hết cả gà lẫn chuồng
Hăng máu gà
Hoài thóc nuôi gà rừng
Hoài thóc ta, cho gà người bới
Hóc xương gà, sa cành khế
Học như gà đá vách (không kết quả)
Hỏi gà đáp vịt
Kê báo tai, thước báo hỷ (chim thước)
Kê bì, hạc phát (da gà, tóc hạc)
Kê minh, khuyển phệ (gà gáy, chó sủa)
Kể gà kể ngỗng
Khách đến nhà không gà thì vịt
Không ai nuôi chó một nhà, nuôi gà một sân
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Lép bép như gà mổ tép
Lộp bộp như gà mổ mo
Lờ đờ như gà chạng vạng
Lợn nhà, gà chợ
Lợn thả, gà nhốt
Lúng túng như gà mắc tóc
Mặt đỏ như gà chọi
Một tiền gà ba tiền thóc
Mẹ gà con vịt chắt chiu,
Mấy đời mẹ ghẻ nâng niu con chồng
Mặt gà mái (màu tai tái, bệnh hoạn, nhút nhát)
Mặt tái như gà cắt tiết
Mẹ gà con vịt
Mèo mả, gà đồng
Mổ gà dao trâu
Một tiền gà, ba tiền thóc
Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa
Người ta thách lợn thách gà,
Em đây chỉ thách một nhà khoai lang.
Người khôn ăn miếng thịt gà
Tuy rằng ăn ít, nhưng mà no lâu
Người dại ăn trái bồ nâu
Ăn no bỉnh bầu, chẳng biết mùi ngon.
Ngây ngô như gà mờ, lờ đờ như đom đóm đực.
Nghe gà hoá cuốc
Nháo nhác như gà lạc mẹ
Nháo nhác như gà gặp cáo
Nhìn gà hoá cuốc
Nhớn nhác như gà con gặp quạ
Như gà mắc tóc
Như gà mất mẹ
Nửa đêm gà gáy
Nuôi gà phải chọn giống gà
Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau.
Ông nói gà bà nói vịt
Ráng mỡ gà, ai có nhà thì chống (sắp có bão)
Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa
Rối như gà mắc đẻ
Rồng rồng theo nạ, quạ theo gà con
Rũ như gà cắt tiết
Tái tái như gà mái mắc đẻ
Tái tái như gà mái nhảy ổ
Thịt vịt lá na, thịt gà lá chanh
Thịt gà, cá chép, ba ba,
Trong ba thứ ấy liệu mà cử kiêng
Thứ nhứt ăn trộm trứng gà
Thứ nhì thuế chợ, thứ ba đưa đò
Thóc chắc nuôi gà rừng (phí của)
Thư sinh trói gà không chặt
Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà (trâu đỏ: cày máy)
Thứ nhất phao câu thứ nhì đầu cánh
Trai thấy gái lạ như quạ thấy gà con
Trông gà hóa cuốc
Ủ rũ như gà mắc mưa
Ủ rũ như gà rù
Vạ vịt chưa qua, vạ gà đã đến
Vắng chủ nhà, gà bươi bếp
Vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm
Vịt già, gà non
Vịt già, gà tơ
Voi chín ngà, gà ba chân (không thể có)
Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín đuôi (không thể có)
Vợ nhà, gà chợ
Vợ trong nhà, gà ngoài chợ
Xúi trẻ ăn cứt gà
Xua gà cho vợ
-TRONG BA NGÀY TẾT ĐINH DẬU:
Tết là ngày hội, ngày vui nhất trong năm, xin mời quý đồng hương đọc những câu ca dao rất hay và nổi tiếng có nhắc đến con gà như sau:
-Nụ cười dí dỏm:
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi, đi chợ mua tôi đồng riềng.
Chim chích cán cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm.
-Tình tứ lãng mạn:
Cái xoong em nấu canh bí đao, cái chảo em xào thịt vịt
Cái tô em múc thịt ngang, cái sàng em xé thịt gà.
Em thương anh từ lúc mười ba
Đã ăn năm cái Tết mà vẫn xa vạn trùng.
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Tân Châu
Anh thương em chẳng ngại sang giàu
Mứt hồng một lạng, trà tàu một cân.
Thịt vịt ngon nhứt Đồng Thân
Thịt gà ngon nhứt Nghi Xuân, Phú Hòa
Anh đi mua vịt mua gà
Nhờ ông tơ bà nguyệt qua nhà cưới em
Em vái ông tơ vài ve rượu chát
Em cầu bà nguyệt năm bảy con gà
Xin cho đôi lứa hiệp hòa
Rồi sau em xin trả lễ, đặng mà đền ơn.
Ước gì anh được vô phòng
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan
Ngặt con gà trống vô duyên
Mới vừa nằm xuống lon ton gáy dồn.
Vinh Hồ
*Nguồn: sưu tầm trên NET
Tản Mạn Về Tên Của Những Giống Gà:
(Vinh Hồ sưu tầm trên NET)
Nguồn: NET: Tranh dân gian Đông Hồ về gà.
Gà còn có tên là Dậu, Kê.
Ta có địa danh Mủi Kê Gà.
Gà lôi tức chim trĩ. Gà-mờ là kém khả năng nhận xét/ nhận biết, không phát hiện được cả những cái dễ thấy.
Gà nước là loài chim sống ở đồng-ruộng, nơi đầm lầy có hình dạng giống con gà như cuốc, cúm núm.
Gà đồng là con ếch.
Trong văn hóa VN thuật ngữ gà tơ (gà tơ, nai tơ, bò tơ, gái tơ, trai tơ...) được dùng để chỉ những người còn trẻ ngây thơ chưa trải nghiệm, quan hệ tình dục.
Theo quan niệm dân gian, gà mang đủ năm đức tính của người quân tử: Văn - Võ - Dũng - Nhân - Tín.
Ta có địa danh Mủi Kê Gà.
Gà lôi tức chim trĩ. Gà-mờ là kém khả năng nhận xét/ nhận biết, không phát hiện được cả những cái dễ thấy.
Gà nước là loài chim sống ở đồng-ruộng, nơi đầm lầy có hình dạng giống con gà như cuốc, cúm núm.
Gà đồng là con ếch.
Trong văn hóa VN thuật ngữ gà tơ (gà tơ, nai tơ, bò tơ, gái tơ, trai tơ...) được dùng để chỉ những người còn trẻ ngây thơ chưa trải nghiệm, quan hệ tình dục.
Theo quan niệm dân gian, gà mang đủ năm đức tính của người quân tử: Văn - Võ - Dũng - Nhân - Tín.
Nguồn: NET: Gà trống có tướng mạo quân tử.
-Trên trống đồng Đông Sơn, gà và chim được thể hiện.
-Truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh, gà được nhắc đến là một trong ba lễ vật thách cưới của Vua Hùng để gả con gái Mỵ Nương của mình gồm: Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
-Truyền thuyết vua An Dương Vương Thục Phán xây thành nhưng cứ bị đất lở, Rùa thần báo cho vua biết ở núi Thất Diệu có một con gà trắng sống đến ngàn năm hóa thành yêu tinh nếu diệt được nó thì việc xây thành sẽ thành công. Sau khi An Dương Vương giết được con gà trắng thì xây được thành.
-Vào thời Tây Sơn, tương truyền Nguyễn Lữ là người sáng tạo môn võ Hùng Kê Quyền mô phỏng các kỹ thuật của gà chọi, một trong 10 bài danh võ được Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam lựa chọn qua các kỳ hội nghị chuyên môn toàn quốc. Bài Hùng Kê Quyền sử dụng ngón tay trỏ (mô phỏng hình mỏ gà) và các ngón còn lại co vào (giống như chiếc cựa gà) đánh vào các huyệt đạo và các chỗ hiểm của đối thủ như ngực, hầu, mắt, v.v...
-Trong trang phục phụ nữ miền Bắc ngày xưa khi vấn khăn thì có chừa ra một đoạn tóc bỏ buông lơi cong cong gọi là "tóc đuôi gà", kiểu tóc này được nhiều người ưa thích.
-Thành ngữ gà mái gáy thường dùng để chỉ trích người đàn bà tiếm dụng hay làm phần việc của đàn ông.
-Ngược lại, người đàn ông góa vợ phải chăm lo con cái thì gọi là gà trống nuôi con.
-Con gà trống có mặt trong những câu đố dân gian vì tướng mạo quân tử của nó.
-Gà trống còn là vật cúng tế cổ truyền.
-Trong bài Nắng mới, Lưu Trọng Lư có viết về tiếng gáy của gà khác biệt với tiếng cuốc, tiếng oanh, hay tiếng nhạn trong thơ Đường.
Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng.
(Lưu Trọng Lư, Tiếng thu, 1939, Librairie Centrale ấn hành, 1939)
-Sau này trong tiếng lóng, gà dùng để chỉ gái mại dâm.
-Dưới đây là những tên gà:
Gà gô hay gà đa-đa (gà sống ở rừng thưa)
Gà nhà
Gà cồ hay gà tồ
Gà ô (có lông đen tuyền),
Gà xám ô (lông xám đen),
Gà chọi hay gà đá (có cựa, đá giỏi, nuôi để chọi nhau),
Gà giò (thịt luộc rất mềm và ngon ),
Gà nòi (gà giống tốt to con nuôi để để đá ),
Gà rừng (sống trong rừng và cao-nguyên hoang-dại),
Gà thiến (bị thiến hay bị hoạn, trông béo tròn),
Gà ác (giống nhỏ con lông trắng da đen, chân chì),
Gà cỏ (giống gà rừng nhỏ),
Gà gáy hay cà cáy
Gà hoa (gà trống tơ không bị thiến),
Gà hồ (gà ở Đông-Hồ tại Bắc- Ninh),
Gà kiến (lông nhỏ màu đen như cánh kiến),
Gà kim-tiền hay gà cẩm-kê (gà có lông như lông công, chân thấp),
Gà mái-ghẹ (gà mái non thích gà trống và sắp đẻ)
Gà pha (thứ gà chọi lai giống),
Gà ri (gà nhỏ, chân thấp, lông lốm-đốm),
Gà ó (gà có lông như chim ó),
Gà tre (gà nhỏ con, lông có màu sắc rực-rỡ và hiếu-chiến),
Gà đòn hay gà cù-lự (gà lớn con, chân to, cẳng bự, cựa mọc không dài nhưng đá rất hăng),
Gà cựa (có cựa dài để đá),
Gà cựa dao (con gà có 2 cựa mà chủ nhân cột thêm một loại dao bén nhỏ xíu vào hai cựa để gà đá giết gà đối thủ),
Gà bướm (gà có sắc lông lốm-đốm đẹp như con bướm),
Gà bông trích (gà có mồng đỏ như chim trích),
Gà nhạn (gà có lông trắng như chim nhạn),
Gà chuối (gà có nhiều màu như vàng, xám, trắng, đỏ, và nâu giống như thân cây chuối lốm-đốm),
Gà điều (lông đỏ óng-ánh màu nâu sậm),
Gà lôi (gà to có đuôi xòe tựa đuôi con chim công),
Gà còn có tên theo địa phương: gà Cao-Lãnh, gà Bà Điểm, gà Hóc-Môn, gà Kế Sạch, gà Xiêm (Thái Lan), gà Tàu (lông màu nâu da vàng thịt rất ngon), gà Tây (gà cao lớn, lông đen hoặc lốm-đốm, đầu sần súi, gà trống có bìu đỏ ở cổ, và đuôi có thể xòe rộng như đuôi con chim công), v.v. Có nhiều giống gà ngoài nước như:
Gà Tam hoàng (giống ngoại)
Gà Lương Phượng (giống ngoại)
Gà Hàn Quốc
Gà Hyline (Hyline) (giống ngoại)
Gà Hubbard (giống ngoại)
Gà Lơ-go (giống ngoại)
Gà Ai Cập (giống ngoại)
Gà còn có tên theo các danh-nhân và anh-hùng: gà Tiết-Nhơn-Quý, gà Tiểu- La-Thành, gà Triệu Tử-Long, gà Thần-Ô, gà Điện-Quang, gà Nhựt-Nguyệt.
Vinh Hồ
*Nguồn: sưu tầm trên NET.